Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

22 12 2019 môn lịch sử đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.67 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, mỗi dân
tộc đều phải lựa chọn cho mình một mục tiêu, con đường phát triển, đó là
quyền tự quyết thiêng liêng của mỗi dân tộc, không thể áp đặt. Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng đắn mà Đảng ta
và dân tộc Việt Nam đã lựa chọn, là bài học lớn xuyên suốt quá trình cách
mạng Việt Nam.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 85 năm qua cho chúng ta nhận thức
sâu sắc hơn bài học độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân
tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là
cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Khơng giành được độc lập dân
tộc thì khơng có điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc thật
sự địi hỏi xóa bỏ áp bức, nơ dịch của dân tộc này với dân tộc khác, gắn liền
độc lập dân tộc với tự do, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân, do đó chỉ có
thể gắn liền với sự phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa. Chính nhờ sự kiên định
nội dung tư tưởng đó mà Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác, viết nên một lịch sử Việt Nam anh hùng với những mốc son
chói lọi: Cách mạng Tháng 8 năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ năm
1954, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và đi lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Tư tưởng đúng đắn, hợp quy luật, hợp lịng dân đó đã được Đảng quán
triệt xuyên suốt trong cả tiến trình cách mạng, đặc biệt là trong quá trình đổi
mới và xây dựng đất nước.


2
NỘI DUNG
1. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là lý tưởng, mục tiêu và là
nguồn gốc sức mạnh của cách mạng, của Đảng và của dân tộc Việt Nam
1.1. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc theo nghĩa chung nhất là quyền tự chủ, tự quyết của
dân tộc - quốc gia đối với vận mệnh của dân tộc mình, đối với việc tổ chức


các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,... trong phạm vi khơng gian
lãnh thổ của mình; chủ động thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của
quốc gia, khơng chịu sự can thiệp, chi phối mang tính áp đặt từ bên ngồi. Đối
với mỗi quốc gia - dân tộc, độc lập có nghĩa là độc lập thực sự về chính trị,
kinh tế, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giữ vững chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ.
Độc lập dân tộc của một dân tộc - quốc gia hàm chứa cả quyền bình
đẳng giữa các dân tộc - quốc gia trên thế giới, điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nêu rõ trong Tuyên ngôn Độc lập. Độc lập dân tộc phải bảo đảm chủ
quyền, bình đẳng của quốc gia - dân tộc trong các mối quan hệ quốc tế, được
pháp lý quốc tế thừa nhận và được khẳng định trên thực tế.
Độc lập dân tộc là một phạm trù lịch sử, với các giá trị được định hình
trong quá trình phát triển của lịch sử, gắn liền với cuộc đấu tranh của các quốc
gia - dân tộc. Mỗi chế độ chính trị, mỗi thời đại, mỗi quốc gia - dân tộc và
mỗi giai cấp có quan niệm khác nhau về độc lập dân tộc. Trong tiến trình phát
triển của phong trào giải phóng dân tộc thời kỳ hiện đại đã định hình các giá
trị của độc lập dân tộc theo các quyền dân tộc cơ bản: độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Trong thời đại hiện nay, khi mà tồn cầu hóa là một xu thế tất yếu, thì
khái niệm “độc lập” hồn tồn khơng có nghĩa là sự biệt lập, đóng kín tuyệt
đối của một quốc gia nào đó. Tự tách biệt mình khỏi khu vực và thế giới thì
quốc gia - dân tộc khơng những khơng có cơ hội phát triển mà sẽ bị cơ lập
trước tồn thế giới . Độc lập, chủ quyền, lợi ích của mỗi quốc gia phải thống


3
nhất với mục tiêu đấu tranh chung của thời đại, của tất cả các dân tộc trên thế
giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; mỗi quốc gia phải
đồng hành, chia sẻ cùng thế giới trong giải quyết các vấn đề mang tính tồn
cầu.

Gắn với hồn cảnh lịch sử Việt Nam ln bị các thế lực thực dân, đế
quốc âm mưu chia cắt lãnh thổ thì độc lập dân tộc ln đi liền với thống nhất
đất nước, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải; độc lập của dân tộc - quốc gia gắn liền
với bình đẳng, đồn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển của các dân tộc chủng tộc.
Chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với 03 phạm trù chủ yếu: là một
học thuyết, là một phong trào cách mạng, là một chế độ xã hội.
- Với phạm trù chủ nghĩa xã hội là một học thuyết khoa học và cách
mạng, Chủ nghĩa Mác đã chỉ ra cơ sở khoa học, quy luật khách quan của sự
phát triển xã hội để đi tới chủ nghĩa xã hội - một chế độ xã hội xây dựng trên
cơ sở giải phóng triệt để giai cấp cần lao, giải phóng triệt để xã hội và con
người1.
- Với phạm trù chủ nghĩa xã hội là một phong trào cách mạng: từ cuộc
Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917), chủ nghĩa xã hội trở thành một
phong trảo cách mạng rộng lớn, diễn ra rộng khắp trên thế giới. Phong trào
cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thực tế đã đồng hành, gắn bó chặt chẽ với
phong trào giải phóng dân tộc và cuộc đấu tranh của các quốc gia nhằm bảo
vệ, củng cố nền độc lập dân tộc, chống mọi hình thức can thiệp hay áp đặt bất
cơng từ bên ngồi của các thế lực đế quốc, thực dân.
- Với phạm trù chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội: Bản chất là một
xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; đời sống của nhân dân ngày càng được cải
thiện cả về vật chất và tinh thần, giàu có, ấm no, hạnh phúc; trên phương diện
chính trị thì quyền lực thuộc về nhân dân, dưới sư lãnh đạo của Đảng Cộng
1 PGS, TS Nguyễn Phú Trọng (Chủ biên): Về định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên

chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2001, tr. 13.


4
sản; trên phương diện xã hội là xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn

minh; trên phương diện văn hóa là giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, tiếp
thu các giá trị văn hóa tiến bộ, phù hợp của nhân loại; trên phương diện quốc
tế là quan hệ hợp tác, hữu nghị, đấu tranh vì hịa bình, công bằng, tiến bộ xã
hội, cùng chia sẻ với cộng đồng thế giới các thách thức mang tính tồn cầu.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa xã hội có thể thực hiện thành
cơng, thậm chí có những mặt thuận lợi khi xây dựng ở một nước thuộc địa
phương Đơng. Người cho rằng, chính sự tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế
quốc đã giúp cho nhân dân các dân tộc bị áp bức hiểu rõ hơn về bản chất của
nó, khơng ảo tưởng vào chủ nghĩa đế quốc; càng khát khao độc lập, tự do.
Ngay từ đầu, chủ nghĩa xã hội có sức hấp dẫn lớn đối với các dân tộc thuộc
địa và đây là tiền đề tư tưởng rất quan trọng cho mục tiêu và sự nghiệp
giải phóng dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực tế lịch sử đã
chứng minh nhận định vô cùng chính xác của Hồ Chí Minh với sự xuất hiện
và lớn mạnh của những quốc gia xã hội chủ nghĩa vốn là thuộc địa
hoặc phụ thuộc vào thực dân, đế quốc.
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã xây dựng học thuyết về chủ nghĩa xã
hội và các ông luôn đề cao vấn đề dân tộc, ủng hộ các dân tộc bị áp bức giành
độc lập dân tộc, hướng tới xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp. Theo các ông,
bản thân giai cấp vô sản phải đại biểu cho phong trào dân tộc và tự mình trở
thành dân tộc. Lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin đã kết hợp ba cuộc cách mạng
trong một chỉnh thể: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người. Nhờ đó mà sức mạnh dân tộc được nhân lên gấp bội. Học thuyết về
chủ nghĩa xã hội đề cao các giá trị dân tộc, phát huy các giá trị độc lập dân
tộc, thực hiện bình đẳng dân tộc trong một thế giới đại đồng. Đây là lần đầu
tiên trong lịch sử nhân loại xuất hiện một học thuyết khoa học và cách mạng,
với mục đích giải quyết toàn diện và triệt để các vấn đề về dân tộc, độc lập
dân tộc, bình đẳng dân tộc.
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu tốt đẹp, là phương hướng tiến lên của sự
nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc. Phong trào giải phóng dân tộc và



5
phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa luôn gắn bó chặt chẽ, truyền thêm sức
mạnh cho nhau để đạt những thành quả to lớn trong lịch sử và hiện tại.
Những giá trị của mỗi cá nhân, cộng đồng, quốc gia và nhân loại có
mối quan hệ biện chứng với nhau. Theo Hồ Chí Minh, nếu nước được độc lập
mà dân vẫn khơng được hưởng tự do hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có ý
nghĩa gì. Giành được độc lập dân tộc, nhất định phải đưa dân tộc đi lên chủ
nghĩa xã hội, bởi những giá trị đích thực của độc lập dân tộc chỉ có thể đạt
được trong chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là tiền đề chính trị tiên quyết để
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, dân tộc mới phát huy cao
độ sức mạnh của mình trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng, trong xây dựng đất
nước, nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, củng cố vững chắc độc lập dân tộc.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là yếu tố quan trọng khơi dậy sức mạnh của
dân tộc, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi to lớn của dân tộc ta.
Tóm lại, những giá trị của độc lập dân tộc và của chủ nghĩa xã hội luôn
hàm chứa trong nhau. Độc lập dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân chính là
bản chất của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chính là hệ giá
trị độc lập, tự do, hạnh phúc thơng qua giải phóng dân tộc và giải phóng giai
cấp, thực hiện các mục tiêu (đồng thời là thước đo) của chủ nghĩa xã hội là
phát triển con người và xã hội, cá nhân và cộng đồng.
1.2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là lựa chọn khách
quan của lịch sử Việt Nam
Các phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
theo lập trường phong kiến hay dân chủ tư sản, tiểu tư sản đều có mục tiêu
giành độc lập cho dân tộc nhưng lại sai lầm trong xác định đường lối, con
đường phát triển và phương pháp đấu tranh, qua khảo nghiệm của lịch sử đều
lần lượt thất bại. Chỉ có xu hướng yêu nước theo lập trường của giai cấp vơ
sản, gắn giải phóng dân tộc với chủ nghĩa xã hội được khẳng định cả về
phương diện khoa học và thực tiễn, được phong trào công nhân và phong trào

yêu nước Việt Nam chấp nhận và thực hiện. Chính thực tiễn lịch sử đã khách
quan lựa chọn con đường cách mạng vô sản là con đường cứu nước, giải


6
phóng dân tộc. Sự phát triển theo quỹ đạo cách mạng vơ sản đã đưa sự nghiệp
giải phóng dân tộc Việt Nam đi đến thành công, nhân dân đã giành lại và củng
cố vững chắc nền độc lập dân tộc, là cơ sở vững chắc để phát triển đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Khi đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã khảo nghiệm
thực tiễn tại nhiều nước tư bản chủ nghĩa, nghiên cứu về cách mạng tư sản;
song Người không lựa chọn con đường cách mạng tư sản vì cho rằng con
đường đó khơng mang lại quyền lợi thực sự cho quần chúng lao động và
không mở đường cho độc lập của các dân tộc thuộc địa. Khi đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở lý luận cách mạng đó con
đường cứu nước đúng đắn, gắn liền giải phóng dân tộc với giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người, tức là phải đi tới chủ nghĩa xã
hội. Sự gặp gỡ giữa Nguyễn Ái Quốc với chủ nghĩa Mác-Lênin là sự gặp
gỡ tất yếu giữa chủ nghĩa yêu nước với hệ tư tưởng khoa học và Cách mạng
của thời đại. Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, gieo hạt
giống chủ nghĩa xã hội vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam. Từ nghiên cứu lý luận và khảo nghiệm thực tiễn của các nước,
Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Chủ nghĩa xã hội hoàn tồn có thể thực hiện
được ở Châu Á nói chung và Đơng Dương nói riêng, trong đó có Việt Nam.
Con đường cách mạng Việt Nam gần một thế kỷ qua đã chứng minh tính đúng
đắn của nhận định đó.
Mùa xn năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đảng Cộng sản
Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước của dân tộc Việt Nam. Từ đây, dân tộc
Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã tìm thấy con đường cách mạng đúng

đắn để tự giải phóng mình, xóa bỏ ách nơ lệ, tiến tới độc lập tự do; sự nghiệp
giải phóng dân tộc gắn liền với sự nghiệp giải phóng những người lao động bị
bóc lột, áp bức, giải phóng tồn xã hội; cuộc đấu tranh giải phóng của nhân
dân Việt Nam gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng của giai cấp cơng nhân
và nhân dân lao động thế giới. Nhờ được dẫn dắt bởi lý tưởng, mục tiêu của


7
giai cấp công nhân, phong trào yêu nước và đấu tranh cứu nước của dân tộc
Việt Nam đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước, đã nhìn
thấy triển vọng lịch sử, đã đi trên con đường lớn của lịch sử: độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
1.3. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nguồn gốc
sức mạnh của cách mạng Việt Nam
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội khơng chỉ là lý tưởng, mục tiêu mà
cịn trở thành động lực mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam. Khát vọng độc lập
cho dân tộc, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân có ý nghĩa to lớn trong việc tập
hợp, đoàn kết mọi giai cấp, tầng lớp và thành phần trong dân tộc, tạo nên lực
lượng cách mạng rộng lớn và sức mạnh to lớn. Mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội tốt
đẹp của nhân dân Việt Nam. Gắn với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội,
tinh thần độc lập, tự chủ, tự tôn dân tộc luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam
phát huy với quy mô và chất lượng mới.
Vượt qua những hạn chế của lập trường phong kiến, lập trường
tư sản, chủ nghĩa xã hội đã đưa đến những nội dung mới và triệt để trong việc
giải quyết vấn đề độc lập dân tộc. Đó là: Độc lập dân tộc trên cơ sở độc lập
thực sự về kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao; độc lập dân tộc phải bảo
đảm xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột và nô dịch của dân tộc này với dân tộc
khác cả về kinh tế, chính trị va tinh thần; quan hệ giữa các nước dựa trên
nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tơn trọng chủ quyền dân tộc, cùng đóng

góp vào lợi ích chung của các dân tộc, vì hịa bình thế giới, vì sự tiến bộ của
lồi người. Những giá trị đó chỉ có thể đạt được ở chủ nghĩa xã hội. Chỉ
với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt được giá trị chân thực của nó,
đưa dân tộc tới sự phồn vinh về kinh tế, phong phú về tinh thần, dân chủ được
bảo đảm. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, dân tộc mới phát huy cao độ sức mạnh
của mình trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng, trong xây dựng đất nước,
nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, củng cố vững chắc độc lập dân tộc.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là yếu tố quan trọng khơi dậy sức mạnh


8
của dân tộc, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi to lớn của dân tộc ta.
2. Những bài học rút ra trong quá trình phát triển nhận thức của
Đảng Cộng sản Việt Nam về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam (2-1930) nêu rõ mục tiêu đấu
tranh của cách mạng và dân tộc Việt Nam là giành độc lập dân tộc để đi tới xã
hội cộng sản. Cương lĩnh đã bao quát được nhiệm vụ đấu tranh giải phóng
dân tộc với những giá trị đích thực của độc lập dân tộc và phương hướng tiến
lên của dân tộc, giải quyết được cả yêu cầu phát triển của dân tộc và của xã
hội Việt Nam. Đó là sự lựa chọn đúng đắn, dứt khốt, sự lựa chọn của chính
lịch sử. Trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam, đường lối độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã trải qua các giai đoạn phát triển với
nội dung, hình thức, bước đi phù hợp với đặc điểm mỗi thời kỳ lịch sử. Cụ thể
như sau:
- Thời kỳ 1930 - 1945: Ở thời kỳ này, độc lập dân tộc là nhiệm vụ trọng
tâm trước hết, đấu tranh giành độc lập dân tộc là nội dung chủ đạo, được tiến
hành theo lập trường của giai cấp vô sản; mục tiêu chủ nghĩa xã hội chưa
được đặt ra trực tiếp mà là phương hướng tiến lên và để thực hiện mục tiêu
đó, trước hết phải tiến hành đấu tranh giành độc lập dân tộc. Đường lối
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện ở

hai nội dung chủ yếu:
(i) Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước tiên phải giành được độc lập
dân tộc; độc lập dân tộc là điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội bởi lẽ:
Thứ nhất, chưa giành được độc lập dân tộc thì chưa có điều kiện giải
quyết đầy đủ các vấn đề khác như quyền lực chính trị thuộc về nhân dân, đảng
cộng sản trở thành đảng cầm quyền, giải quyết vấn đề ruộng đất, cải thiện đời
sống nhân dân, nâng cao dân trí,…
Thứ hai, chủ nghĩa yêu nước là một động lực to lớn của đông đảo các
giai tầng trong xã hội, cần được triệt để phát huy trong đấu tranh giải phóng
dân tộc. Đề cao trước hết nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Đảng sẽ tập hợp được
không chỉ giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân mà cịn cả các tầng lớp trên,


9
kể cả trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc làm lực lượng cách mạng; đồng
thời, trong tiến trình cách mạng dân tộc dân chủ từng bước cải biến họ, làm cơ
sở tiếp bước lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nơng dân được hưởng
nhiều quyền lợi to lớn: đánh đuổi thực dân, trở thành người dân của quốc gia
độc lập tự do, đồng thời xóa các thứ thuế vơ lý, được chia cơng điền và nhiều
quyền lợi kinh tế, chính trị khác,…
(ii) Cách mạng xã hội chủ nghĩa tuy là phương hướng tiến lên nhưng lại
có ảnh hưởng quyết định đến tính chất triệt để và tạo ra sức mạnh hùng hậu
của cách mạng giải phóng dân tộc. Tính triệt để và sức mạnh của cách mạng
giải phóng dân tộc bắt nguồn từ mục tiêu của cách mạng là giải phóng dân tộc
kết hợp với từng bước giải phóng giai cấp, tạo tiền đề tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Tư tưởng đó vừa động viên được tầng lớp trên, vừa động viên được các
tầng lớp nhân dân lao động trong cả nước tham gia cuộc chiến đấu giành độc
lập dân tộc.
- Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954): Sau khi

giành được chính quyền cách mạng trong cả nước, trong hoàn cảnh thù trong,
giặc ngoài, mâu thuẫn dân tộc vẫn còn tồn tại gay gắt, Đảng xác định nhiệm
vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là bảo vệ độc lập dân tộc, với tinh
thần “Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên hết”. Trong tiến trình của cuộc kháng
chiến, Đảng đề ra chủ trương vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ dân chủ
mới - chế độ nhân dân làm chủ. Đối với nhiệm vụ giải phóng giai cấp, cải
cách ruộng đất, Đảng chủ trương tiếp tục tiến hành từng bước, sát với tiến
trình thực hiện nhiệm vụ chống đế quốc và phục vụ nhiệm vụ chống đế quốc.
Nhiều tiền đề của chủ nghĩa xã hội được tạo dựng: Cơng cuộc xây dựng chính
quyền mới, chính quyền của dân, do dân, vì dân đạt được nhiều thanh tựu
quan trọng.
Chế độ mới không chỉ là lực lượng tinh thần mà còn là lực lượng vật
chất to lớn, bảo đảm thắng lợi của cuộc kháng chiến. Chế độ dân chủ mới là
thành quả quan trọng của cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, là


10
một động lực đưa cuộc kháng chiến đến thành công, đồng thời là tiền đề trực
tiếp cho chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ tiếp theo.
Thời kỳ 1954 - 1975: Khi miền Bắc được giải phóng nhưng miền Nam
vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, Đảng
khẳng định đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ cách mạng: (i) Tiếp tục hoàn
thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và (ii) Tiến hành xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Ở miền Bắc, chủ nghĩa xã hội khơng cịn
là định hướng mà đã trở thành mục tiêu trực tiếp. Do nhu cầu cải tạo quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Đảng đã chỉ đạo tiếp tục tiến hành cải cách ruộng đất và giảm tô. Cải cách
ruộng đất tuy đạt được những thành tựu cơ bản, quan trọng nhưng đã phạm
phải khơng ít sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng. Từ năm 1956, việc sửa sai
đã được tiến hành nhằm phát huy thắng lợi đã đạt được, củng cố khối đại

đoàn kết dân tộc, tạo tiền đề cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu
tranh thống nhất đất nước.
Vì nhân dân cả nước đều có nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước, nên chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc là chủ nghĩa xã hội thời chiến mang những nét đặc
trưng riêng biệt. Trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, Đảng không chỉ vận dụng quy luật của bản thân chủ nghĩa xã hội mà còn
vận dụng cả quy luật của chiến tranh cách mạng. Động lực phát triển kinh tế
không chỉ là sự kết hợp các lợi ích, coi lợi ích Tổ quốc là tối cao, với lòng yêu
nước nồng nàn của nhân dân, mà còn từ khát vọng xây dựng một xã hội bình
đẳng, khơng có áp bức, bóc lột. Những thành tựu kinh tế của miền Bắc góp
phần đảm bảo trước hết yêu cầu chi viện cao nhất cho tiền tuyến, đồng thời
bảo đảm đáp ứng nhu cầu tối thiểu và từng bước nâng cao đời sống của nhân
dân. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng ở miền Bắc đã tạo ra sức mạnh tinh
thần cổ vũ mạnh mẽ nhân dân cả nước và sức mạnh vật chất to lớn phục vụ
các yêu cầu của cuộc chiến tranh giải phóng. Nhờ thành tựu xây dựng chủ
nghĩa xã hội, miền Bắc đã thể hiện được vai trò quyết định nhất giành thắng
lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Những thành tựu của miền


11
Bắc còn tạo dựng tiền đề quan trọng cho thời kỳ cả nước cùng quá độ lên chủ
nghĩa xã hội sau này.
Sức mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta là kết
quả của quá trình phát huy cao độ mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh của chế độ mới được khơi dậy trên nền tảng
của tinh thần dân tộc và chủ nghĩa yêu nước. Nhân dân hai miền Nam - Bắc
cùng chung sức, phối hợp đánh thắng đế quốc Mỹ trên cả hai miền đất nước.
Miền Nam đã thể hiện đầy đủ nhất, xuất sắc nhất vai trò quyết định trực tiếp
đánh đuổi đế quốc Mỹ ra khỏi miền Nam, đánh đổ chế độ thân Mỹ đồng thời
góp phần bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Nhân dân Việt Nam đã vượt qua

mọi khó khăn, gian khổ để đi đến thắng lợi cuối cùng - hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ 1975 đến nay, Đảng ta đã lãnh đạo xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
- Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc là điều kiện để tiến lên chủ nghĩa
xã hội; tăng cường sức mạnh của chủ nghĩa xã hội để củng cố độc lập dân tộc.
Sau nhiều thập kỷ đấu tranh gian khổ, dân tộc Việt Nam đã giành lại
trọn vẹn nền độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, mở ra thời kỳ mới trong
lịch sử dân tộc - thời kỳ cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Những giá
trị của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được thể hiện trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong bối
cảnh mới, những tiềm năng, lợi thế của cả hai miền đất nước được huy động,
tập trung cho sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng nền độc lập dân
tộc chưa được củng cố, vẫn tồn tại nhiều nguy cơ xâm phạm đến chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ. Đất nước còn lạc hậu về kinh tế. Nhân dân còn nghèo. Các
thế lực thù địch thường xuyên chống phá bằng âm mưu “diễn biến hịa bình”,
kết hợp với răn đe quân sự và bạo loạn chính trị. Bởi vậy, trong mối quan hệ
giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã
hội được đặt ở vị trí ưu tiên. Phấn đấu để xây dựng Tổ quốc từ một nước còn
nghèo nàn, lạc hậu trở thành một nước “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc


12
lên chủ nghĩa xã hội”; không ngừng nâng cao sức mạnh tổng hợp của quốc
gia và vị thế của quốc gia trên trường quốc tế, là yêu cầu cấp thiết và có ý
nghĩa quyết định để củng cố nền độc lập dân tộc. Giữ vững độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là điều kiện cực kỳ quan trọng, tạo
môi trường thuận lợi để xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đổi mới - con đường và điều kiện bảo đảm kết hợp mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đối với Việt Nam, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ
nghĩa, mà nhằm làm cho mục tiêu đó đạt được bằng những bước đi, phương
thức và biện pháp phù hợp hơn. Với ý nghĩa đó, đồng chí Nguyễn Phú Trọng
đã nêu: “Chủ nghĩa xã hội chúng ta lựa chọn cũng không phải là chủ nghĩa
xã hội bị hiểu sai và làm sai như trước đây, mà là chủ nghĩa xã hội đích thực,
chủ nghĩa xã hội đúng đắn”2.
Công cuộc đổi mới ở nước ta trong hơn 3 thập kỷ qua, nhờ sự nỗ lực,
thống nhất cao độ của toàn Đảng, toàn dân đã đạt được những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu đó chẳng những hiện thực hóa
từng bước giá trị của chủ nghĩa xã hội mà còn nâng cao vị thế đất nước, tăng
cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, củng cố nền độc lập dân tộc.
- Xác định đúng các chặng đường của thời kỳ quá độ, hoạch định chính
xác nhiệm vụ, mục tiêu cho mỗi chặng đường mới bảo đảm kết hợp chặt chẽ
giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cả nước bắt
tay vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh gặp vơ vàn khó
khăn vì điểm xuất phát thấp, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh kéo dài,
đời sống nhân dân cịn rất khó khăn. Trong chặng đường đầu quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng phải xác định đúng hình thức, bước đi, giải pháp, chiến
lược xây dựng đất nước nhằm một trong những mục tiêu cơ bản là ổn định
tình hình kinh tế - xã hội.
2 PGS, TS Nguyễn Phú Trọng (Chủ biên): Về định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên

chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2001, tr. 21.


13
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến nay, với đường lối đổi
mới toàn diện, chúng ta đã giành được nhiều thành tựu quan trọng về đổi mới
tư duy lý luận; tạo nên những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế, sản

xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu; cải thiện đời
sống nhân dân; giữ vững quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ hợp tác quốc
tế,... Đây là những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Lịch sử chỉ rõ, chỉ xác định đúng các chặng đường trong thời kỳ quá
độ, xác định đúng mục tiêu, nhiệm vụ của mỗi chặng đường, Đảng mới kết
hợp thành công độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Công cuộc đổi mới ở nước ta trong gần 3 thập kỷ qua, nhờ sự nỗ lực,
thống nhất cao độ của toàn Đảng, toàn dân đã đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu đó chẳng những hiện thực hóa từng
bước giá trị của chủ nghĩa xã hội mà còn nâng cao vị thế đất nước, tăng cường
sức mạnh tổng hợp quốc gia, củng cố nền độc lập dân tộc.
Tóm lại, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có quan hệ mật thiết, tác
động và quyết định lẫn nhau trong tiến trình xây dựng và bảo vệ đất nước.
Độc lập dân tộc là khát vọng, cũng là tiền đề để đưa đất nước phát triển theo
con đường xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cao cả, là đích phải
đi tới và cũng là điều kiện để bảo đảm vững chắc độc lập dân tộc. Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển của cách mạng và dân
tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Những giá trị tốt đẹp của độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chỉ đạo toàn bộ tiến trình đấu tranh
giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước của nhân dân Việt Nam. Gắn độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội, Đảng đã huy động được lực lượng to lớn nhất
trong dân tộc là các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh
vì độc lập dân tộc. Giành được độc lập dân tộc mà không tiếp tục định hướng
xã hội chủ nghĩa là phản bội những lớp người đã chiến đấu hy sinh vì lý
tưởng này ngay từ trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, đồng thời
độc lập dân tộc cũng không được bảo đảm vững chắc.
Nhận thức của Đảng về mối quan hệ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã


14

hội là nhận thức khoa học, nhất quán. Đảng đã không ngừng tổng kết nội
dung độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội qua các chặng đường đấu tranh cách
mạng, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới để làm rõ nội dung độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là ngun tắc chỉ
đạo tồn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh, đường lối, chủ
trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, mọi hoạt động của các tổ chức
trong hệ thống chính trị đều phải quán triệt ngun tắc đó. Mọi cán bộ, đảng
viên cơng chức phải nắm vững nguyên tắc đó và thể hiện trong hành động
hoạt động thực tiễn, trong tư duy, tình cảm và đạo đức.
3. Vận dụng những bài học giữa mối quan hệ độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội vào thực tiễn tại Đảng bộ Ủy ban Quản lý vốn
nhà nước tại doanh nghiệp
Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (sau đây viết tắt là Ủy
ban) là cơ quan thuộc Chính phủ, được thành lập theo Nghị quyết số 09/NQCP ngày 03/02/2018 của Chính phủ. Ủy ban được Chính phủ giao thực hiện
quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp do
Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và phần vốn nhà nước đầu tư tại công ty
cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên theo quy định của
pháp luật.
Ngay sau khi Ủy ban được thành lập, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối cơ
quan Trung ương đã ban hành Quyết định số 1262-QĐ/ĐUK ngày 09/4/2018
về thành lập Chi bộ Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Đảng bộ Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp được thành
lập trên cơ sở nâng cấp Chi bộ Ủy ban tại Quyết định số 1618-QĐ/ĐUK ngày
27/12/2018 của Đảng ủy Khối cơ quan Trung ương.
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng: lấy phát triển kinh tế là trung
tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa, xã hội là nền tảng tinh
thần của xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên. Kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ủy Ủy ban Quản lý vốn nhà
nước tại doanh nghiệp đã từng bước khẳng định được vai trò lãnh đạo, chỉ đạo



15
của mình đối với các cấp ủy đảng doanh nghiệp trong việc thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần quan trọng xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công cuộc đổi mới và xây
dựng đất nước.
Các tập đoàn, tổng công ty trong trực thuộc đã nỗ lực vượt qua các khó
khăn để thực hiện vai trị là cơng cụ vật chất quan trọng để Đảng, Nhà nước
đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mơ, kiềm chế lạm
phát, giảm lãi suất tín dụng, từng bước phục hồi lại đà tăng trưởng kinh tế của
đất nước. Các doanh nghiệp trực thuộc Ủy ban tiếp tục giữ vai trò là lực
lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh
lương thực,… là trụ cột trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như: dầu
khí, điện, khai thác than và khống sản, dịch vụ bưu chính, viễn thông, hàng
không, hàng hải, đường sắt,... Trong những năm qua, các doanh nghiệp trực
thuộc Ủy ban vừa duy trì, phát triển sản xuất kinh doanh, đồng thời vừa tập
trung thực hiện nhiệm vụ tái cơ cấu, cổ phần hóa, nâng cao hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước. Vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp cơ
bản được bảo toàn và phát triển, giá trị vốn chủ sở hữu tăng trưởng liên tục
trên 12%/năm. Hằng năm, các doanh nghiệp trực thuộc Ủy ban đóng góp 23 25% GDP của nền kinh tế đất nước, nộp ngân sách chiếm khoảng gần 1/3
tổng nguồn thu ngân sách quốc gia.
Các tập đoàn, tổng công ty trực thuộc cũng luôn đi đầu trong thực hiện
Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ
về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện
nghèo và các hoạt động an sinh xã hội. Ngoài ra, hoạt động tích cực của các
doanh nghiệp trực thuộc Ủy ban tại các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải
đảo cũng góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội và củng cố quốc
phòng, an ninh và an sinh xã hội của đất nước.
Ủy ban cũng đã lãnh đạo các doanh nghiệp trực thuộc quan tâm chú
trọng công tác tiếp cận, hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc tăng cường

năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh, mở rộng đầu tư ra nước ngồi bước đầu có kết


16
quả, góp phần thúc đẩy quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế, uy tín của doanh
nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế.
Quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013
về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và Chỉ thị số 46-CT/TW
ngày 22/6/2015 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác bảo
đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới”, Đảng ủy Ủy ban đã lãnh đạo đã
phối hợp chỉ đạo các đảng bộ doanh nghiệp chú trọng phối hợp với cấp ủy
Đảng, chính quyền địa phương, lực lượng vũ trang làm tốt công tác phát triển
kinh tế gắn với quốc phịng an ninh, bảo vệ mơi trường. Trong đó, đặc biệt
chú trọng đến các vùng trọng điểm, nhạy cảm như Biển Đông, Tây Bắc, Tây
Nguyên, Tây Nam Bộ. Một số cơng trình, dự án phục vụ quốc phịng, an ninh
theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) về Chiến lược biển Việt
Nam đến năm 2020 đã được nghiên cứu, triển khai thực hiện, góp phần quan
trọng vào phát triển kinh tế, xã hội ở các địa phương và bảo vệ chủ quyền
biên giới, hải đảo Tổ quốc. Các doanh nghiệp, đơn vị trực thuộc Ủy ban luôn
triển khai thực hiện nghiêm túc Luật dân quân tự vệ. Thường xuyên quan tâm
xây dựng lực lượng tự vệ trong đơn vị để sẵn sàng thực hiện và hoàn thành tốt
nhiệm vụ khi có u cầu. Tích cực thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an ninh trật tự
tại địa phương nơi đơn vị đặt trụ sở, chi nhánh, văn phòng giao dịch,...
Ủy ban thường xuyên quan tâm lãnh đạo, tổ chức thực hiện tốt công tác
bảo vệ môi trường, phịng chống thiên tai, biến đổi khí hậu. Hầu hết các dự án
đầu tư phát triển đều đặc biệt quan tâm đến công tác bảo vệ môi trường từ
khâu nghiên cứu đến khi triển khai đầu tư xây dựng và vận hành dự án. Nhiều
doanh nghiệp đã thực hiện tốt và nghiêm túc cơng tác phịng cháy, chữa cháy,
xây dựng, lắp đặt các thiết bị xử lý nước thải; các doanh nghiệp trực thuộc Ủy
ban thực hiện tốt việc xây dựng quỹ bảo vệ mơi trường, tích cực và có trách

nhiệm trong cơng tác phịng chống biến đổi khí hậu theo chủ trương của Đảng
và Nhà nước.
Bên cạnh lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, Đảng uỷ Ủy ban cũng
luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng; đề ra những phương thức phối hợp,


17
lãnh đạo đổi mới, sáng tạo, phù hợp với thực tế hoạt động của các doanh
nghiệp trực thuộc. Các cấp uỷ doanh nghiệp đã chủ động nghiên cứu, kịp thời
báo cáo cấp trên xây dựng, ban hành và sửa đổi nghị quyết, chỉ thị, kết luận
để lãnh đạo, chỉ đạo, tháo gỡ các vướng mắc phát sinh trong thực hiện nhiệm
vụ sản xuất, kinh doanh và đầu tư, công tác xây dựng Đảng. Các mặt công tác
xây dựng đảng về chính trị tư tưởng, tổ chức cán bộ, kiểm tra giám sát và
công tác dân vận được các cấp ủy đảng doanh nghiệp quan tâm triển khai
đồng bộ, đúng quy định, bám sát các nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Vai trị lãnh đạo của Đảng trong các doanh
nghiệp được khẳng định và nâng cao, đóng góp quan trọng xây dựng Đảng bộ
trong sạch, vững mạnh và góp phần thiết thực thúc đẩy thực hiện chủ trương,
chính sách của Đảng, Chính phủ đối với doanh nghiệp nhà nước.


18
KẾT LUẬN
Như vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không chỉ là mục tiêu, là
nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực,
là niềm tin sắt son. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai
sức mạnh thành một sức bật mới, là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, là sợi chỉ đỏ xun suốt trong tồn bộ tiến trình cách mạng của dân tộc
từ ngày Đảng ra đời đến nay và cho cả tương lai. Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)” tiếp tục
khẳng định: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn
cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và
các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập
dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là
hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau”. Gương cao ngọn cờ
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bước vào thế kỷ XXI, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi
to lớn hơn trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố,
xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục
tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh, tiến kịp và sánh vai
cùng các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.


19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình cao cấp lý luận
chính trị: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb.Lý luận chính trị, H.2018.
2. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh: Q trình
đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay, Nxb.Chính trị quốc gia,
H.2008, tr.195-206.
3. PGS, TS Nguyễn Phú Trọng (Chủ biên): Về định hướng xã hội chủ
nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb.Chính trị quốc
gia, H.2001, tr.9-22.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, XII Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, tr.63-90.




×