Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Phân tích thực trạng triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.93 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TÓM TẮT LUẬN VĂN </b>



Ở nước ta, Đảng và Nhà nước rất quan tâm và coi trọng công tác An sinh xã
hội (ASXH), nhất là hệ thống bảo hiểm xã hội (BHXH). Đặc biệt, trong bối cảnh
suy thoái kinh tế thế giới như hiện nay thì việc củng cố và phát triển hệ thống bảo
hiểm xã hội với vai trị trụ cột chính của hệ thống An sinh xã hội Quốc gia là càng
cần thiết.


Bảo hiểm xã hội bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 1930 của thế kỷ
20 và khơng ngừng được hồn thiện, phát triển để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử.


Ngày 29 tháng 6 năm 2006 Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã ban hành Luật bảo hiểm xã hội. Theo đó, chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện
có hiệu lực từ ngày 01/01/2008 áp dụng đối với người lao động trong độ tuổi không
phải là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc thuộc mọi thành phần kinh tế đều được
quyền tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH.


Đây là bộ luật được thể chế hóa ở mức cao những nhu cầu rất cơ bản về
ASXH của con người (bao gồm BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, bảo hiểm thất
nghiệp), trong đó BHXH tự nguyện được áp dụng cho đối tượng là người lao động
khu vực phi chính thức, tức là người lao động làm việc không thuộc phạm vi tham
gia BHXH bắt buộc. Việc triển khai BHXH tự nguyện mặc dù còn mới, nhưng do
hệ thống BHXH có bộ máy tổ chức hoạt động đến cấp huyện nên rất thuận lợi cho
người lao động tiếp cận để tham gia. Tuy nhiên, qua 5 năm triển khai, số lượng
người lao động tham gia BHXH tự nguyện còn rất hạn chế; khoảng 144.000 người
trong năm 2012 (chiếm 0,15% số đối tượng thuộc diện tham gia theo quy định của
pháp luật) chưa đáp ứng được nhu cầu của người lao động khu vực phi chính thức,
cũng như định hướng phát triển của Đảng, Nhà nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

nên đã thu hút một số lượng lớn lao động (khoảng 3,5 triệu lao động) tham gia vào


tất cả các ngành nghề kinh tế. Số lao động trong độ tuổi lao động rất lớn, chiếm
45% lực lượng lao động. Điều này rất thuận lợi cho việc phát triển mạng lưới
BHXH trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên, số người tham gia vẫn chiếm tỷ lệ rất
nhỏ, khoảng 0,2% so với dân số trong độ tuổi lao động của Thành phố. Hơn nữa,
tham gia BHXH tự nguyện chủ yếu là những lao động đã có thời gian tham gia
BHXH bắt buộc, đóng thêm để đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí, chưa mở rộng
được tới số lao động đông đảo trong các làng nghề, trong các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, nông dân ở các vùng ngoại thành Hà Nội.


Nguyên nhân của vấn đề này là do: trình độ học vấn và nhận thức xã hội còn
nhiều hạn chế; lao động phần lớn chưa qua đào tạo; việc làm bấp bênh; thu nhập thấp
đã ảnh hưởng lớn đến việc triển khai thực hiện BHXH tự nguyện cho người lao động
thuộc khu vực này. Vậy làm thế nào để người lao động nhận thức được sự cần thiết
phải tham gia BHXH; Giải pháp nào giải quyết việc tham gia BHXH của người lao
động khi thu nhập bấp bênh? Vấn đề thể chế và tổ chức thực hiện ra sao? vv...


<i><b>Xuất phát từ thực tế trên, tác giả quyết định chọn đề tài: “Phân tích thực </b></i>
<i><b>trạng triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội” để </b></i>
nghiên cứu.


<b>Mục đích nghiên cứu của đề tài là hệ thống hóa những vấn đề lý luận về </b>
BHXH và BHXH tự nguyện, phân tích những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên
nhân hạn chế trong q trình triển khai chính sách BHXH tự nguyện trên địa bàn
<b>thành phố Hà Nội. Từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển BHXH </b>
<b>tự nguyện trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới. </b>


<b>Trong quá trình nghiên cứu, Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu </b>
<b>như: Phương pháp nghiên cứu lý thuyết và tổng kết thực tiễn; Phương pháp thống </b>
kê; Phương pháp phân tích tổng hợp và tư duy logic.



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>nguyện trên địa bàn TP Hà Nội; Chương 3, Giải pháp phát triển BHXH tự nguyện </i>
trên địa bàn TP Hà Nội.


<i><b>Luận văn có những đóng góp cơ bản sau: </b></i>


<i>Thứ nhất, Đề tài luận văn hệ thống hóa và góp phần làm sáng tỏ những vấn đề </i>
<i>lý luận về Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm xã hội tự nguyện trên cơ sở đó áp dụng và </i>
<i>phân tích thực trạng tại thành phố Hà Nội. Cụ thể những điểm chính như sau: </i>


Luận văn đã hệ thống và lý luận sự ra đời tất yếu khách quan của bảo hiểm
xã hội, đưa ra được khái niệm về bảo hiểm xã hội nói chung, khái niệm về bảo hiểm
xã hội tự nguyện nói riêng.


<i>BHXH là tổng thể các mối quan hệ kinh tế - xã hội giữa Nhà nước, người lao </i>
<i>động và người sử dụng lao động. Là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp mất một </i>
<i>phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm </i>
<i>giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm, bằng cách hình thành và sử </i>
<i>dụng một quỹ tài chính tập trung do sự đóng góp của người sử dụng lao động, </i>
<i>người lao động và sự bảo trợ của Nhà nước, nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống cho </i>
<i>người lao động và cho gia đình họ, góp phần bảo đảm an sinh xã hội. </i>


Bảo hiểm xã hội tự nguyện là hình thức Nhà nước đưa ra các quy định pháp
luật về bảo hiểm, mọi người dân có thể tự nguyện tham gia theo đúng quy định đó.


Bản chất của bảo hiểm xã hội đứng trên góc độ kinh tế và xã hội là: Sự bù
đắp thay thế thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hay mất khả năng lao
động; Quá trình phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia bảo hiểm, thông
qua việc hình thành quỹ tiền tệ chuyên dùng để đáp ứng nhu cầu chi trả bảo hiểm
cho người lao động và một số thành viên trong gia đình họ khi gặp rủi ro về thu
nhập trong lao động sản xuất hoặc mất khả năng làm việc, Có sự san sẻ rủi ro giữa


những người tham gia BHXH dựa trên nguyên tắc "lấy của số đơng, bù cho số ít".


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

bảo vệ người lao động trước rủi ro về việc làm và thu nhập; BHXH là xương sống
của hệ thống ASXH, khi mở rộng các đối tượng tham gia thì nguồn thu để hình
thành quỹ bảo hiểm sẽ ngày càng lớn, đây là điều kiện kiên quyết và cơ bản nhất để
đảm bảo ASXH lâu dài, bền vững. Ngồi ra, chính sách BHXH góp phần ổn định và
tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị - xã hội.


Luận văn cũng đề cập tới đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, mức đóng,
phương thức đóng và các chế độ BHXH tự nguyện, quỹ BHXH tự nguyện, những
điểm khác biệt giữa BHXH tự nguyện và BHXH bắt buộc. Trong đó, mới chỉ thực
hiện các chế độ dài hạn như hưu trí và tử tuất. Do chế độ hưu trí được coi là chế độ
quan trọng nhất của một loại hình BHXH. Mục đích của việc tham gia BHXH hôm
nay là để được nhận mức lương hưu đủ để đảm bảo cuộc sống cho tương lai khi về
già. Ngồi ra, nó cịn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước hiện nay.


Ngồi ra, luận văn cịn chú ý phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới việc tổ
chức triển khai BHXH tự nguyện của thành phố. Việc xem xét các nhân tố đó là rất
cần thiết nhằm phân tích đưa ra các giải pháp thực hiện tốt hơn chính sách bảo hiểm
xã hội tự nguyện trên địa bàn thành phố.


Công tác tổ chức triển khai BHXH tự nguyện chịu ảnh hưởng của các nhân
tố như: hệ thống chính sách pháp luật về BHXH tự nguyện, nhận thức của người
dân, thu nhập của đối tượng tham gia, cơng tác tun truyền và phổ biến chính sách
pháp luật, bộ máy tổ chức cán bộ.


Bên cạnh đó, luận văn cịn đề cập tới mơ hình BHXH tự nguyện ở một số
nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam rút ra từ kinh nghiệm thực
hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện ở một số nước trên thế giới: như xây dựng chính
sách BHXH tự nguyện phù hợp với đất nước, xác định rõ đối tượng tham gia, mức


đóng, các chế độ BHXH tự nguyện, xây dựng hệ thống BHXH tự nguyện phải gắn
với phát triển kinh tế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>triển khai bảo hiểm xã hội trên địa bàn thành phố. </i>


Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học công
nghệ của cả nước, với diện tích tự nhiên 3.345km2


, bao gồm 11 quận, 1 thị xã và 17


huyện. Dân số Hà Nội có 6. 448 nghìn người, chiếm 7,01% dân số cả nước, xếp thứ
2 về số dân sau thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó, 59,2% dân số sống ở nông thôn,
40,8% dân số sống ở đô thị.


Lực lượng lao động ở Hà Nội có cơ cấu trẻ, lao động dưới 35 tuổi chiếm
45%. Đặc biệt, lực lượng lao động ở đây có trình độ chun mơn cao nhất cả nước,
với 55,11% đã tốt nghiệp trung học phổ thông, 46,5% lao động qua đào tạo. Tuy
nhiên, chất lượng lao động cũng không đồng đều giữa các khu vực thành thị và
nông thôn, lao động có trình độ chun môn kỹ thuật tập trung chủ yếu ở khu vực
thành thị (68,2%) . Qua đó ta thấy, thành phố Hà Nội có lực lượng lao động tự do đơng,
thường xun khơng ổn định và có sự dịch chuyển cơ học rất lớn, lao động nông thôn
chiếm tỷ trọng cao, đây là nguồn cung lao động tham gia BHXH tự nguyện rất lớn.


Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện ngày càng mở rộng. Điều này thể hiện
qua: số lao động tham gia ngày một tăng lên từ năm 2008 chỉ có 891 người lên
1.4140 người vào năm 2012. Toàn thành phố có 576/578 xã/phường trên địa bàn 29
quận/huyện có đối tượng tham gia BHXH tự nguyện. Địa bàn có đơng đối tượng
tham gia nhất là quận Hoàng Mai (1.031 người); thứ 2 là quận Hai Bà Trưng (1.011
người). Địa phương có ít đối tượng tham gia nhất là thị xã Sơn Tây (211 người),
huyện Mê Linh (222 người) và huyện Thường Tín (246 người). Tuy nhiên, qua 5


năm thực hiện, đối tượng tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn thành phố vẫn còn
rất ít, chưa tương xứng với tiềm năng. Mặt khác, tham gia BHXH tự nguyện chủ
yếu là những lao động có thời gian tham gia BHXH bắt buộc, đóng thêm để đủ điều
kiện hưởng chế độ hưu trí. Tỷ lệ người lao động tham gia bảo hiểm từ đầu rất thấp,
số lao động là nông dân nông thôn, lao động tự do, lao động trong các làng nghề
tham gia chưa nhiều.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

lượng lao động của thành phố (3,7 triệu người), trong khi tỷ lệ tham gia BHXH bắt
buộc là 31% và chỉ chiếm 1,2% so với số người đang tham gia BHXH bắt buộc.
Như vậy, còn lại 68,62% trong lực lượng lao động chưa tham gia bất cứ loại hình
BHXH nào.


Quyền lợi của người tham gia BHXH tự nguyện đã được đảm bảo. Đó là: năm
2008 khơng có đối tượng nào hưởng BHXH tự nguyện, đến hết năm 2012 đã có
tổng số 1899 người hưởng chế độ (bao gồm: 1.672 người hưởng BHXH 1 lần và
227 người hưởng lương hưu hàng tháng), tốc độ tăng bình quân 23,6%/năm.


<b>Tốc độ tăng trưởng Quỹ BHXH tự nguyện rất cao, từ 1,7 tỷ đồng năm 2008 </b>
<i>lên 42,2 tỷ đồng năm 2012, tốc độ tăng bình quân 96,8%/năm. Tuy nhiên, tốc độ </i>


<i>tăng trưởng quỹ đang có xu hướng giảm dần cùng với tốc độ gia tăng đối tượng. </i>


Năm 2009, tốc độ tăng trưởng quỹ BHXH tự nguyện là 217%, đến năm 2010 giảm
xuống còn 130% và năm 2011 chỉ còn 69%.


Mặc dù mới thực hiện 5 năm nhưng chi Quỹ BHXH tự nguyện cũng tăng rất
nhanh, từ 194 triệu năm 2010 lên 1,02 tỷ năm 2011 và 3,17 tỷ năm 2012, trong đó
chủ yếu là giải quyết BHXH 1 lần và chi lương cho đối tượng đã có thời gian tham
gia BHXH bắt buộc đóng tiếp để đủ điều kiện hưởng lương hưu.



<i>Tuy nhiên, ngoài những thành tựu đã đạt được, thành phố Hà Nội vẫn cịn gặp </i>


phải những khó khăn, một trong các hạn chế trong triển khai BHXH tự nguyện
trong thời gian qua là chính sách pháp luật về BHXH tự nguyện chưa phù hợp. Điều
này dẫn tới cơng tác tổ chức thực hiện chính sách cịn nhiều bất cập. Bên cạnh đó,
nhân thức của đối tượng tham gia còn nhiều hạn chế, thu nhập của họ cũng cịn thấp
và khơng ổn định.


<i>Thứ ba, Với những kết quả và hiệu quả đạt được, những hạn chế và nguyên </i>
<i>nhân hạn chế của thực trạng triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện đã phân tích, từ </i>
<i>các quan điểm và định hướng của Đảng, Nhà nước, luận văn đã đề xuất một số giải </i>
<i>pháp nhằm thực hiện tốt hơn chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn </i>
<i>thành phố Hà Nội trong những năm tới, góp phần ổn định an sinh xã hội. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Nội cần nỗ lực hơn trong công tác tổ chức triển khai với các giải pháp trọng tâm như:
<i><b>Đổi mới và tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp </b></i>
<i><b>luật về BHXH tự nguyện: Cần tiếp tục đổi mới hình thức, nội dung tuyên truyền </b></i>
<i><b>BHXH tự nguyện phong phú, đa dạng; Đưa nội dung BHXH tự nguyện vào nội </b></i>
dung hoạt động của tổ chức tư vấn pháp luật cho nông dân nghèo; Phối hợp chặt chẽ
với các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, truyền hình, báo chí,
các tổ chức khác như Đồn thanh niên, các đồn thể phụ nữ, cơng đồn để tuyên
truyền chính sách BHXH tự nguyện một cách kịp thời và sâu rộng; Phân phát các tờ
quảng cáo đến từng hộ gia đình, đến từng người lao động, bằng việc phân phát tờ
rơi giải thích nội dung cho người lao động về BHXH là hình thức tốt nhất để người
lao động hiểu; Thành lập các đội công tác tự nguyện ở các huyện, xã, thị trấn do
lực lượng thanh niên, hội phụ nữ làm nòng cốt xuống các xã, các đội sản xuất tuyên
<i><b>truyền, vận động. </b></i>


<i><b>Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành để các cấp triển khai có hiệu quả </b></i>
<i><b>chính sách BHXH tự nguyện: Cần lựa chọn cán bộ có tâm huyết, có trình độ thực </b></i>


hiện cơng tác BHXH tự nguyện; Xem xét lại quy trình thu BHXH tự nguyện cho
<i><b>hợp lý và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người tham gia. </b></i>


<i><b>Hoàn thiện công tác tổ chức quản lý đối tượng tham gia BHXH tự </b></i>
<i><b>nguyện: Hiện đại hoá trong quản lý BHXH bằng cách tăng cường ứng dụng công </b></i>
nghệ thông tin vào quản lý, chun mơn hố, chun nghiệp hố nghiệp vụ, tiến tới
giảm con người và chi phí quản lý hệ thống BHXH, giảm thiểu các thủ tục hành
chính cho doanh nghiệp và người lao động; chuyên nghiệp hoá trong hoạt động đầu
tư tăng trưởng Quỹ BHXH.


<i><b>Tăng cường phối hợp giữa cơ quan BHXH các cấp với chính quyền địa </b></i>
<i><b>phương trên địa bàn thành phố: </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

+ Liên tục trao đổi, giữ quan hệ chặt chẽ với các ngành chức năng như Sở Kế
hoạch đầu tư, Sở Lao động thương binh xã hội, Sở Nội vụ, Liên đoàn Lao động
Thành phố, Cục thuế thành phố... để nắm bắt thông tin về các đơn vị, doanh nghiệp
đăng ký kinh doanh, việc sử dụng lao động; các doanh nghiệp giải thể, phá sản, ...
làm cơ sở cho việc khai thác, mở rộng đối tượng tham gia BHXH.


+ Liên hệ với Cục thống kê để có được chính xác số lao động đang làm việc
trong các thành phần kinh tế, cơ cấu lao động trong các ngành nghề, làng nghề.


+ Phối hợp với UBND các phường, xã, thị trấn nắm chắc số lao động hiện tại
trên địa bàn.


Nên chăng, Ngành BHXH Việt Nam có thêm cấp thứ tư, đó là cấp xã,
phường?


Lồng ghép chương trình bảo hiểm xã hội tự nguyện với các chương trình mục
tiêu khác (Chương trình việc làm, Chương trình giảm nghèo, Chương trình phát triển


kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi…).


Chính phủ xem xét có chính sách hỗ trợ mức đóng nhất định cho người lao
động là nơng dân, lao động tự do… có nguồn thu nhập khơng ổn định, tạo điều kiện
cho họ có cơ hội tiếp cận với chính sách BHXH tự nguyện.


Kiến nghị đối với Nhà nước hoàn thiện chính sách pháp luật về BHXH tự
nguyện, xây dựng chính sách mở rộng đối tượng tham gia BHXH.


</div>

<!--links-->

×