Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.79 KB, 5 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng du
lịch đa dạng và phong phú, tiềm năng ấy thể hiện
ở các thế mạnh di tích, danh thắng, khu du lịch
quốc gia, các nét văn hóa độc đáo cũng như các
vùng du lịch trong cả nước. Tính đến tháng 8
năm 2010, Việt Nam có hơn 40.000 di tích, thắng
cảnh trong đó có hơn 3000 di tích được xếp hạng
di tích quốc gia và hơn 5000 di tích được xếp
hạng cấp tỉnh. Tới năm 2014, có 8 di sản được
UNESCO cơng nhận là Di sản thế giới bao gồm:
Quần thể danh thắng Tràng An, Thành nhà Hồ,
Hoàng thành Thăng Long, Quần thể di tích Cố
đơ Huế, Vịnh Hạ Long, Phố Cổ Hội An, Thánh
địa Mỹ Sơn và Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ
Bàng. Tính đến hết năm 2010 Việt Nam được
UNESCO công nhận 8 khu dự trữ sinh quyển thế
giới đó là Châu thổ sơng Hồng, Cát Bà, Tây Nghệ
An, Đồng Nai, Cù Lao Chàm, Cần Giờ, Cà Mau
và biển Kiên Giang, Việt Nam đứng thứ 27 trong
số 156 quốc gia có biển trên thế giới với 125 bãi
tắm biển, hầu hết là các bãi tắm đẹp; là 1/12 quốc
gia có vịnh đẹp nhất thế giới là vịnh Hạ Long và
vịnh Nha Trang.
Là ngành kinh tế mũi nhọn có tầm quan trọng
trong việc phát triển kinh tế đất nước, du lịch đã
nhận được nhiều quan tâm của Nhà nước ta và
các bộ ngành thông qua việc ban hành các văn
bản pháp lý, các chiến lược, chương trình hành
động quốc gia như nghị quyết số 92/NQ – CP
Ngồi ra, nội dung này cịn được hướng dẫn
bởi Mục 3 Chương II Thông tư
12/2014/TT-BVHTTDL. Việc nghiên cứu phát triển du lịch
các vùng dân tộc và miền núi gắn liền với việc
thực hiện chính sách dân tộc ở các vùng dân tộc
và miền núi, làm tốt công tác này không chỉ thu
hút lực lượng lao động làm dịch vụ, tăng thêm
nguồn thu nhập cho đất nước nói chung và vùng
dân tộc và miền núi nói riêng mà cịn góp phần
hiểu biết lẫn nhau, giao lưu giữa các miền văn
hố, tăng thêm niềm tin và sức mạnh đồn kết
dân tộc, trật tự an ninh xã hội ở các vùng du lịch
dân tộc miền núi, chống mọi luận điệu xun tạc
về chính sách đồn kết dân tộc, tôn giáo của Đảng
và Nhà nước ta, tăng cường thêm nét đậm đà bản
sắc văn hoá các dân tộc.
<b>Tiềm năng phát triển du lịch vùng dân tộc </b>
<b>miền núi</b>
Vùng dân tộc và miền núi nước ta có nhiều
yếu tố thuận lợi cho sự phát triển du lịch, có
nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, chiếm tới 5/7
vùng du lịch của cả nước bao gồm Vùng trung
du và miền núi phía Bắc (bao gồm các tỉnh Hịa
Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái,
Phú Thọ, Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc
Kạn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn và Bắc
Giang), vùng Bắc Trung Bộ: (gồm các tỉnh Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị,
Thừa Thiên - Huế gắn với du lịch hành lang Đông
Tây và hệ thống biển, đảo Bắc Trung Bộ), Vùng
Duyên hải Nam Trung Bộ (gồm các tỉnh Quảng
Nam, TP. Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
n, Khánh Hịa, Ninh Thuận, Bình Thuận gắn
với hệ thống biển đảo Nam Trung Bộ), Vùng Tây
Nguyên (gồm các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk
Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng), Vùng Tây Nam Bộ
(gồm các tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang,
Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Bến
Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Tiền Giang, Hậu
Giang và TP. Cần Thơ gắn với du lịch tiểu vùng
sơng Mêkơng), nhiều nơi cịn hoang sơ, tạo nên
sự thu hút đặc biệt đối với khách trong và ngồi
nước như miền Bắc có vườn quốc gia Ba Vì ở Hà
Nội; Mộc Châu - Sơn La với cảnh đẹp kỳ vĩ; hồ
Ba Bể ở độ cao 146m so với mặt biển, diện tích
Thanh, Vọng Phu ở Lạng Sơn; có vùng Sa Pa,
Lào Cai nơi du lịch nổi tiếng ở độ cao mây mù
tuyết phủ; hồ Núi Cốc ở Thái Nguyên; hồ Thác
Bà ở Yên Bái; dãy Phan Xi Păng cao 3.400m; có
nhà máy thuỷ điện Hồ Bình, có bản Apa Chải,
xã Xín Thầu, huyện Mường Nhé, Lai Châu giáp 3
quốc gia Việt Nam, Trung Hoa và Lào.v.v…
Miền Trung, Tây Ngun có Bà Nà (Đà Nẵng)
được ví như chốn bồng lai tiên cảnh; đảo Lý Sơn
ở Quảng Ngãi với nhiều trải nghiệm đáng nhớ; ở
Quảng Nam có khu tháp cổ Mỹ Sơn; động Phong
Nha, Quảng Bình là di sản văn hố thế giới; ngược
lên Tây Nguyên ta có Biển Hồ Gia Lai; ngã ba
Đông Dương, cửa khẩu B’y Kon Tum; hồ Lắc,
Đắc Lắk; thành phố cao nguyên Đà Lạt với núi
Liang Biang nổi tiếng cao 2300m so với mặt biển;
với thung lũng tình u; có khu tháp Chàm cổ kính
của dân tộc Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận.v.v...
Miền Nam có nhà thờ Đức Bà ở Thành phố
Hồ Chí Minh, có núi Đá dựng ở Kiên Giang, có
nhiều hang động lung linh, màu sắc, có xứ thơ
Hà Tiên cao 100 m giữa cánh đồng, có văn thánh
miếu ở Vĩnh Long, có núi Sam ở Châu Đốc, có
Đồng thời các vùng miền ở trên gắn liền với
các chiến công của dân và quân từ cách mạng
tháng 8-1945 đến nay sẽ là những di sản đồ sộ để
tuyên truyền cho các tour du lịch, để đáp ứng trí
tị mị, tìm hiểu, khám phá của du khách.
Đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi
rất thân thiện, gây được ấn tượng và thiện cảm
với du khách, mỗi dân tộc đều có những nét đặc
trưng về văn hóa, phong tục tập quán và lối sống
riêng. Dựa vào lợi thế trên ngành du lịch và các
địa phương đã nỗ lực xây dựng được một số điểm
du lịch độc đáo, như du lịch cộng đồng Sa Pa, du
lịch Bản Lác ở Mai Châu... Điển hình như Bản
Lác, Bản Pom Cng ở Mai Châu Hịa Bình đã
có hơn hai mươi ngơi nhà sàn chuyên phục vụ
khách du lịch, với giá từ 500.000 đến 800.000/
sàn là một con số đáng khích lệ cho du lịch dân
tộc miền núi.
Vùng dân tộc thiểu số và miền núi nước ta cịn
có nhiều món q lưu niệm, đồ thủ cơng được
khách nước ngồi u thích từ túi, khăn, quần, áo,
mũ, váy, móc chìa khóa thổ cẩm cho đến các món
ăn, uống đặc sản như thắng cố, muối kiến vàng,
cơm lam, rượu cần, rượu táo mèo, các loại thực
nước ta cũng là nơi còn lưu giữ các trò chơi, lễ
hội truyền thống lâu đời, các lời ca điệu múa độc
đáo rất riêng của từng dân tộc như múa Xòe, múa
Chiêng của người Thái, múa Khèn, múa Sênh
tiền của người Mông, múa Tăng bu, múa Gậy của
đồng bào Khơ mú, múa Sạp của dân tộc Mường,
múa Trống, múa Xúc tép của dân tộc Cao Lan,
múa Chèo thuyền, múa Hoa sen của đồng bào
Khmer Nam Bộ…và đặc biệt là khơng gian văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên – kiệt tác truyền
khẩu và phi vật thể nhân loại, di sản văn hóa phi
vật thể thứ hai của Việt Nam được công nhận. Lễ
Những thuận lợi này có một sức hấp dẫn rất
lớn, thu hút khách du lịch trong và ngoài nước
qua biên giới …
Bên cạnh những thuận lợi ở trên, vùng dân tộc
và miền núi nước ta vẫn còn nhiều thách thức tác
động trực tiếp đến phát triển du lịch đó là:
1. Rào cản về ngơn ngữ, văn hóa, phong tục
tập qn.
2. Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt: Địa hình
chia cắt, rừng núi hiểm trở, nhiệt độ trong ngày
và giữa các mùa có biên độ thay đổi lớn và đột
ngột, gây nhiều khó khăn cho sức khoẻ con người
và mùa khơ thì hanh heo, khơ cạn, thiếu nước.
3. Kết cấu hạ tầng còn thấp kém. Các sản
phẩm phục vụ khách du lịch chưa đa dạng phong
phú, phần lớn vẫn là các sản phẩm quen thuộc,
mang tính truyền thống, chưa có sự đột phá, sáng
tạo, tạo sự mới lạ đối với khách du lịch, cũng như
chủ yếu mang tính tự phát của các hộ gia đình
và các doanh nghiệp, chưa có sự đầu tư của cơ
quan chức năng và các chính quyền địa phương.
Chất lượng sản phẩm du lịch phục vụ du khách
chưa có sức cạnh tranh với các quốc gia khác,
Việt Nam chưa khai thác được thế mạnh các sản
phẩm địa phương, liên vùng, liên quốc gia để xây
dựng những tour du lịch hấp dẫn du khách.
4. Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ làm công
tác du lịch như hướng dẫn viên chưa được đào
tạo bài bản, ít kinh nghiệm thực tế và mang tính
chuyên nghiệp chưa cao, khả năng am hiếu về
phong tục, tập qn, văn hóa của chính dân tộc
mình và các dân tộc khác để hướng dẫn, phục vụ
khách du lịch còn nhiều hạn chế và bất cập, khả
năng giao tiếp với khách du lịch bằng ngoại ngữ
nhiều hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu phục
vụ khách du lịch.
5. Tư duy và tầm nhìn du lịch hạn hẹp: sự liên
kết trong du lịch còn lỏng lẻo, thiếu bền vững,
chủ nghĩa cát cứ, cục bộ địa phương đã triệt tiêu
thế mạnh của du lịch vùng dân tộc và miền núi
Việt Nam.
6. Các loại hình du lịch cịn đơn điệu, cịn có
tình trạng chèo kéo, ép giá mua hàng hóa đối với
khách du lịch v.v…Mặc dù những biểu hiện này
chỉ là cá biệt, nhưng đã gây phản cảm đối với
khách du lịch trong nước và nước ngoài.
thiểu số đang sinh sống ở vùng dân tộc và miền
núi, góp một phần rất quan trọng xóa đói, giảm
nghèo. Do dân cư sống rải rác, suất đầu tư lớn,
hiệu quả kinh tế thấp, nên chủ yếu trong chính
sách vẫn chỉ là hỗ trợ chứ chưa phải là đầu tư
phát triển.
8. Không gian danh thắng và di sản văn hóa
bị xâm hại: việc khai thác nguồn tài ngun vì
mục đích kinh tế đã phá vỡ cảnh quan, dẫn đến
môi trường ô nhiễm, làm mất không gian thiêng
của di tích.
9. Việc quảng bá du lịch ở vùng dân tộc thiểu
số và miền núi thông qua các hình thức khác
nhau như trên báo, chí, phát thanh, truyền hình,
các ấn phẩm về du lịch chưa được đẩy mạnh và
đổi mới toàn diện, do vậy tác dụng quảng bá, thu
hút khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc
tế chưa cao.
Từ những thách thức trên, để phát triển du lịch
vùng dân tộc thiểu số và miền núi, có thể thực
1. Nhóm giải pháp quy hoạch phát triền du
lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Các địa phương cần tiếp tục tiến hành quy
hoạch phát triển du lịch cho phù hợp với đặc thù
của địa phương mình như lợi thế so sánh về nhân
lực, vật lực, các danh lam thắng cảnh, các địa
điểm du lịch tâm linh, các nơi nghỉ dưỡng, leo
núi, tắm nước khoáng và tắm thuốc dân tộc, các
ngành nghề truyền thống, v.v…
2. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách:
- Tiếp tục rà sốt các cơ chế chính sách về phát
triển du lịch vùng dân tộc và miền núi loại bỏ các
cơ chế chính sách khơng cịn phù hợp, điều chỉnh,
bổ sung kịp thời các chính sách đã có.
- Nghiên cứu, xây dựng các cơ chế chính sách
mới cho phù hợp với đặc điểm của từng vùng,
liên vùng và từng địa phương.
3. Nhóm giải pháp về xây dựng và phát triển
cơ sớ hạ tầng vùng dân tộc thiểu số và miền núi
để phục vụ phát triền du lịch
Đẩy mạnh cơng tác xã hội hóa huy động mọi
thành phần kinh tế, nguồn lực đầu tư cho cơ sở
vật chất kỹ thuật du lịch như đường, sá, cầu,
của người Việt.
Nguồn kinh phí thu được từ hoạt động du lịch
phải được cân đối sử dụng phục vụ trở lại đầu tư tu
bổ các cơ sở du lịch. Xây dựng hoàn chỉnh và hình
thành đồng bộ về hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật,
dịch vụ, lưu trú, sản phẩm và nguồn nhân lực… đủ
khả năng đón khách trong nước và quốc tế.
4. Nhóm giải pháp đa dạng hóa các loại hình
du lịch trong đó chú ý đến du lịch tâm linh, leo núi
Hiện nay ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi
có rất nhiều chùa chiền, nơi thờ tự, để ghi danh
cơng đức của những người có cơng xây dựng và
bảo vệ đất nước. Trải qua năm tháng thăng trầm
của lịch sử, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt do
đó phần lớn đã bị mai một. Để thu hút khách du
lịch, các địa phương cần huy động một nguồn
kinh phí theo phương châm xã hội hóa để bảo tồn
5. Nhóm giải pháp về đa dạng hóa các sản
phẩm du lịch truyền thống:
Hiện nay để có nguồn thu từ khách du lịch
trong và ngoài nước, vùng dân tộc thiểu số cần
phải nghiên cứu đa dạng hóa các sản phẩm du
lịch truyền thống theo hướng phong phú, đa dạng
về số lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm
du lịch, giá cả các sản phẩm du lịch hợp lý, có
độ thẩm mỹ cao như: các sản phẩm giới thiệu về
phong cảnh, lịch sử cội nguồn của các sản phẩm
đó và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau, các
sản phẩm của làng nghề truyền thống như thêu
thùa, dệt, may v.v…
6. Nhóm giải pháp về bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số ở từng vùng,
liên vùng và từng địa phương.
7. Nhóm giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ lãnh đạo quản lý, hướng dẫn viên du lịch
Nhóm giải pháp này giữ một vị trí rất quan
trọng có tính quyết định để nâng cao chất lượng
phục vụ khách du lịch trong và ngoài nước. Việc
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý,
hướng dẫn viên du lịch cần bảo đảm đủ về số
lượng và không ngừng nâng cao về chất lượng để
đáp ứng kịp thời phát triển du lịch vùng dân tộc
và miền núi nói riêng và xu thể tồn cầu hóa và
Hội nhập kinh tế Quốc tế nói chung.
8. Nhóm giải pháp về tiến hành thí điểm xã
hội hóa làm cơng tác du lịch.
Việc tiến hành thí điểm xã hội hóa làm cơng tác
du lịch cần có sự hướng dẫn, phối hợp và quản lý
chặt chẽ của các cơ quan chức năng liên quan để
cơng tác xã hội hóa làm cơng tác du lịch đi đúng
hướng tránh tình trạng tự phát, vô tổ chức làm tốt
công tác này sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm,
góp phần quan trọng vào xóa đói, giảm nghèo,
khơng ngừng nâng cao mức sống của đồng bào
các dân tộc thiểu số .
9. Chính quyền địa phương và cơ quan chuyên
môn quản lý hoạt động du lịch các cấp, cơ sở kinh
doanh dịch vụ thực hiện đồng bộ giải pháp bảo
đảm an ninh, trật tự nhằm bảo vệ an toàn cho
khách du lịch. Tăng cường kiểm tra, phát hiện,
ngăn chặn và xử lý các đối tượng đeo bám, gây
mất an toàn cho khách du lịch. Ngoài ra, tăng
vận động nhân dân tham gia phong trào cải thiện
môi trường tại các điểm du lịch.
10. Tăng cường tuyên truyền quảng bá du
lịch trên các phương tiện thông tin đại chúng,
các tờ rơi, áp phích, các ấn phẩm du lich để thu
hút ngày càng nhiều hơn khách du lịch trong và
ngoài nước đến thăm quan, du lịch tại các vùng
dân tộc và miền núi. Đổi mới công tác xúc tiến,
quảng bá du lịch trên tinh thần huy động mạnh
mẽ sự tham gia của các hiệp hội và doanh nghiệp
du lịch. Tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành
liên quan trong việc xúc tiến du lịch gắn với việc
quảng bá văn hóa, hình ảnh đất nước, con người
Việt Nam trên các phương tiện truyền thông đại
chúng. Tăng cường năng lực cơ quan tham mưu
quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương và địa
phương, nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt
động du lịch.
<b>Tài liệu tham khảo</b>
<i>[1] Hà Quế Lâm, (2009),“Tiềm năng phát </i>
<i>triển du lịch vùng dân tộc và miền núi Việt Nam”, </i>
website: />ame=News&op=Print&mid=2226;
<i>[2] “Tiềm năng du lịch của Việt Nam”, </i>
website:
/>
<i>[3] Minh Nhựt, “Những lễ hội tiêu biểu của </i>
<i>các vùng, miền ở nước ta”, báo Bình Phước, </i>
website: />
Nhung-le-hoi-tieu-bieu-cua-cac-vung-mien-o-nuoc-ta.2093.detail.aspx.