Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Top 4 bài cảm nhận đoạn 3 Tây Tiến hay nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.69 KB, 15 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>1. Dàn ý cảm nhận về khổ 3 bài thơ Tây Tiến</b>
<b>1. Mở bài</b>


- Dẫn dắt vấn đề: Trong nền thơ văn kháng chiến, ta không thể không nhắc tới những
tác giả tiêu biểu: Tố Hữu, Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng,... trong số đó nổi bật là
nhà thơ Quang Dũng với bài thơ Tây Tiến.


- Nêu vấn đề: Bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng đối với mảnh đất
Tây Tiến thân thương và những người đồng chí, đồng đội cùng "vào sinh ra tử"; đặc
biệt khổ 3 của bài thơ đã khắc họa hình tượng những người lính vơ cùng đặc sắc:
"Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc... Sơng Mã gầm lên khúc độc hành"


<b>2. Thân bài</b>


- Cảm nhận hình tượng người lính oai hùng, lẫm liệt, đậm chất bi tráng qua hai dịng
đầu: "Tây Tiến đồn binh... dữ oai hùm"


+ Đồn binh Tây Tiến: Đoàn quân được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ phối hợp
với bộ đội Lào chặn đánh các đợt tiến công biên giới Việt - Lào, khi đó Quang Dũng
là đội trưởng của đồn qn đó


+ Đồn quân của Quang Dũng hiện lên kì dị, lạ thường: Tuổi đời trẻ măng nhưng đầu
ai nấy đều "không mọc tóc"


=> Ngoại hình tiều tụy, đầu trọc da xanh đã phản ánh hiện thực trần trụi của chiến
tranh; đó chính là kết quả của những cơn đói khát, những trận sốt rét nơi rừng thiêng
nước độc, những khó khăn, gian khổ mà người lính phải chịu đựng


=> Liên hệ với hình ảnh người lính trong thơ Chính Hữu: "Tơi với anh biết từng cơn
ớn lạnh/ Sốt run người vầng trán đẫm mồ hơi"



+ Tuy trong gian khổ, người lính vẫn giữ được tư thế hiên ngang, bất khuất, oai hùng
"dữ oai hùm"


- Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn của những người lính (trong những câu thơ tiếp theo)
+ Tâm hồn mơ mộng, tràn trề sức xuân: "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới... kiều
thơm" => Những chàng trai tuổi 18, đôi mươi xuất thân là những học sinh, sinh viên
đất Hà thành nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà tạm gác bút nghiên,
cầm súng lên đường ra chiến trận.


+ "Mắt trừng": Đôi mắt đang dõi theo kẻ thù, tràn đầy sự căm hận và sự quyết tâm
chống thù


+ "Mộng biên giới": Giấc mộng hịa bình, giấc mộng chiến thắng trở về quê hương,
gia đình...


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

=> Hình ảnh những người lính Tây Tiến trẻ trung, hòa hợp giữa vẻ đẹp của khát vọng
và vẻ đẹp trong tâm hồn.


- Cảm nhận về vẻ đẹp bi tráng của người lính qua việc Quang Dũng miêu tả sự hi sinh
anh dũng: "Rải rác biên cương... khúc độc hành"


+ Âm điệu câu thơ như chùng xuống trước sự mất mát, hi sinh của các chiến sĩ, trước
những ngôi mộ vô danh nằm rải rác giữa biên cương


+ "Mồ viễn xứ", "biên cương": Từ Hán Việt tạo khơng khí trang trọng, bi hùng như
một bản hùng ca tiễn biệt người lính


+ Nhưng dù có phải đối mặt với cái chết thì người lính vẫn nguyện hiến dâng tuổi
xn, thậm chí cả tính mạng của mình cho nền độc lập tự do của dân tộc "chẳng tiếc
đời xanh", coi cái chết nhẹ tựa lông hồng "anh về đất"



+ Cái chết của các anh được lí tưởng hóa, mĩ lệ hóa "Áo bào thay chiếu" => Sự hi
sinh đầy cao đẹp, thiêng liêng


+ Trước những hi sinh của các anh, con sông Mã lịch sử "gầm lên khúc độc hành"
như "gầm" lên khúc tráng ca tiễn biệt đồng đội để họ đi vào cõi bất tử.


- Nêu lại đại ý toàn khổ 3 bài thơ Tây Tiến.


<b>3. Kết bài</b>


Khẳng định lại vấn đề và nêu cảm nghĩ của bản thân.
<b>2. Cảm nhận về bài thơ Tây Tiến khổ 3</b>


“Tây Tiến” là bài thơ hay nhất của Quang Dũng cũng là một trong những bài thơ
tuyệt bút về “anh bộ đội Cụ Hồ” trong kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng là nhà
thơ – chiến sĩ, vừa cầm súng đánh giặc, vừa làm thơ. Ông viết về đồng đội, về đoàn
binh Tây Tiến thân u của mình. Thơ của Quang Dũng nóng bỏng hào khí chiến
trường.


Sau một thời gian xa đơn vị và đồng đội, ông viết bài thơ “Tây Tiến” này vào năm
1948, tại Phù Lưu Chanh, một địa điểm bên bờ sông Đáy hiền hòa. Cảm xúc chủ đạo
của bài thơ là nỗi nhớ và niềm tự hào đối với đoàn binh Tây Tiến, đối với con sông
Mã và núi rừng miền Tây xa xơi. Đó là nỗi nhớ “chơi vơi” bao kỉ niệm đẹp và cảm
động một thời trận mạc đầy gian khổ, hi sinh. Đây là đoạn thơ thứ 3 trong bài “Tây
Tiến” đã khắc họa khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong
máu lửa:


“Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc



(…) Sơng Mã gầm lên khúc độc hành”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

trùng điệp, vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến binh với quân trang màu xanh
của lá rừng, với nước da xanh phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương
thực: “khơng mọc tóc”. Câu thơ trần trụi như hiện thực chiến tranh những năm đầu
kháng chiến vốn thế. “Khơng mọc tóc” là hình ảnh phản ánh cái khốc liệt của chiến
trường:


“Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc,


Qn xanh màu lá dữ oai hùm”.


Cái hình hài khơng lấy gì làm đẹp: “qn xanh màu lá”, “khơng mọc tóc” tương phản
với “dữ oai hùm” là một nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tinh
thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm cho quân giặc phải
khiếp sợ. “Dữ oai hùm” là một hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí người lính mang tính kế
thừa và sáng tạo của Quang Dũng. Các chiến binh “Sát Thát” đời Trần: “Tam qn tỳ
hổ khí thơn Ngưu” (Phạm Ngũ Lão); “Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói” (Trương
Hán Siêu). Nghĩa quân Lam Sơn xung trận trong khí thế “bình Ngơ”: “Sĩ tốt kén tay tì
hổ – Bề tơi chọn kẻ vuốt nanh” (Bình Ngơ đại cáo) – Một dân tộc anh hùng trên trận
tuyến đánh quân thù, thời đại nào cũng có những chiến sĩ “tì hổ” và “dữ oai hùm” như
thế đó! Với niềm tự hào, Quang Dũng đã viết nên một câu thơ rất hay: “Quân xanh
màu lá dữ oai hùm”, lấy cái “thô”, cái “mộc” để tơ đậm cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa
trong tâm hồn người chiến sĩ.


Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật… mn lần khó khăn, thử thách nhưng học vẫn
có những giấc “mơ”, giấc “mộng” rất đẹp:


“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,



Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.


Mộng và mơ gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội, nơi cịn đầy bóng giặc.
“Mắt trừng” – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh
táo của người lính trong khói lửa ác liệt. “Mộng qua biên giới” – mộng tiêu diệt quân
thù, bảo vệ biên cương, lập nên bao chiến cơng nêu cao truyền thống anh hùng của
đồn binh Tây Tiến. Lại có những giấc mơ đẹp. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những học
sinh, sinh viên, những chàng trai Hà thành “xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, giàu
lòng yêu nước, phong độ hào hoa: “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm
thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ). Sống giữa núi rừng miền Tây, gian
khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mù. Nhưng các anh vẫn mơ về Hà Nội.
Quên sao được những hàng me, hàng sấu, những phố cũ, trường xưa, “Những phố dài
xao xác hơi may”?.. Quên sao được những tà áo trắng, những thiếu nữ thương yêu,
những “dáng kiều thơm” từng hị hẹn. Hình ảnh “Dáng kiều thơm” trong câu thơ của
Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều thú vị: ngơn từ vốn có trong thơ lãng mạn
thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút nhà thơ – chiến sĩ nó trở nên có hồn, đặc tả chất
lính hào hoa, trẻ trung, lãng mạn của người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến trong trận
mạc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

thơ Quang Dũng, nỗi nhớ gắn liền với “mộng” và “mơ”. Mộng lập chiến công, mơ
“dáng kiều thơm”. Hữu Loan trong bài thơ “Màu tím hoa sim” cũng viết rất hay về
nỗi nhớ của người lính chống Pháp:


“Từ chiến khu xa


Nhớ về ái ngại


Lấy chồng thời chiến tranh


Mấy người đi trở lại



Lỡ khi mình khơng về


Thì thương người vợ bé bỏng chiều quê…”


Viết về “mộng” và “mơ” của người chiến binh Tây Tiến, Quang Dũng đã ca ngợi tinh
thần lạc quan yêu đời của đồng đội. Đó là một nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân
dung “anh bộ đội Cụ Hồ” xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong chín năm kháng chiến
chống Pháp.


Bốn câu thơ tiếp theo là những nét vẽ bỗ trợ, tô đậm chân dung người lính:


“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh


Áo bào thay chiếu anh về đất,


Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.


Trong gian khổ và chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuống trên chiến trường miền Tây.
Họ nằm lại nơi chân đèo góc núi. Nấm mồ người chiến sĩ “rải rác biên cương”. Câu
thơ để lại trong lòng ta nhiều thương cảm, biết ơn, tự hào: “Rải rác biên cương mồ
viễn xứ”. Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì nó tựa như bức tranh xám lạnh,
ảm đạm và hiu hắt, đem đến nhiều xót thương. Nhưng nằm trong văn cảnh, đoạn
mạch, câu thơ tiếp theo: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, đã nâng cao chí khí
và tầm vóc người lính. Các anh đã ra trận vì một lí tưởng rất đẹp. “Đời xanh” là đời
trai trẻ, là tuổi thanh xuân của “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…”, những
học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ lên đường đầu quân vì nghĩa lớn của chí khí làm trai.
Họ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu để bảo


về độc lập, tự do cho Tổ quốc. Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng lên kháng
chiến với quyết tâm sắt đá: “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Quang Dũng ghi lại cảnh tượng bi tráng giữa
chiến trường miền Tây thưở ấy:


“Áo bào thay chiếu anh về đất


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Các tráng sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh.
Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với tấm “áo bào” bình dị ấy: “anh về
đất”. Một cái chết nhẹ nhàng, thanh thản. Anh ra trận giết giặc vì quê hương. Anh ngã
xuống là: “về đất”, nằm trong lòng Mẹ Tổ quốc thân yêu. Nhà thơ không dùng từ
“chết”, từ “hi sinh” mà lấy cụm từ “về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị,
thầm lặng mà thanh thản, nhẹ nhàng coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Người chiến binh
Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương, đã chết vì đất nước quê hương. “Anh
về đất” bằng tất cả tấm lòng chung thủy của người chiến sĩ. Tiếng thác nước sông Mã
“gầm lên” giữa núi rừng miền Tây như tiếng kèn trong bài “Chiêu hồn liệt sĩ” tống
tiễn linh hồn liệt sĩ về nơi an giấc ngàn thu. Câu “Sông mã gầm lên khúc độc hành” là
một câu thơ hay vì gợi tả được khơng khí thiêng liêng, trang trọng, đồng thời tạo nên
âm điệu trầm hùng, thương tiếc. Phong cách ngôn ngữ của Quang Dũng rất đặc sắc,
bên cạnh những từ ngữ bình dị đời lính như: gục, khơng mọc tóc, dữ, trừng, về đất,
chiếu, gầm lên… lại có một số từ Hán Việt như: mộng, mơ, biên giới, dáng kiều, biên
cương, viễn xứ, áo bào, khúc độc hành – nhờ đó mà cái bình dị làm nổi bật cái cao cả
thiêng liêng, cái bình thường tô đậm cái anh hùng, vĩ đại. Chất bi tráng và màu sắc
lãng mạn từ vần thơ tỏa rộng trong không gian và chiều dài lịch sử.


Đoạn thơ viết về chân dung người lính trong bài thơ “Tây Tiến” là đoạn thơ độc đáo
nhất. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng
sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc, tạo nên nhưng câu thơ “có hồn”. Người
lính đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến mãi mãi là
một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc.



“Anh Vệ quốc quân ơi


Sao mà yêu anh thế!”


<b>3. Cảm nhận về bài thơ Tây Tiến khổ 3 - mẫu 2</b>


Nhắc tới thơ văn trong kháng chiến, chúng ta không thể không nhắc tới những nhà
văn nhà thơ như Tố Hữu, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Thi, ... và có lẽ chúng ta
khơng thể nào khơng nhắc tới nhà thơ Quang Dũng. Ơng là một người thi sĩ đa tài,
vừa viết thơ, vừa vẽ tranh, lại có thể sáng tác kịch. Trong sự nghiệp thơ văn của mình,
tác phẩm ơng để lại khơng ít nhưng nổi tiếng nhất có lẽ chính là tác phẩm Tây Tiến.
Bài thơ là nỗi nhớ tha thiết của Quang Dũng với miền Tây Bắc thân thương, với đồng
đội của mình. Bài thơ đã làm nổi bật lên một hồn thơ lãng mạn, sâu lắng, thấm đượm
nghĩa tình, tinh thần dân tộc của Quang Dũng, đặc biệt đoạn thơ khắc họa hình tượng
người lính vơ cùng đặc sắc:


"Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá giữ oai hùm


Mắt trừng gửi mộng qua biên giới


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất


Sông Mã gầm lên khúc độc hành".


Tây Tiến được Quang Dũng sáng tác năm 1948 tại Phù Lưu Chanh trong nỗi nhớ đơn
vị, đồng đội của mình. Chính trong nỗi nhớ dạt dào ấy, ơng đã khắc họa hình ảnh
những người lính Tây Tiến với những nét vẽ thật đẹp vừa hào hùng lại vừa lãng mạn.



Đọc những dòng thơ đầu tiên, hiện lên trước mắt người đọc là hình tượng người lính
oai hùng, lẫm liệt, đậm chất bi tráng:


"Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc


Qn xanh màu lá giữ oai hùm"


Đoàn binh Tây Tiến là đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp
với bộ đội Lào, đánh chặn các đợt tiến công biên giới Việt - Lào và Quang Dũng
chính là đội trưởng của đồn qn ấy. Hai câu thơ đầu mở ra, giữa cái mỹ lệ, nên thơ
của núi rừng, vẻ đẹp của người lính cụ Hồ hiện lên thật bi tráng. Khơng phải những
đồn quân với những người lính khỏe mạnh, trên đầu mang một màu tóc xanh của
tuổi trẻ, đồn qn của Quang Dũng hiện lên thật kì dị lạ thường. Cả một đồn qn
tuổi đời cịn trẻ măng nhưng ai cũng "khơng mọc tóc". Vì đâu mà cả một đồn binh
lớn nhường ấy lại có điều dị thường đến vậy? Phải chăng đây là kết quả của những
cơn đói, cơn khát, của những trận sốt rét khủng khiếp đã biến những người lính trẻ
tuổi thành cả một "đồn binh khơng mọc tóc" như vậy? Ngoại hình tiều tụy, ốm yếu,
đầu trọc, da xanh đã gợi lên trong lòng chúng ta biết bao sự bi thương. Hình ảnh ấy
tuy có gân guốc thế nhưng đó lại là cái hiện thực - một hiện thực thật trần trụi. Các
chiến sĩ Tây Tiến ngày đó phải hoạt động trong rừng núi phía Tây Bắc của Tổ quốc,
nơi rừng thiêng nước độc, nơi ấy có những trận sốt rét đến kinh người, và cả những
ngày hành quân đói rét vất vả nữa. Chúng ta cũng từng bắt gặp hình ảnh người lính
với những trận sốt rét mà vẫn cố gắng hồn thành nhiệm vụ của mình trong thơ của
Chính Hữu:


"Tơi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hơi"


Người lính Tây Tiến vẫn mang thêm chút đặc biệt hơn ở một phần nào đó. Phải chăng


là những mái tóc cịn xanh chẳng cịn nữa, những người lính trở thành cả "đồn binh
khơng mọc tóc"? Đồn qn đang trải qua những gian khổ, khó khăn, cản bước những
bước tiến hành quân của họ?


Nhưng nếu như ở câu trước hình tượng những người lính hiện lên thật trần trụi, bi
thương thì ngay ở câu thơ sau, người ta lại thấy Quang Dũng thể hiện hình ảnh những
người lĩnh thật oai phong:


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

"Quân xanh" ở đây phải chăng là những tán lá ngụy trang, là màu áo xanh người lính
hay chính là làn da xanh tái vì bệnh tật và đói rét của những chiến sĩ giải phóng qn?
Một hình ảnh hiện thực trần trụi được Quang Dũng đưa trực tiếp vào trong thơ. Chẳng
hề có một sự phóng đại hay cách điệu nào hết. Đó là hiện thực, là thực tại của những
người lính đồn qn Tây Tiến. Thế nhưng, tuy có xanh xao, mệt mỏi, vất vả là thế,
nhưng họ vẫn giữ vững tinh thần "giữ oai hùm". Dù là nơi rừng thiêng nước độc,
nhưng những người anh hùng giải phóng quân vẫn giữ được tư thế hiên ngang, bất
khuất, toát lên vẻ oai hùng như chúa sơn lâm.


Hai câu đầu, hình tượng người lính của đồn qn Tây Tiến hiện lên thật sống động
biết bao. Đoàn quân ấy đang đi giữa rừng xanh, đi giữa những núi rừng âm u hiểm trở
và gặp biết bao gian lao, vất vả, bệnh tật đói rét. Thế nhưng, các anh dù có thế nào
vẫn giữ được một tư thế hiên ngang, "oai hùm" giữa chốn rừng thiêng. Có thể nói,
Quang Dũng đã đưa vào đây chất liệu hiện thực - một hiện thực trần trụi và gửi vào
đó một chút lãng mạn của thi ca.


Bước sang những câu thơ tiếp theo, người ta thấy hiện lên là vẻ đẹp tâm hồn của
những chiến sĩ ấy. Một vẻ đẹp tâm hồn mơ mộng, tràn trề sức xuân:


"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới


Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"



Tây Tiến là đoàn binh với thành phần chủ yếu là những người con đất Hà Thành, là
những học sinh, sinh viên đang còn tuổi chứa chan xuân xanh tươi đẹp, thế nên ẩn sau
ngoại hình xanh xao ấy là cả một bầu trời tâm hồn lãng mạn. Những người lính ấy đến
với biên cương bằng sức trẻ, bằng hồi bão, bằng khát vọng hịa bình. Họ nghe theo
tiếng gọi của Tổ quốc mà lên đường tìm lại độc lập cho dân tộc bởi giặc ngoại xâm đã
giày xéo quê hương đến tiêu điều. Vậy nên, "mắt trừng" kia phải chăng chính là đơi
mắt đang mở to, dõi theo kẻ thù, quyết tâm thề sống chết với kẻ ngoại bang xâm
lược? Đôi mắt trừng ấy cũng là sự căm hận quân thù, sục sôi ý chí chiến đấu. Khơng
chỉ vậy tốt lên ý chí chiến đấu, đơi mắt ấy cịn "gửi mộng qua biên giới" đến với
những nơi xa xôi, đến với Hà Nội thân u - nơi có người thân, gia đình của những
chàng trai Tây Tiến. "Mộng biên giới" - có chăng chính là giấc mộng hịa bình, giấc
mộng được chiến thắng trở về với quê hương, với gia đình, với người thương của
mình. Và đơi mắt ấy cũng khơng chỉ ánh lên khát vọng mà cịn ánh lên cả cái tình, cái
cảm xúc yêu thương trong đó nữa.


"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"


Đôi mắt ấy thao thức trong canh thâu, nhớ về một Hà Nội cổ kính, với phố phường,
với gia đình với cả "một dáng kiều thơm" trong trí nhớ. Là những người trí thức
bng bỏ bút mực nghiên, vác lên vai cây súng bảo vệ quê hương, thế nên những
người lính Tây Tiến ln giữ trong mình cái vẻ hào hoa, lãng mạn của người trí thức
ấy. Họ khơng như những anh lính mộc mạc trong thơ Chính Hữu:


"Quê hương anh nước mặn đồng chua


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Chính "dáng kiều thơm" ấy là động lực để thôi thúc các anh hồn thành nhiệm vụ cao
cả của mình. Đồng thời nó cũng là niềm khao khát của những người lính biên cương.


Sau mỗi chặng đường hành quân vất vả, phải chăng nỗi nhớ quê, nhớ người thương


lại là động lực mạnh mẽ, tiếp thêm sức lực cho các anh để các anh bằng tuổi trẻ, bằng
khát vọng của mình đem hịa bình lại cho những "dáng kiều thơm" kia? Quang Dũng
cũng thật tinh tế, bởi chỉ bằng hai câu thơ ngắn mà vẻ đẹp tâm hồn người lính Tây
Tiến hiện lên thật hào hoa, thật lãng mạn biết chừng nào. Và bốn câu thơ đầu của khổ
thơ thứ ba, Quang Dũng đã làm hiện lên trước mắt người đọc thật rõ ràng hình tượng
người lính trong đồn binh của mình. Những người lính ấy vừa oai phong, vừa đẹp vẻ
đẹp của khát vọng lại vừa tinh tế, lãng mạn trong vẻ đẹp tâm hồn.


Trong chiến tranh, biết bao người lính đã ra đi với tuổi trẻ, với khát vọng hòa bình,
nhưng lại chẳng trở về. Người ta thường nói, chiến tranh vô thường, làm sao tránh
được hi sinh, mất mát:


"Rải rác biên cương mồ viễn xứ


Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"


Mất mát, hy sinh có lẽ là những điều hiển nhiên trong mỗi trận chiến. Thế nhưng đọc
câu thơ của Quang Dũng, người đọc chúng ta khơng khỏi xót xa trước những sự mất
mát, hy sinh ấy. Âm điệu của bốn câu trước thật hào hùng biết bao thì đến đây, khơng
khí ấy chợt chùng xuống sâu lắng. Trên mỗi chặng đường đi, những người lính lại lần
lượt nằm xuống. Những ngôi mộ của họ vô danh, nằm rải rác giữa biên cương, chốn
rừng thiêng nước độc. Ở đây, Quang Dũng chọn một từ ngữ Hán Việt "mồ viễn xứ"
để diễn tả những cái chết của những người con xa nhà. Họ phải nằm lại nơi đất khách
quê người. Từ Hán Việt "mồ viễn xứ", "biên cương" tạo nên khơng khí thật trang
trọng, bi hùng như bài hùng ca tiễn biệt những người lính. Họ ngã xuống nơi đây, trở
thành những người lính vơ danh góp một phần vào nền độc lập của đất nước:


"Họ đã sống và chết


Giản dị và bình tâm



Khơng ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước"


Thế nhưng dù có phải đối mặt với cái chết thì những người lính Tây Tiến vẫn quyết
tâm ra đi vì khát vọng hịa bình. Vì khát khao cháy bỏng ấy, họ nguyện hiến dâng cho
Tổ quốc cả tuổi thanh xn, cả tính mạng của mình:


"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

họ, chỉ có khát vọng hịa bình là đang cháy bỏng. Đau thương nhưng lại chẳng hề bi
lụy trước số phận của cuộc đời.


Vẫn trong âm hưởng hào hùng, trầm lắng đó, Quang Dũng lại kể tiếp về khát vọng
được cống hiến của Tổ quốc của những người lính đồn qn Tây Tiền:


"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"


Họ là những người trẻ, hơn ai hết, họ hiểu được giá trị của thanh xuân, của những ước
mơ, khát vọng đời thường "dáng kiều thơm", thế nhưng được chết cho lý tưởng của
đất nước thì cũng thật là thiêng liêng, thật là cao đẹp. Người lính hy sinh, trên người
đâu cịn lại gì. Thế nhưng, ở đây, Quang Dũng đã mỹ lệ hóa thành "áo bào". Tấm áo
bào trước đây chỉ dành cho vua chúa quý tộc thì nay được khốc lên người những
người lính chiến. Tấm áo ấy như lời vinh danh dành cho người lính vô danh đã ngã
xuống, trở về với đất mẹ thân yêu. "Áo bào thay chiếu" là lời nói bi tráng hóa, mỹ lệ
hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến. Và cụm từ "anh về đất" nghe sao có vẻ nhẹ
nhàng, nhưng thực chất, đó chỉ là cách nói giảm nói tránh nỗi đau xót, thương cảm vơ
hạn của Quang Dũng dành cho những người lính hy sinh mà thôi. Với Quang Dũng,
họ không chết, họ chỉ trở về với đất mẹ mà thôi. Bởi chúng ta sinh ra từ đất thì sẽ lại


trở về với đất mẹ.


Những người lính hy sinh ngã xuống, trở thành những nấm mồ vô danh viễn xứ,
nhưng sự hy sinh ấy không vô ích bởi nó góp phần tạo nên hịa bình cho đất nước,
làm nên vinh quang cho lịch sử nước nhà. Với những người lính Tây Tiến, con sơng
Mã là con sơng lịch sử. Bởi nó là chứng nhân của thời gian, là người bạn đồng hành
của những người lính. Và giờ đây, khi họ ngã xuống, nó "gầm" lên khúc tráng ca tiễn
biệt người đồng đội của mình. Tiếng gầm ấy như khúc nhạc tấu độc hành dành cho
người lính để họ đi vào cõi bất tử.


Hai câu cuối của khổ ba, Quang Dũng liên tiếp sử dụng các từ ngữ Hán Việt. Nó vừa
tạo nên khơng khí trang trọng, hào hùng, tơn nghiêm khi nói về sự hy sinh của những
người lính, vừa tạo nên được vẻ đẹp bi tráng,lãng mạn, lẫm liệt của những người anh
hùng xưa. Có thể nói, hai câu thơ cuối đã mỹ lệ hóa cái chết của những chàng trai trẻ,
thế nhưng sự mỹ lệ ấy hồn tồn vừa đủ để tơn lên sự hy sinh cao cả của các chàng
trai tuổi mười tám ấy.


Đoạn thơ trên, Quang Dũng đã thể hiện vô cùng thành cơng nỗi nhớ thiên nhiên Tây
Bắc hịa quyện cùng nỗi nhớ đơn vị của mình. Ơng cũng sử dụng liên tiếp rất nhiều
hình ảnh đặc sắc vừa nhạc vừa họa, những sự so sánh cường điệu tinh tế đồng thời
xen lẫn với cảm hứng lãng mạn để nói về đồn qn của mình. Có thể nói, khổ thơ
này là một trong những khổ thơ đặc sắc nhất, kết tinh cho cả bài thơ Tây Tiến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<b>4. Cảm nhận về bài thơ Tây Tiến khổ 3 - mẫu 3</b>


Có thể nói, nếu chọn năm tác giả tiêu biểu của giai đoạn văn học thời kì đầu kháng
chiến chống Pháp, có thể khơng có Quang Dũng nhưng nếu chọn năm bài thơ tiêu
biểu, nhất định Tây Tiến phải được nhắc tên, đứng ở hàng danh dự. Đọc Tây Tiến,
chúng ta sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử,
chúng ta có thể quên một số câu thơ trong bài, nhưng không thê qn được hình ảnh


đồn qn ấy:


Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm


Mắt trừng gửi mộng qua biên giới


Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ


Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh


Áo bào thay chiếu anh về đất


Sông Mã gầm lên khúc độc hành!


Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đồn qn mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp
- nói đến gian khổ, hi sinh và địa bàn hoạt động - thì ở đây, đồn qn ấy đã hiện lên
với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch rịi. Đã thành khn sáo khi đề cập đến sự can
trường của các chiến binh. Ở đây, ta tưởng như gặp một mơ-típ như thế:


Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc


Quân xanh màu lá dữ oai hùng


Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực - thực một cách trần trụi: chiến sĩ Tây
Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, chết
trận thì ít mà chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lơng, gội đầu
rụng tóc. “Quân xanh” ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh
làn da vì thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, vào bài thơ, với giọng điệu và cách


diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách.
Mười bốn chữ thơ mà chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đồn qn phi thường, độc
đáo, có một khơng hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở
“xếp bút nghiêng lên đường chinh chiến” của các chàng trai Hà Nội kiêu hùng, hào
hoa.


Vì vậy, khó khăn, gian khổ là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn khơng ngi đi
những tình cảm lãng mạn:


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.


“Mộng” và “mơ” cùa người lính được gửi về hai phương trời: biên cương, nơi cịn
đầy bóng giặc - mộng giết giặc lập công, và Hà Nội, quê hương yêu dấu - mơ những
bóng dáng thân yêu. “Dáng kiều thơm”, ấy là vầng sáng lung linh trong kí ức, “tố
cáo” nét đa tình của người lính. Nhưng với các chiến sĩ Tây Tiến, nỗi nhớ ấy là sự cân
bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng hành quân vất vả, chứ khơng phải để thối
chí nản lịng. Vậy mà một thời, câu thơ “đẹp một cách lãng mạn” này đã khiến cho tác
giả của nó và chính bài thơ phải “trải bao gió dập, sóng dồn”.


Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi - xưa nay đi chiến trận, mấy ai trở về, các chiến sĩ Tây
Tiến cũng không khỏi tránh phải những mất mát, hi sinh.


Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh


Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ, đến đây, âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống
để độc giả thấy rõ hơn bản chất của sự việc. Dường như đây là một cảnh phim được
cố ý quay chậm. Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, chấp nhận gian khổ của
người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi "mồ
viễn xứ" của những người con "chết xa nhà". Nhưng các chiến sĩ ta nhìn thấy với đơi


mắt bình thản, bởi họ đã chấp nhận điều đó. Một trong những động cơ thơi thúc họ lên
đường là hình ảnh người anh hùng da ngựa bọc thây mà họ tiếp nhận được trong văn
chương sách vở. Một niềm đam mê trong sáng pha chút lãng mạn.


Hai câu thơ cuối tiếp tục âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng
đó lại là một cái chết cao đẹp - cái chết bất tử của người lính Tây Tiến.


Áo bào thay chiếu anh về đất.


Sông Mã gầm lên khúc độc hành


Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thơng báo bình thường
nhưng sức gợi thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau
hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi mà cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể
dửng dưng trước cảnh “anh về đất”? “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở,
thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng gầm của sơng Mã về xuôi như
loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.


Trước đây, khi nhắc đến những dòng thơ này, người ta chỉ thấy những biểu hiện nào
là “mộng rớt”, “buồn rơi” ... nhưng thời gian đã khiến chúng ta nhìn đúng hơn vào
bản chất, có thời đại ấy mới có văn chương ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<b>5. Cảm nhận về bài thơ Tây Tiến khổ 3 - mẫu 4</b>


Cả bài thơ là nỗi nhớ dạt dào về Tây Tiến, với những kỉ niệm một thời. những khó
khăn trong cuộc sống và chiến đấu. Cũng như những giờ phút thanh bình bên người
dân Tây Bắc. Bài thơ cịn miêu tả rất thực về hình ảnh của người lính. Về tinh thần và
những phẩm chất tốt đẹp của họ.


Tây Tiến đồn qn khơng mọc tóc



Qn xanh màu lá dữ oai hùm


Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm


Rải rác biên cương mồ viễn xứ


Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất


Sông Mã gầm lên khúc độc hành


Môt đoạn thơ khắc họa rõ về những chàng trai Tây Tiến và hình ảnh tả thực gợi lên
trong lịng người đọc nhiều niềm thương cảm và cả ngưỡng mộ.


Đoạn được mở đầu bằng lời miêu tả thẳng không chút tránh né sự thật.


Tây Tiến đồn qn khơng mọc tóc


Qn xanh màu lá dữ oai hùm


Cuộc sống chốn rừng núi Tây Bắc thiếu thốn vô cùng. Quân chiến đấu không đủ ăn,
mặc không đủ ấm. Để chiến đấu họ phải cạo trọc đầu tạo thành đoàn “vệ trọc” “vệ
đỏ” để kẻ thù không thể nắm được họ. Nhưng nguyên nhân khác là những cơn sốt rét
rừng cực kỳ nguy hiểm, cứ đe dọa, rình rập, sẵn sàng lấy đi tính mạng của họ bất cứ
lúc nào.


Trong bài “đồng chí” chính hữu cũng đã có đề cập tới những khó khăn và căn bệnh
này



Áo anh rách vai, quần tơi có vài mảnh vá


Miệng cười buốt giá, chân không dày


….


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Căn bệnh này thì bất cứ người lính nào cũng gặp nhưng đến với bài Tây Tiến ta
những người chưa chứng kiến mới có thể hiểu được một cách chân thực nhất. Đó là
sự thật khơng phải là nói q hay là nói để tạo ấn tượng. thật thú vị vì nhà thơ lấy
chính cái hiện thực khổ khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh tự tốn cho mình. Đó là
cái tên khác của Tây Tiến: “đồn qn khơng mọc tóc.” Cũng như Phạm Tiến Duật
gọi đồn xe khơng kính của mình. Đó là một cách gọi dí dỏm thể hiện sự lạc quan và
chất lính. Câu tiếp theo chia làm hai vế quân xanh màu lá/ dữ oai hùm. Màu xanh là
màu xanh của lá ngụy trang hay chính là màu xanh da thịt của người lính cho quá vất
vả và chịu đựng căn bệnh làm da nhợt nhạt khơng sức sống.


Như Tố Hữu cũng nói:


Khn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu cịn tươi nữa những ngày qua.


Cả đồn quân sao mà yếu ớt nhưng bên cạnh đó là cả một khí thế oai phong. Cái bi
đặt bên cái tráng làm nổi bật cái oai phong của đoàn quân. Ba tiếng “dữ oai hùm” tạo
nên âm hưởng mạnh mẽ hùng tráng cho câu thơ. Người đọc cảm nhận khí thế của
đoàn quân ra trận, dù yếu nhưng đã đánh cho Pháp phải khiếp sợ.


Dù cuộc sống có khó khăn nhưng những người lính Tây Tiến vẫn mang trong mình
lắm mộng mơ, và khát vọng hòai bão.



Mắt trừng gửi mộng qua biên giới


Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.


Hai câu mang hai chữ “mộng” và “mơ”. Từ trừng được dùng khá đặc sắc, nó cho thấy
bao tâm nguyện, khát vọng hồi bão tự đáy lịng đều gửi cả ở ánh mắt. “Mắt trừng”
khơng phải chỉ hành động mạnh nhìn trừng trừng dữ dằn, dọa nạt mà là cái nhìn đau
đáu, khôn nguôi thể hiện những mong ước đến khắc khoải, mong ước về một ngày
chiến thắng kẻ thù. Chữ “mộng” khiến câu thơ chùng xuống ẩn chứa cảm xúc bâng
khuâng. Câu thơ của Quang Dũng khiến ta nhớ tới một câu thơ của Nguyễn Đình Thi:


Những đêm dài hành quân nung nấu


Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.


Nhớ “người yêu” hay nhớ “dáng kiều thơm” làm hình ảnh người lính trở nên gần gũi
hơn rất nhiều. Vì nỗi nhớ rất đỗi bình thường của những chàng thanh niên, nhưng
trong lúc khó khăn cũng thật cao quý. Nỗi nhớ và những mộng mơ giúp tiếp thêm sức
mạnh và nghị lực để vượt lên hoàn cảnh. Để vượt qua thiếu thốn vật chất, những con
đau dằn xé. Để khơng gục bởi hồn cảnh trứơc khi gục trước kẻ thù. Quang Dũng đã
viết nên bốn câu thơ đầu với cái nhìn đa chiều, phong phú. Để ta thấy đằng sau phong
thái hùng dũng cũng có một tâm hồn trẻ và tài hoa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.


Nếu ta chỉ đọc câu thơ đầu thì khơng thể khơng xúc động trước cái hiện thực quá đỗi
bi thương. Cả một đoàn quân đang đi trên con đường dài thì thỉnh thoảng có một
người ở lại sau lưng. Bên đường lại mọc lên một nấm mồ. Giữa rừng núi, không một
nén hương, không nước mắt người thân. Những cái chết cô độc giữa rừng lạnh lẽo, bi


thảm, nhưng câu thơ sau như một lực kéo vô hình nâng câu đầu lên để kéo cái bi thảm
thành cái bi tráng. Câu thơ thứ hai chính là câu hát đầu thách thức ngạo nghễ của các
chàng trai. Biết đi là hy sinh đó nhưng một khi đã đi thì khơng quay đầu trở lại. Dù có
hy sinh cũng là sự hy sinh xứng đáng. Nói khơng tiếc thì cũng khơng thể vì họ là
thanh niên cịn nhiều cái chưa làm đưọc, nhưng đây là hiến dâng phần còn lại của
cuộc đời cho tổ quốc nên không tiếc nữa. Như anh lính trong dáng đứng Việt Nam


Và anh chết trong khi đang đứng bắn


Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng.


Những sự hy sinh vĩ đại. dù ta không thể biết ai đã hy sinh nhưng Nguyễn Khoa Điềm
của từng khẳng định “không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm nên đất nước.”


Một khi xác định được lý tưởng những người lính xem cái chết mình nhẹ tựa lông
hồng.


Áo bào thay chiếu anh về đất


Sông Mã gầm lên khúc độc hành.


Cuộc sống thiếu thốn đến nỗi không có mảnh chiếu che thân nhưng với Quang Dũng
mảnh áo kia chính là “áo bào” như những chiến tướng của ngày xưa. Một cái chết hào
hùng và sang trọng vì là chết cho đất nước. Đất đã sinh ra anh và lại đón nhận anh trở
về khi đã làm xong nghĩa vụ thiêng liêng của anh. Anh ra đi không mang theo tiếng
khóc của đồng đội nhưng tiếng gầm của sông Mã đã tiễn anh ra đi. Cả quê hương đất
nước như đang tiếc thương đưa anh về đất. Vẫn là cái chết nhưng lại hào hùng, không
bi lụy mà bi tráng. Đây là điểm nhấn xuyến suốt bài thơ. Là cái đặc sắc của Quang
Dũng. Nhưng lúc bài thơ ra đời nhiều người không hiểu được. Họ coi việc nói thực là
cái chết là kể lể, yếu mềm theo kiểu tiểu tư sản. nhưng họ chưa hiểu được sâu là đằng


sau cái chết là cái hào hùng. Cái chết chỉ là cái nên cho sự vinh quang.


Ở đây sông Mã một lần nữa được nhắc lại khi nói đến Tây Tiến. Điều đó khẳng định
sự hy sinh và ra đi của các anh đã đi vào bất tử khi thân xác hòa vào cỏ cây và vào đất
mẹ thiêng liêng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15></div>

<!--links-->

×