Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.01 KB, 16 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>1. Dàn ý phân tích Đồn thuyền đánh cá chi tiết</b>
<b>1. Mở bài:</b>
- Giới thiệu tác giả Huy Cận và tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá
- Khẳng định tác phẩm là khúc tráng ca, ca ngợi con người lao động với tinh thần làm
chủ, với niềm vui”
<b>2. Thân bài:</b>
* Khái quát chung về tác phẩm
- Nêu về hồn cảnh sáng tác bài thơ
- Giải thích ý kiến:
+ Bài thơ trở thành khúc tráng ca khi nhịp điệu cộng với sự xuất hiện nhiều từ “hát”
giống như khúc ca hào hùng về lao động
+ Nhận xét của Huy Cận chính là cảm hứng chủ đạo khiến tác giả viết nên bài thơ: ca
ngợi con người lao động mới trên hai đặc điểm: tinh thần làm chủ và tràn đầy niềm
vui ( đây là luồng gió mới trong phong cách sáng tác thời kỳ miền Bắc xây dựng xã
hội chủ nghĩa)
* Phân tích bài thơ
- Ý nghĩa nhan đề bài thơ thể hiện cảm hứng chủ đạo của tác phẩm về những người
lao động trong thời kì xây dựng xã hội chủ nghĩa
- Khúc tráng ca về con người lao động thể hiện theo chiều dài hành trình của chuyến
ra khơi
- Cảnh con người lạc quan, vui vẻ, hăng say khi ra khơi
+ Đoàn thuyền ra khơi trong cảnh hồng hơn huy hồng, tráng lệ, giàu sức sống
+ Cảnh biển vào đêm đẹp, kì vĩ, tráng lệ như thần thoại đồng thời gợi được sự thân
quen gần gũi như ngôi nhà đối với người dân chài lưới
+ Giữa lúc vũ trụ chuyển vào nghỉ ngơi thì con người bắt đầu ra khơi lao động :
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi/ Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
+ Ở đây tác giả tả khí thế của đồn thuyền ra khơi kết hợp với động từ “lại” diễn tả
công việc lao động hằng ngày đầy hứng khởi
→ Khí thế phơi phới, mạnh mẽ của người lao động trên biển làm chủ cuộc đời đang
chinh phục biển khơi
+ Sự giàu có, quý giá được thể hiện qua các từ ngữ “cá bạc”, ‘đoàn thoi”
+ Cách sử dụng những hình ảnh so sánh nhân hóa tinh tế (phân tích từ “dệt”, biện
pháp so sánh trong câu “Cá thu biển Đơng như đồn thoi”
+ Từ “ta” diễn tả tâm thế tự hào khơng cịn là cái “tơi” nhỏ bé trước biển cả bao la
→ Cảnh ra khơi huy hoàng đầy khí thế hứa hẹn
- Niềm cảm hứng say sưa, bài ca lao động vui tươi, khỏe khoắn ngợi ca cảnh đánh cá
trên biển
+ Hình ảnh con thuyền lướt đi trên mặt biển bao la với cái nhìn của nhà thơ đã trở nên
kì vĩ, lớn lao, sánh ngang tầm vũ trụ
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
+ Con thuyền đặc biệt, có sự hịa quyện với tự nhiên, biển trời
+ Con thuyền băng băng lướt sóng “giị bụng biển” – hình ảnh đẹp, kỳ ảo, diễn tả hoạt
động đánh cá như một thế trận hào hùng → gợi ra sự khéo léo, tâm hồn phóng khống
khi chinh phục biển cả
- Cảm nhận về vẻ đẹp và sự đa dạng của các loài cá quý
+ Tác giả liệt kê tên các loại cá ở biển như cá nhụ, cá chim, cá đé... những loại cá
mang giá trị kinh tế
+ Biển khơng chỉ giàu mà cịn đẹp thơ mộng: màu sắc lấp lánh của mn lồi cá (lấp
lánh, đen hồng, vàng chóe) tất cả tạo nên tổng thể bức tranh sơn mài tuyệt đẹp của tạo
hóa
+ Đêm ở biển được miêu tả sống động, mang hơi thở của cuộc sống (tiếng sóng nước
hịa với nhịp gõ thuyền, hịa với sự khống đạt của trời cao biển rộng)
→ Như vậy tầm vóc của người và đồn thuyền được nâng lên, hịa nhập vào kích
thước của thiên nhiên, vũ trụ. Khơng cịn cảm giác cơ đơn, nhỏ bé của con người khi
đối diện với trời rộng, sông dài trong thơ Huy Cận
- Khúc hát vui tươi trong lao động được cất lên
+ “Ta hát bài ca gọi cá vào”: gợi niềm vui, sự phấn chấn trong lao động
+ “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”: gợi cảm nhận chất thơ bay bổng, lãng mạn
→ Những hình ảnh lãng mạn, giàu chất thơ làm cho công việc vốn nặng nhọc, vất vả
như nghề ra khơi trở nên rộn rã, thi vị hơn
+ Cảnh đoàn thuyền trở về tráng lệ trong bình minh lộng lẫy, rực rỡ “đoàn thuyền
chạy đua cùng mặt trời”
+ Câu hát theo suốt hành trình của người dân chài, từ khi ra khơi cho tới khi về nhằm
nhấn mạnh niềm vui lao động làm giàu quê hương.
+ Hình ảnh mặt trời lặp lại báo hiệu một sự hồi sinh, niềm vui, hạnh phúc chào đón
những người hùng của biển cả trở về
+ Đồn thuyền là một hốn dụ chỉ người dân chài trong tư thế sánh ngang với tự
nhiên, thậm chí trong cuộc chạy đua với thiên nhiên họ đã chiến thắng
+ Hình ảnh “mắt cá huy hồng mn dặm phơi” là niềm vui khi được mùa cá, niềm
tin hy vọng và chiến thắng vinh quang của người lao động
<b>3. Kết bài:</b>
- Bài thơ thể hiện niềm lạc quan, vui tươi của người lao động và hồn thơ phơi phới,
tình yêu cuộc sống của tác giả trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội
- Âm điệu bài thơ như khúc hát mê say, phóng khống ngợi ca cuộc sống, tinh thần
lao động của những người con của biển
<b>2. Phân tích Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 1</b>
Huy Cận là một trong những tên tuổi tiêu biểu của phong trào Thơ mới trước Cách
mạng tháng Tám năm 1945, với những tác phẩm nổi tiếng như Lửa thiêng, Vũ trụ
ca... Sau Cách mạng, ơng nhanh chóng hịa nhập vào cơng cuộc kháng chiến vĩ đại
của dân tộc chống thực dân Pháp. Hòa bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi
thở của cuộc sống mới đang lên. Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác ở Hòn Gai, năm
1958. Sau một chuyến tác giả đi thực tế dài ngày, được đánh giá là một trong những
bài hay của thơ ca Việt Nam hiện đại.
Với đơi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài
năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ nên trước mắt chúng ta một khung cảnh lao
động tuyệt vời trên biển. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy với những
màu sắc huyền ảo, cuốn hút vô cùng:
Mặt trời xuống biển như hịn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang náo nức, thể
hiện niềm vui to lớn của con người lao động được giải phóng: "Câu hát căng buồm
cùng gió khơi". Đây là cách nói độc đáo, sáng tạo của Huy Cận, khiến chúng ta tưởng
như tiếng hát hịa cùng gió mạnh, thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền phăng phăng rẽ
sóng. Cánh buồm no gió tượng trưng cho khí thế phơi phới đi lên của cơng cuộc dựng
xây đất nước.
Lời hát ngợi ca sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì
của nó trong đêm. Bút pháp lãng mạn của nhà thơ vẽ nên khung cảnh vừa thực vừa
ảo:
Hát rằng: Cá bạc biển Đơng lặng
Cá thu biển Đơng như đồn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi!
Vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt nỗi nhọc nhằn vất vả, đem lại niềm vui và sức mạnh
cho con người đang chinh phục thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Cảnh đánh cá trong
đêm được nhà thơ quan sát và miêu tả với một cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả
như nhập thân vào thiên nhiên, vào cơng việc, vào con người:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Những hình ảnh lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng phảng phất phong vị thơ cổ
điển nhưng vẫn tươi mới chất hiện thực. Một chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như
một trận đánh. Cũng thăm dị tìm cho ra bãi cá; cũng dàn đan thế trận để giăng lưới,
bủa lưới sao cho trúng luồng cá bạc, để sáng mai lúc trở về, thuyền nào thuyền nấy
đầy ắp cá.
Đã bao đời, người ngư dân có mối quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như
thuộc lòng bàn tay. Bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng, thuộc cả thói quen của
chúng:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc, cá quẫy đi, sóng sánh trăng vàng.
Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng thức cùng ngư
dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền, như gõ nhịp phụ họa cho tiếng hát.
Trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy. Thiên nhiên, con người
thật là hịa hợp.
Bóng đêm đang tan, ngày đang đến, nhịp độ công việc càng sôi nổi, khẩn trương:
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vảy bạc đi vàng lóe rạng đơng,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Bao công lao vất vả đã được đền bù. Dáng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng
người, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới
nặng trĩu mới đẹp làm sao! Bóng dáng họ in trên nền trời hồng rực của buổi bình
minh. Những tia nắng sớm chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh thêm vảy bạc, đuôi
vàng và màu sắc phong phú của bao loài cá cũng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực
rỡ.
Nhịp điệu câu thơ cuối chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm
trạng thoải mái của ngư dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi. Khố thơ cuối
cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đồn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhơ màu mới,
Mắt cá huy hồng mn dặm phơi.
Vẫn là tiếng hát khoẻ khoắn của người ngư dân dạn dày sóng nước đang vươn lên làm
chủ cuộc đời. Tiếng hát hồ trong gió, thổi căng cánh buồm đưa đoàn thuyền ra khơi
đêm trước, nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh Đồn
thuyền chạy đua cùng mặt trời rất hiện thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một
thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng, đồng thời cũng thế
hiện khí thế đi Lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước sau giải
phóng.
Đồn thuyền đánh cá là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Nhà thơ ca ngợi
biển cả mênh mông - nguồn tài nguyên bất tận của Tổ quốc, ca ngợi những con người
lao động cần cù, gan góc, ngày đêm làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình của
Huy Cận và nghệ thuật điêu luyện của ông đã cuốn hút người đọc thực sự.
Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả. Những người lao động
mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng. Nửa thế
kỉ đã trôi qua, bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó. Phần nào, bài thơ
giúp chúng ta hiểu được chân dung tinh thần mới của Huy Cận sau bao biến cố lịch sử
trọng đại của đất nước và dân tộc - một Huy Cận trữ tình cách mạng.
<b>3. Phân tích Đồn thuyền đánh cá - mẫu 2</b>
Viết về đề tài lao động, bài thơ Bài ca vỡ đất của Hồng Trung Thơng và bài Đồn
Cảm hứng trữ tình được diễn tả theo mạch thời gian: hồng hơn-đêm trăng-và bình
minh. Cảnh bình minh như một biểu tượng mang ý nghĩa: một thời đại huy hoàng
đang mở ra phía trước, cuộc sống cần lao của nhân dân ta đang nở hoa.
Hai khổ thơ đầu nói về cảnh đồn thuyền ra khơi đánh cá, cảnh biển vô cùng tráng lệ
lúc hồng hơn. Mặt trời được ví von với hịn than đỏ rực "hòn lửa" từ từ lăn xuống
biển.
Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc phủ bóng tối mịt
mù. Những con sóng, như những chiếc "then cài" của ngôi nhà vĩ đại ấy. Cảm hứng
vũ trụ, biện pháp tu từ so sánh ẩn dụ (hòn lửa, cài then) đã tạo nên những vần thơ đẹp,
cho người đọc nhiều ấn tượng:
Mặt trời xuống biển như hịn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Ngày đã chuyển sang đêm. Vừa lúc đó, đồn thuyền ra khơi:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Cánh buồm no gió "căng"lên. Tiếng hát, gió khơi, buồm căng" là ba chi tiết nghệ
thuật mang tính chất tượng trưng diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say và khí thế ra
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đơng như đồn thoi
Đêm ngày dệt biển mn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!"
Chuyện làm ăn thường có nhiều may rủi. Ra khơi đánh cá, họ cầu mong biển lặng
sóng êm, gặp luồng cá, đánh bắt được nhiều. Niềm ước mong ấy phản ánh tấm lòng
hồn hậu của ngư dân từng trải qua nhiều nắng, gió, bão tố trên biển. Giọng điệu thơ
ngọt ngào, ngắn dài và vang xa: "cá bạc", "đoàn thoi", "dệt biển", "luồng sáng", "dệt
lưới" vẫn những hình ảnh so sánh ẩn dụ rất sáng tạo đem đến cho người đọc bao liên
tưởng thú vị về vẻ đẹp thơ ca viết về lao động.
Bốn khổ thơ tiếp nói về cảnh đánh cá vào một đêm trăng trên vịnh Hạ Long. Mỗi khổ
thơ là một nét vẽ về biển trời, sông nước, trăng sao, trong đó con người hiện lên trong
dáng vẻ khỏe mạnh, trẻ trung và yêu đời. Hạ Long là một thắng cảnh bậc nhất của đất
nước ta. Hạ Long trong đêm trăng mang vẻ đẹp thần tiên. Huy Cận, với bút pháp lãng
mạn tả cảnh đánh cá trên Hạ Long vào một đêm trăng bằng bao hình ảnh tuyệt vời.
Đồn thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồm phóng như bay trên mặt biển về ngư
trường "dò bụng biển", ngư dân khẩn trương lao vào công việc "dàn đan thế trận lưới
vây giăng". Cuộc đánh cá thực sự là một trận đánh. Mỗi thủy thủ là một "chiến sĩ".
Con thuyền, mái chèo, lưới, ngư cụ khác đều trở thành vũ khí của họ. Chữ "lưới" đặc
tả đồn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường; thiên nhiên cùng góp sức với con
người trên con đường lao động và khám phá. Nhịp thơ hối hả lơi cuốn:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Những câu thơ tả đàn cá là đặc sắc nhất. Biển quê ta giàu có với nhiều loại cá quý, cá
ngon nổi tiếng như:"Chim, thu, nhụ, đé". Vận dụng sáng tạo cách nói của dân gian, ở
phần trên, nhà thơ đã viết: "Cá thu biển đơng như đồn thoi", ở đây lại miêu tả: "Cá
nhụ, cá chim cùng cá đé". Con cá song là một nét vẽ tài hoa: vẩy cá đen, hồng, lấp
lánh trên biển nước chan hòa ánh trăng "vàng chóe". Cái đi cá quẫy được so sánh
với ngọn đuốc rực cháy. Nghệ thuật phối sắc tài tình làm cho vần thơ đẹp như một
bức tranh sơn mài rực rỡ. Bầy cá như những nàng tiên nhảy múa:
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Nhìn bầy cá bơi lượn, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm, mắt nhìn về xa. Câu thơ
huyền ảo lung linh: "Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long", như đưa người đọc đi vào cõi
mộng. Phải có một tình u biển sâu nặng mới viết nên những vần thơ tuyệt bút như
vậy. Sung sướng nhìn đàn cá "dệt lưới", những người dân chài cất lên tiếng hát ngọt
ngào. Lần thứ hai tiếng hát vang lên trên biển. Tiếng gõ thuyền đuổi cá hịa cùng sóng
biển.
Vầng trăng soi xuống mặt biển, muôn ngàn ánh vàng tan ra theo làn sóng, vỗ vào mạn
thuyền. "Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao". Biển hào phóng cho nhân dân nhiều tơm
cá, muối và hải sản... Biển "như lịng mẹ" đã. nuôi sống nhân dân ta từ bao đời nay.
So sánh biển với lịng mẹ để nói lên lịng tự hào của dân chài đối với biển quê hương.
Giọng thơ ấm áp, chứa chan nghĩa tình:
Biển cho ra cá như lịng mẹ,
Ni lớn đời ta tự buổi nào.
Một đêm trơi nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng, hăng say. Trên bầu trời sao đã
thưa và mờ. Cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng. Những cánh tay rắn chắc kéo
lưới "xoăn tay". "Kéo xoăn tay" là một hình ảnh đặc tả động tác kéo lưới rất căng,
khỏe và đẹp. Cơ man nào khiến cá mắc vào lưới như những chùm trái cây treo lủng
lẳng. "Chùm cá nặng" là một hình ảnh ẩn dụ gợi tả được mùa cá.
Khoang thuyền đầy ắp cá. Màu bạc của vẩy cá, màu vàng của đi cá "lóe rạng
đơng". Một lần nữa cho thấy nghệ thuật sử dụng màu sắc của nhà thơ rất điêu luyện,
sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới áng rạng đông đều được miêu tả tuyệt đẹp:
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đi vàng lóe rạng đơng.
Khổ thơ cuối nói về cảnh đồn thuyền trở về bến lúc rạng đơng. Lần thứ ba, ngư dân
trên đồn thuyền lại cất cao tiếng hát - tiếng hát thắng lợi hân hoan. Con thuyền và
mặt trời được nhân hóa. Thơ được cấu trúc song hành diễn tả nhịp sống khẩn trương:
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời,
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
cuộc sống hạnh phúc ấm no của nhân dân vùng biển. Bằng lao động và mồ hôi, họ đã
viết nên bài ca cuộc đời.
Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ tiêu biểu của Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám.
Nếu như trước đây, thơ Huy Cận thấm một nỗi buồn "vạn cổ sầu " vào vũ trụ và lịng
người thì những bài thơ của ơng từ năm 1945 đến nay, đặc biệt là bài "Đoàn thuyền
đánh cá" mang âm điệu ngọt ngào, niềm vui say mê và phấn chấn của nhân dân lao
động đang làm chủ cuộc đời.
Qua thơ Huy Cận, chúng ta như được sống những đêm trăng đẹp trên Hạ Long, ta tự
hào đất nước ta có trên ba nghìn cây số bờ biển; biển ta giàu có, bao la tiềm năng, dồi
dào hải sản.
Cảnh đánh cá trên biển được miêu tả với cảm hứng lãng mạn. Lao động thật sự là
niềm vui cuộc đời. Trong xã hội ta, cái đáng quý nhất là lao động, người đáng quý
nhất là người lao động. Hình ảnh người dân chài trong bài thơ là hiện thân của sức
sống cần lao. Họ cần cù, dũng cảm và chịu khó.
Cuộc đời của họ đã gắn liền với sóng gió mưa nắng biển khơi, khai thác nhiều hải sản.
Chính họ đã đem lại muối mặn và hương vị biển cho mọi gia đình gần xa, bữa cơm
trở nên đậm đà với con tôm, con cá. Cùng với nhà nông "một nắng hai sương", những
người dân chài đã cho ta bài học về đức tính cần cù, tinh thần lạc quan trong lao động.
Thật vậy, "Đoàn thuyền đánh cá" là một bài thơ hay. Những nét vẽ về đàn cá biển, về
người dân chài đánh cá, kéo lưới, ca hát... cho thấy một hồn thơ đẹp.
<b>4. Phân tích Đồn thuyền đánh cá - mẫu 3</b>
Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam-một hồn thơ dạt dào cảm
hứng lãng mạn về thiên nhiên đất nước, con người trong thời đại mới. Bài thơ "Đoàn
thuyền đánh cá" được nhà thơ sáng tác vào năm 1958 khi miền Bắc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. bài thơ là bức tranh thiên nhiên con người về cảnh đoàn thuyền ra khơi
Đề tài " Con người lao động" đã khơi gợi cảm hứng bất tận cho tất cả các nhà thơ
nhưng đối với Huy Cận ông cũng chọn đề tài ấy để viết về ngư dân trên vùng biển Hạ
Long tươi đẹp:
"Mặt trời xuống biển như hịn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi."
Nghệ thuật so sánh "Mặt trời như hòn lửa" gợi tả cảnh mặt trời lúc hồng hơn trên
biển với bao màu sắc rực rỡ một vẻ đẹp kì vĩ tráng lệ. Trong khoảng khắc bao sắc
màu rực rỡ đã thay vào màu đen của màn đêm.
Với trí tưởng tượng phong phú cùng với nghệ thuật ẩn dụ những con sóng giống như
chiếc then cài, màn đêm là cánh cửa.Vũ trụ bao la rộng lớn giống như một ngôi nhà
trong trạng thái nghỉ ngơi, yên tĩnh và màn đêm kia như thử thách lịng cam đảm của
con người. Thế nhưng trong hồn cảnh ấy ta lại bắt gặp hình ảnh: "Đồn thuyền đánh
cá lại ra khơi." Phép tu từ hốn dụ "đồn thuyền đánh cá" chỉ những người ngư dân họ
đang bắt đầu một ngày lao động mới.
Từ "lại" chỉ sự lặp đi lặp lại nhiều lần liên tục đã trở thành thói quen. Đó là tinh thần
lao động hăng say quên cả mệ mỏi, quên cả thời gian của những người ngư dân, của
những con người lao động mới của miền Bắc trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong đêm tối mặt biển bỗng trở nên nhộn nhịp bởi tiếng hát của những người ngư
dân cất lên. Câu hát hịa cùng với làn gió mát của biển khơi thổi căng cánh buồm để
Bút pháp khoa trương "Câu hát căng buồm" tác giả muốn nói tới sức mạnh của những
con người lao động. Câu hát hịa cùng với gió khơi là muốn nói đến sự hòa hợp giữa
thiên nhiên với con người. Thiên nhiên đang góp sức ủng hộ con người. Câu hát thể
hiện tinh thần lạc quan yêu đời, niềm vui lao động, sơi nổi hào hứng trong niềm khí
thế cùng với buổi đầu ra khơi trong niềm tin vào một chuyến ra khơi thành công, tốt
đẹp:
"Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đơng như đồn thoi
Đêm ngày dệt biển mn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!"
Trong câu hát của những người ngư dân có gọi tên các lồi cá: cá bạc, cá thu... Phép
tu từ so sánh "Cá thu như đồn thoi" vừa gợi về hình ảnh sống động vừa là lời ca ngợi
nguồn tài nguyên phong phú ở vùng biển tỉnh Quảng Ninh. Với trí tưởng tượng độc
đáo kết hợp với ngòi bút vừa hiện thực vừa lãng mạn để rồi đôi mắt của nhà thơ như
đang được ngắm nhìn đồn cá thu như những chiếc thoi đưa dệt nên những tấm vải
lớn lấp lánh muôn màu sắc.
"Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi" câu thơ như lời mời gọi đoàn cá vào lưới. Câu hát của
những người ngư dân không chỉ thổi căng cánh buồm vừa thể hiện sức mạnh, vừa thể
hiện tinh thần lạc quan yêu đời. Câu hát ấy không chỉ ngợi ca về vùng biển giàu có
nước ta mà nó cịn hữu ích trong cơng việc đánh bắt cá. Nó đã trở thành bài ca trong
lao động. Với trí tưởng tượng phong phú cùng với ngòi bút thơ đầy lãng mạn bay
bổng nhà thơ đã đưa người đọc đến hình ảnh thật là đẹp:
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng."
Đoàn thuyền đánh cá ra khơi có gió làm bánh lái vầng trăng khuyết trên trời cao đã
trở thành cánh buồm. Gió và trăng đã trở thành hai bộ phận của con thuyền giúp sức
cùng ngư dân đưa đồn thuyền ra khơi. Sự hịa hợp giữa con người và thiên nhiên.
Trước mắt nhà thơ đoàn thuyền đánh cá giống như những con thuyền thơ lướt nhẹ
trên mặt biển và in đầy trăng sao.
Và giờ đây đoàn thuyền ấy cùng với những người ngư dân đang"Ra đậu dặm xa dò
bụng biển". Những người ngư dân của thời đại mới thực sự làm chủ biển khơi, làm
chủ cuộc đời, trang bị phương tiện tiên tiến, hiện đại, những con người ra khơi để
thăm dò "bụng biển" đánh bắt tài nguyên đem về xây dựng đất nước.
Bằng trí tưởng tượng kết hợp cách nói khoa trương gợi ra trước mắt người đọc hình
ảnh đồn thuyền đánh cá đang "Dàn đan thế trận lưới vây giăng." Những con thuyền
to lớn, tư thế hùng dũng, hiên ngang, giống như những thuyền chiến còn con người
đang thả lưới vây giăng chuẩn bị bước vào trận chiến đấu mới trên mặt trận lao động.
Nhà thơ đã nâng tầm vóc con người lên sánh ngang cùng biển rộng vũ trụ.
Đã bao đời, người ngư dân có mối quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như
thuộc lịng bàn tay. Bao lồi cá họ thuộc tên, thuộc dáng, thuộc cả thói quen của
chúng:
"Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long."
Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc, cá quẫy đi, sóng sánh trăng vàng.
Bài ca "gọi cá "vẫn tiếp tục ngân vang, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng thức cùng ngư
dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền, như "gõ nhịp" phụ họacho tiếng hát.
Trăng chiếu sáng cho người kéo được những mẻ cá đầy. Thiên nhiên con người thật là
hòa hợp.
Bóng đêm đang tan, ngày đang đến, nhịp độ cơng việc càng sôi nổi, khẩn trương:
"Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đơng
Bao cơng lao vất vả đã được đền bù. Dáng người ngư dân đang chỗi chân nghiêng
người, dồn tất cả sức mạnh vào đơi cánh tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới
nặng trĩu mới đẹp làm sao! Bóng dáng họ in trên nền trời hồng của buổi bình minh.
Những tia nắng sớm chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh thêm "vẩy bạc, đi vàng"
và màu sắc phong phú của bao lồi cá cũng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ.
Nhịp điệu câu thơ cuối của khổ thơ trên chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi,
phản ánh tâm trạng thoải mái của ngư dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi.
Nếu những người ngư dân ra khơi cất cao tiếng hát thì khi hồn thành họ cũng cất cao
tiếng hát:
"Câu hát căng buồm với gió khơi
Đồn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hồng mn dặm phơi."
Với bút pháp khoa trương lại một lần nữa nhà thơ tưởng tượng câu hát của người ngư
dân, câu hát cùng gió thổi căng cánh buồm đưa con thuyền về bến nhanh hơn. Dường
như thiên nhiên và con người có sự hịa hợp. Tiếng hát còn thể hiện tinh thần lạc quan
yêu đời niềm vui trước thành quả lao động của những ngày vất vả trên biển.
Câu hát xuất hiện ở khổ đầu giờ lại lặp lại ở khổ cuối tạo cho bài thơ đầu cuối tương
ứng. Bút pháp khoa trương cùng trí tưởng tượng nhà thơ đã hình dung trước mặt mình
là khung cảnh tráng lệ, sôi động. Mặt biển rộng lớn trở thành trường đua với hai đối
thủ là con người và mặt trời.
Và chắc hẳn con người sẽ thắng bởi họ đã một lần chiến thắng biển khơi với những
khoang thuyền đầy cá. Đặt con người trong cuộc tranh tài với thiên nhiên là nhà thơ
khẳng định tầm vóc của con người có thể sánh ngang thiên nhiên. Hịa cùng niềm vui
to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng.
Đồn thuyền lao vun vút trên mặt biểu, "Mặt trời đội biển nhô màu mới" một màu
hồng rạng rỡ, tinh khôi, và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá trên
thuyền, khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ xíu đang tỏa sáng niềm
vui. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất sống trong
từng dáng hình, đường nét của cảnh, của người.
Bài thơ đã thể hiện rõ tinh thần của nhân dân lao động lúc bấy giờ và cũng thể hiện rõ
cảnh đẹp quê hương đất nước với nguồn tài nguyên phong phú. Tác giả với tình yêu
thiên nhiên, yêu con người lao động đã thể hiện được không khí sơi nổi, hào hùng của
đất nước ta khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
<b>5. Phân tích Đồn thuyền đánh cá - mẫu 4</b>
gieo... trong đó có bài thơ "Đồn thuyền đánh cá". Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa
Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra ngoài biển trong thời khắc màn đêm
dần bao xuống.
"Mặt trời xuống biển như hịn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi."
Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa để miêu tả cảnh hồng hơn, miêu tả
cảnh đất trời đang đi dần vào bóng tối. Hình ảnh trong hai câu thơ đầu tiên là một
hình ảnh liên tưởng khá đẹp về hồng hơn "mặt trời" được so sánh giống như "hòn
lửa" tạo nên một gam màu rực rỡ trong buổi hồng hơn.
Hình tượng "sóng cài then", "đêm sập cửa" là những động từ mạnh miêu tả cảnh đất
trời chuyển giao giữa ngày và đêm một cách chóng vánh. "Đồn thuyền đánh cá lại ra
khơi", tác giả dùng từ "lại" với ý nghĩa là hành động lặp lại mỗi ngày của người dân
làng chài vùng biển. Họ ra khơi đánh cá, ra khơi để kiếm nguồn sống, những người
lao động vùng biển vất vả trong khi những người khác sắp sửa đi vào giấc ngủ thì
những con người lao động nơi đây lại thức đêm đánh cá.
"Câu hát" gợi nên vẻ thanh bình mà cũng khơng kém phần nhộn nhịp. Người lao động
ra khơi trong một tâm thế lạc quan, yêu đời, yêu nguồn sống, nên vừa ra khơi họ vừa
hát. Hát để lấy sức căng buồm, hát để chèo thuyền, lái thuyền, hát để mọi người cảm
nhận được niềm vui sướng trong mỗi chuyến tàu ra khơi.
"Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đồn thoi
Đêm ngày dệt biển mn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!"
Câu hát vang vọng nơi đất trời, câu hát tạo nguồn sống, tạo niềm tin cho người lao
động vùng biển. Lời hát ngợi ca sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp
lung linh, diệu kỳ của nó trong đêm. "Đêm ngày dệt biển mn luồng sáng", hình ảnh
của những chiếc thuyền đánh cá trong đêm với ánh sáng từ nhiều nguồn khác nhau rọi
xuống: ánh sáng từ trăng, ánh sáng từ những chiếc đèn pin củ ngư dân, hòa sắc màu
tạo nên vùng sáng long lanh dưới mặt nước.
vui tươi, được no đủ. Bằng tài năng sử dụng bút pháp lãng mạn kết hợp với độ liên
tưởng phong phú của nhà thơ mà bức tranh thiên nhiên hiện lên vừa thực lại vừa ảo.
"Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Thiên nhiên, đất trời hòa quyện cùng với con người tạo nên một hình ảnh tuyệt đẹp
trong liên tưởng của tác giả. Những hình ảnh "lái gió", "buồm trăng", "mây cao",
"biển bằng" là những hình ảnh đẹp mang đậm chất hiện thực. Mỗi một chuyến ra khơi
của đoàn thuyền đánh cá cũng như tham gia đánh trận, cùng phải dàn binh, bố trận,
cũng phải có vũ khí, cũng phải thăm dị, cũng phải đối chọi với thiên nhiên đất trời
nơi bão bùng, sóng lớn...
Một trận chiến với cá cũng khiến cho con người phải suy nghĩ, phải sống chiến đầu
với thiên nhiên nhưng cũng phải hòa quyện cùng với thiên nhiên để tạo ra một tâm thế
tốt, một cảnh sắc hài hòa và có nhịp điệu trong cuộc sống. Trong khổ thơ nối tiếp
cuộc sống lao động của người lao động, tác giả đã chuyển tiếp sang miêu tả cảnh biển
giàu có nguồn cá.
"Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long."
Có rất nhiều loại cá: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song... biện pháp liệt kê đã nhấn mạnh
sự giàu có của biển cả. Lịng đại dương mệnh mơng rộng lớn, là nơi chứa những
nguồn hải sản quý giá. Những hình ảnh chân thực mà ảo diệu đến tinh tường, dưới
ánh trăng lấp lánh, dưới mặt nước phản chiếu lung linh, những chú cá quẫy đi mình
để vùng vẫy, để tự do bơi lội thoải mái cũng đã mắc giăng mẻ lưới của con người.
Tiếng "đêm thở", tác giả đã dùng biện pháp nhân hóa hình ảnh của màn đêm. Tiếng
thở ấy, có lẽ là tiếng thở của chính những con người lao động vất vả trên mặt biển để
mang về những sản phẩm sau một đêm dài lênh đênh nơi sóng nước. Màn đêm tĩnh
mịch hòa cùng tiếng thở của con người tự như chính màn đêm đang thở vậy. Một hình
ảnh rất đẹp mà lại rất gần gũi.
"Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Ni lớn đời ta tự buổi nào"
Những hình ảnh giản dị lần lượt hiện lên qua khổ thơ. Tiếng hát một lần nữa lại được
tác giả nhắc lại, phải chăng đó chính là tiếng hị dơ của con người khi kéo được mẻ cá
nặng. Tiếng hát, cùng với tiếng nhịp thuyền gõ vào mạn thuyền để gọi cá, vừa có lời
bài hát, vừa có tiết tấu. Một hình ảnh đẹp hiện ra trước mắt ta như một đoàn hợp
xướng chuyên nghiệp trên sân sấu.
Đó là những hình ảnh rất đẹp, rất giản dị mà lại rất gần gũi. Tác giả so sánh biển như
lịng mẹ, lịng mẹ thì có bao giờ lại độc với con cái của mình, người mẹ bao giờ cũng
mang đến cho người con những gì là của con nhất, mang đến cho người con những gì
mà người con cần nhất. Vì mẹ là mẹ, mẹ là người phụ nữ hy sinh cho con rất nhiều.
Mẹ đã ni lớn ta từ khi ta cịn trong lịng mẹ, cũng giống như biển cả cho con người
lao động những mẻ cá để nuôi lớn con người, rồi cứ thế hệ này tới thế hệ khác.
"Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đơng
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng"
Một vòng tròn quỹ đạo đang chuyển từ đầu đoạn thơ cho tới cuối đoạn thơ. Đoàn
thuyền ra khơi từ lúc mặt trời xuống biển cho tới lúc mặt trời mọc, bình minh bắt đầu
cho một ngày mới lên. Có thể nói, tác giả đã từng quan sát rất kỹ, đã từng trải nghiệm
và cảm nhận về cuộc sống của người lao động làng chài rất kỹ mới có thể viết lên
những câu thơ đẹp đẽ đến như thế.
"Kịp trời sáng", "xoăn tay", "rạng đông", "nắng hồng" là những từ ngữ được sắp xếp
rất đều đặn, rất đẹp, rất có ý tứ. Câu thơ đã nói lên thành quả lao động của con người,
sản phẩm họ thu được là thành quả của một đêm dài lao động trên biển một đêm dài
"Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đồn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhơ màu mới
Mắt cá huy hồng mn dặm phơi."
Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng
dáng hình, đường nét của cảnh, của người. Cảnh bình minh thật huy hồng nhưng
người lao động khơng kịp ngắm nó, hầu như mọi tâm trí của họ chỉ tập trung vào cơng
việc lao động. Đây chính là tinh thần lao động của nhân dân ta trong thời kì xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Với bút pháp nghệ thuật kết hợp với trí tưởng tượng phong phú, tác giả đã khái qt
hóa hình ảnh người lao động qua những vần thơ làm cho người đọc như đang chứng
kiến cảnh lao động của người dân vùng chài. Hình ảnh đẹp mà giản dị, giọng văn tinh
tế mà lôi cuốn, bài thơ đã tạo chất nhạc, đã tạo nên khí thế cho người lao động thời kỳ
xây dựng chủ nghĩa xã hội.