HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN TRIẾT HỌC
......................
BÀI THU HOẠCH
MÔN TRIẾT HỌC
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
VỚI CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI TẠI VIỆT NAM
Học viên:
Mã học viên:
Lớp:
Đơn vị công tác:
HÀ NỘI - 2021
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn vấn đề nghiên cứu
Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, có tác
động trực tiếp đến những hoạt động cơ bản của con người cũng như quá trình
phát triển của lồi người. Mặc dù, C.Mác và Ph.Ăngghen khơng có một tác
phẩm riêng nào bàn về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, nhưng khi
nghiên cứu về quá trình vận động, phát triển của xã hội loài người, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã bàn đến khá nhiều vấn đề kinh tế, chính trị và mối quan hệ
của chúng. Các quan điểm lý luận về quan hệ giữa kinh tế và chính trị được
các ơng thể hiện trong nhiều tác phẩm khác nhau, được viết vào các thời kỳ
khác nhau và được rút ra khi phân tích những sự kiện cụ thể khác nhau.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, q trình đổi mới đất nước nói
chung và đổi mới kinh tế, chính trị ở nước ta nói riêng vẫn còn những bất cập,
hạn chế. Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Nền kinh tế chủ yếu vẫn phát triển
theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về
vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa vào tri thức và khoa học
cơng nghệ, thiếu nhiều lao động có kỹ năng”. Ngồi ra, đổi mới chính trị cịn
chậm và hiệu quả còn thấp.
Việc nghiên cứu quan điểm của C.Mácvà Ph.Ăngghen về mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị là cơ sở phương pháp luận để xem xét việc giải quyết
mối quan hệ này ở Việt Nam hiện nay. Đó cũng là nội dung báo cáo thu hoạch
môn học của học viên.
2. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua việc tìm hiểu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan
hệ giữa kinh tế và chính trị, quan điểm mang tính định hướng của Đảng về đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam, từ đó kiến nghị, giải pháp biện
chứng trong đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
3. Kết cấu của bài thu hoạch
3
Ngoài mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung bao gồm 2
mục: (1) Chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và
chính trị; (2) Vận dụng quan điểm Mác xít về quan hệ biện chứng giữa kinh tế
và chính trị trong đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
NỘI DUNG
1. CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA
KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
1.1. Khái niệm kinh tế và chính trị
1.1.1. Khái niệm kinh tế
Trước hết, trong lịch sử tư tưởng triết học phương Đông, khái niệm
kinh tế được quan niệm là hoạt động “kinh bang tế thế”. Đó chính là các cơng
việc mà tầng lớp cai trị trong xã hội phải đảm nhiệm trong việc chăm lo đời
sống vật chất và đời sống tinh thần cho cộng đồng, làm cơ sở của hoạt động
cai trị đảm bảo sự ổn định của quốc gia và vương triều. Theo nghĩa đó, khái
niệm về đời sống kinh tế đã hàm nghĩa cả đời sống chính trị.
Đối với lịch sử xã hội Hy Lạp cổ đại, kinh tế là thuật ngữ được ghép
bởi hai từ οἶκος [oikos] và νόμος [nomos], nghĩa là tổ chức và quản lý đời
sống gia đình, bao hàm điều tiết để đảm bảo sự tiêu hao thấp nhất về nhân lực,
vật lực, thời gian để đạt hiệu quả cao nhất trong sản xuất. Như vậy, so với
quan niệm của người phương Đông, trong xã hội phương Tây thời kỳ cổ đại,
quan niệm về hoạt động kinh tế có phạm vị hẹp hơn.
Xét về các quan điểm chung trong lịch sử tư tưởng, kinh tế được nghiên
cứu trong triết học có phạm vi khái quát rộng hơn so với kinh tế học. Trong
lĩnh vực triết học, kinh tế được hiểu là triết học kinh tế, và do vậy luôn được
tiếp cận theo hai chức năng cơ bản của triết học bao gồm thế giới quan và
phương pháp luận.
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, kinh tế hay những quan hệ
kinh tế là những cách thức và phương thức tiến hành sản xuấtcũng như trao
4
đổi sản phẩm giữa người và người trong việc duy trì đời sống vật chất xã hội,
và trên cơ sở đó quy định mọi quan hệ xã hội khác. Do vậy, kinh tế là cơ sở
quyết định sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội.Như vậy về phương
diện triết học, nói đến kinh tế là nói đến quan hệ giữa các chủ thể trong tổng
hợp của các quan hệ sản xuất hợp thành kết cấu kinh tế - xã hội, hợp thành
một cơ sở hạ tầng trong một hình thái kinh tế - xã hội. Và do đó, kinh tế là cơ
sở quy định quy định trên đó một kiểu quan hệ chính trị của kiến trúc thượng
tầng tương ứng trong xã hội đó.
Tóm lại, kinh tế là tổng hịa các quan hệ lợi ích giữa người và người
trong một nền sản xuất xã hội, đồng thời là cơ sở quy định quan hệ giữa người
và người trong mọi phương diện của đời sống xã hội, và cũng đồng thời là cơ
sở động lực cho mỗi cá nhân và cho cả xã hội phát triển.
1.1.2. Khái niệm chính trị
Chính trị là quan niệm được hình thành đồng thời với sự xuất hiện của
nhà nước. Dù trong lịch sử xã hội phương Đơng hay phương Tây, nói đến
chính trị là nói đến lĩnh vực hoạt động duy trì địa vị và thực thi quyền lực của
tầng lớp cai trị quốc gia.
Trong lịch sử phương Đông của người Trung Hoa thời kỳ cổ đại, theo
nghĩa chung, chính trị là hoạt động của bộ máy cai trị nhằm duy trì địa vị của
tầng lớp cầm quyền và công việc đảm bảo sự ổn định của quốc gia. Xét về nội
dung của tư tưởng chính trị bao gồm hai đường lối chính trị cơ bản là “Đức
trị” và “Pháp trị”. Theo đó, đường lối “Đức trị” ln nhấn mạnh ngun tắc
“Vi chính dĩ đức”, nghĩa là lấy đức cai trị xã hội. Ngược lại, đường lối “Pháp
trị” luôn nhấn mạnh nguyên tắc “Dĩ pháp trị quốc”, nghĩa là trị nước bằng luật
pháp. Những quan điểm này cho đến nay vẫn có sự ảnh hưởng nhất định trong
đời sống chính trị của một số nước phương Đông.
Trong lịch sử phương Tây của người Hy Lạp cổ đại, theo Arixtốt chính
trị là một cộng đồng xã hội - nhà nước thành bang (polis) được hình thành từ
xã hội tự nhiên của cộng đồng các gia đình. Tuy nhiên, một khi đời sống xã
5
hội tự nhiên đã chuyển sang đời sống xã hội của nhà nước thành bang (polis),
được tổ chức bởi “cộng đồng chính trị” (Koinonia politike), và khi đó con
người vừa sống tự nhiên, vừa đồng thời sống trong cộng đồng. Song, sự biến
đổi từ trạng thái tự nhiên của xã hội sang trạng thái xã hội của một nhà nước,
cũng chính là cơ sở hình thành trạng thái chính trị của đời sống con người. Và
như vậy, trong quan niệm của Arixtốt, nhà nước thành bang chính là một xã
hội được tổ chức trong một chế độ chính trị, và đây cũng chính là cơ sở quy
định cho sự phát triển của con người theo nghĩa là “động vật chính trị”, so với
sự tồn tại của con người khi vẫn còn trong cộng đồng xã hội tự nhiên.
Đến quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, với tư cách là một hiện tượng
xã hội đặc biệt - thuộc về kiến trúc thượng tầng, chính trị chỉ xuất hiện khi xã hội
phân chia thành các giai cấp, đồng thời với sự xuất hiện của nhà nước.
Như vậy, xuất phát trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chính
trị ln phải được xem xét trong mối quan hệ biện chứng với kinh tế, nghĩa là
trong mối quan hệ với bản thân quan hệ giữa các giai cấp có địa vị kinh tế hợp
thành chỉnh thể xã hội. Theo đó, xét về bản chất, chính trị là quan hệ giữa các
giai cấp,được hình thành và bị quy định bởi một cơ sở hạ tầng - kết cấu kinh
tế của một xã hội, bởi bậy “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế”;
“chính trị là cái kinh tế được cơ đọng lại”; “chính trị là sự đấu tranh giữa các
giai cấp”; “Chính trị là sự tham gia vào những cơng việc của nhà nước, là
việc vạch hướng đi cho nhà nước, là việc xác định hình thức, nhiệm vụ, nội
dung hoạt động của nhà nước”. Như vậy, quan hệ giữa các giai cấp dựa trên
địa vị kinh tế của mình là cơ sở quy định nội dung và tạo thành nền tảng hết
sức quan trọng của chính trị.
Tuy nhiên, khơng chỉ dừng lại trong hoạt động kinh tế, quan hệ giai cấp
chỉ trở thành chính trị theo đúng nghĩa, khi chúng là hình thức biểu hiện của
cuộc đấu tranh giành lấy quyền lực nhà nước nhằm đạt tới địa vị thống trị.
Nói cách khác, bất kỳ cuộc đấu tranh giai cấp nào ở trình độ phát triển cao
của nó đều là đấu tranh chính trị. Với sự xuất hiện của đảng chính trị đã nói
6
lên sự tưởng thành của cuộc đấu tranh giai cấp. “Cuộc đấu tranh của các chính
đảng là biểu hiện hồn chỉnh, đầy đủ và rõ rệt nhất của cuộc đấu tranh chính
trị của các giai cấp”.
Tóm lại, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là cơ sở quy định
nội dung trong mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các đảng phái, giữa các
dân tộc, giữa các quốc gia có liên quan tới vấn đề giành, giữ và sử dụng
quyền lực nhà nước. Đến lượt mình, hoạt động chính trị thực tiễn của các giai
cấp, các đảng phái, các dân tộc và các nhà nước chính là việc hiện thực hố
lợi ích cơ bản của mình trong mối tương quan với các chủ thể chính trị khác
nhằm củng cố cho sự ổn định của một chế độ nhà nước.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa kinh tế
và chính trị.
1.2.1. Vai trị quyết định của kinh tế đối với chính trị.
Trong lý luận hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
nghiên cứu một cách sâu sắc mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng - thực chất của mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
Các ơng cho rằng, cơ sở hạ tầng bao giờ cũng là nhân tố cơ bản quyết
định kiến trúc thượng tầng, nhân tố quyết định trong lịch sử, xét đến cùng, là
sự sản xuất và sự tái sản xuất ra đời sống hiện thực. C.Mác chỉ rõ: “Phương
thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội,
chính trị và tinh thần nói chung”, và khi “cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả cái
kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều, nhanh chóng”.
Kinh tế, nếu hiểu theo nghĩa là toàn bộ các quan hệ sản xuất hợp thành
kết cấu kinh tế - xã hội của một giai đoạn lịch sử thì nó là một hệ thống tác
động đến chính trị, chứ khơng phải tác động với tư cách là từng nhân tố rời
rạc. Trong hệ thống này, lực lượng kinh tế nào giữ vai trò thống trị sẽ quyết
định kiến trúc thượng tầng kể cả tư tưởng lẫn thiết chế tương ứng. Trong Hệ
tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Trong mọi thời đại, những tư
tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị” và “Những tư tưởng
7
thống trị khơng phải là cái gì khác mà chỉ là sự biểu hiện tinh thần của những
quan hệ vật chất thống trị, chúng là những quan hệ vật chất thống trị được
biểu hiện dưới hình thức tư tưởng; do đó, là sự biểu hiện của chính ngay
những quan hệ làm cho một giai cấp trở thành giai cấp thống trị; do đó, đó là
những tư tưởng của sự thống trị của giai cấp ấy”.
Điều đó có nghĩa là, quan hệ sản xuất thống trị là cơ sở để tạo ra giai
cấp thống trị và tư tưởng chính trị. Song khi nói kinh tế quyết định chính trị,
chủ nghĩa Mác không bao giờ xem kinh tế là yếu tố duy nhất. Xã hội, theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác, là sản phẩm tổng hợp các mối quan hệ giữa
người và người. Trong xã hội, ngoài các yếu tố vật chất còn các yếu tố tinh
thần. Tất cả các yếu tố này đều nằm trong một chỉnh thể và thường xuyên tác
động qua lại với nhau tạo nên sự vận động và biến đổi của xã hội.
Tuy nhiên không tuyệt đối hóa kinh tế, Ph.Ăngghen cịn chỉ rõ: “theo
quan điểm duy vật lịch sử, nhân tố quyết định trong quá trình lịch sử xét đến
cùng là sự sản xuất ra đời sống hiện thực. Cả tôi lẫn Mác chưa bao giờ khẳng
định gì hơn thế. Cịn nếu ai xun tạc luận điệu này theo ý nghĩa nhân tố kinh
tế là nhân tố quyết định duy nhất, thì người đó biến lời khẳng định này thành
câu trống rỗng, trừu tượng, vô nghĩa…”.
Cũng trên tinh thần đó, trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ tư hữu và của nhà nước, Ph.Ăngghen đã nêu rõ sự hình thành của ba
nhà nước khác nhau: nhà nước Aten, nhà nước La Mã và nhà nước Giécmanh.
Đây là ba nhà nước đều hình thành cùng với sự xuất hiện chế độ tư hữu đầu
tiên trong lịch sử loài người. Song với những điều kiện cụ thể khác nhau ở
từng nước, nên các hình thức tổ chức của các nhà nước này vì thế lại khác
nhau. Điều này cho thấy, việc nhận thức về sự hình thành nhà nước khơng chỉ
thuần túy dựa vào yếu tố kinh tế cho việc giải thích được các hiện tượng phức
tạp trên hình thức tổ chức của bộ máy nhà nước ở mỗi quốc gia.
8
Như vậy, mỗi một chế độ nhà nước cũng như mỗi một thể chế chính trị
ngồi sự bị quy định bởi những tiền đề, điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội, nó
cịn chịu ảnh hưởng đáng kể của các yếu tố truyền thống của mỗi một dân tộc.
Theo nghĩa đó, khi nói về nhà nước vơ sản, Lênin khẳng định: “Tất cả
các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều khơng tránh khỏi,
nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội khơng phải một cách
hồn tồn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức
này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của
chun chính vơ sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác nhau của việc cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội”.
Những điều này cho thấy, khi nói đến kinh tế quyết định chính trị, chủ
nghĩa Mác không bao giờ xem kinh tế là yếu tố duy nhất. Bởi vì trong một xã
hội cụ thể nhất định, ngoài các yếu tố trong lĩnh vực vật chất cịn có các yếu
tố trong lĩnh vực tinh thần. Tất cả các yếu tố này đều nằm trong một chỉnh thể
và thường xuyên tác động qua lại với nhau tạo nên sự vận động và biến đổi
của xã hội, và xét đến cùng luôn chịu sự tác động quyết định của lực lượng
sản xuất.
Điều đó nhấn mạnh rằng, để xem xét một thể chế chính trị phải xem xét
một cách tồn diện. Nếu tuyệt đối hóa phương diện kinh tế cũng như kể cả
việc tuyệt đối hóa bất kỳ một phương diện nào khác, thì đều rơi vào quan
điểm phiến diện, một chiều, thậm chí là cực đoan trong việc xem xét về chính
trị và đương nhiên sẽ khơng tránh khỏi sai lầm.
Cũng trên cơ sở phương pháp luận trong việc xem xét về mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị, thì mặc dù, chủ nghĩa Mác - Lênin nêu lên hai luận
điểm nền tảng: Một là, chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế; Hai là,
chính trị khơng thể khơng chiếm vị trí ưu tiên so với kinh tế; song điều đó này
có nghĩa là, so với kinh tế, chính trị là sự phản ánh, là “tính thứ hai”; khơng
có quan hệ chính trị và quy luật chính trị độc lập tuyệt đối với các quan hệ và
quy luật kinh tế.
9
Như vậy, kinh tế là nền tảng của chính trị, là thước đo tính hợp lý của
chính trị, tương ứng với một trình độ phát triển nhất định về kinh tế là một
trình độ phát triển nhất định về chính trị. Nói cách khác, cơ cấu thể chế chính
trị bao giờ cũng tương ứng với một cơ sở kinh tế nhất định. Do đó, khi giải
thích mọi sự biến đổi về chính trị, cần phải xuất phát từ căn nguyên kinh tế.
Sự biến đổi, phát triển kinh tế là nguồn gốc sâu xa của mọi sự biến đổi về xã
hội và đảo lộn về chính trị. Khi kinh tế phát triển thì chính trị tiến bộ, ngược
lại khi kinh tế khủng hoảng, chính trị cũng sẽ ảnh hưởng thậm chí có thể bị
khủng hoảng theo.
1.2.2. Tính độc lập tương đối của chính trị so với kinh tế
1.2.2.1. Chính trị có quy luật vận động “riêng”.
Tính độc lập tương đối của chính trị thể hiện ở chỗ, bản thân “Chính trị
có lơgic khách quan của nó, khơng phụ thuộc vào những dự tính của cá nhân
này hay cá nhân khác, của đảng này hay đảng khác”. Hơn nữa, chính trị với tư
cách là biểu hiện tập trung của kinh tế, do vậy chính trị “là quyền lực nhà
nước - cũng là một tiềm lực kinh tế”.
Tính độc lập tương đối theo quy luật “riêng” của chính trị trên cơ sở
của “sự tác động qua lại giữa hai lực lượng không giống nhau: một bên là của
sự vận động kinh tế, còn bên kia là của lực lượng chính trị mới đang vươn tới
tính độc lập càng lớn càng tốt và một khi nó bắt đầu hoạt động thì nó cũng có
sự vận động riêng của nó. Sự vận động kinh tế nói chung và nhìn tổng thể sẽ
tiện mở đường cho mình, nhưng nó cũng sẽ chịu sự tác động ngược lại của sự
vận động chính trị mà chính nó tạo ra và có tính độc lập tương đối”.
Tuy nhiên, chính trị có quy luật vận động “riêng” của nó, song sự vận
động của chính trị ln bị quy định bởi mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị,
bị mối quan hệ này chi phối, nghĩa là quy luật “riêng” ấy chỉ có tính độc lập
tương đối mà thơi. Điều đó lại cho thấy, ở bất kỳ thời đại nào, chính trị nếu
khơng hướng vào việc giải quyết thỏa đáng các quan hệ lợi ích nhằm phát
triển kinh tế thì sẽ khơng có cơ sở để tồn tại, sớm muộn sẽ bị thay thế bởi một
10
chính trị mới phù hợp hơn, tiến bộ hơn. Chính trị chủ yếu là xây dựng nhà
nước về mặt kinh tế.
1.2.2.2. Chính trị tác động trở lại kinh tế.
Chính trị là nhân tố lãnh đạo kinh tế, vạch hướng đi cho kinh tế, tạo
những điều kiện chính trị, xã hội cho kinh tế phát triển. Do đó, “Chính trị
khơng thể không giữ địa vị hàng đầu so với kinh tế”, “không thể không ưu
tiên hơn, so với kinh tế”, “không có một lập trường chính trị đúng thì một giai
cấp nhất định nào đó khơng thể nào giữ được thống trị của mình, và do đó,
cũng khơng thể hồn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất”.
Mặc dù là cơ sở quy định đối với chính trị, song “sự vận động kinh tế
chịu ảnh hưởng một bên là sự vận động quyền lực nhà nước, còn một bên là
của lực lượng đối lập sinh ra đồng thời với quyền lực ấy.”
Lịch sử chứng minh, khơng có nền kinh tế nào trong xã hội có giai cấp
mà lại khơng chịu sự chi phối điều tiết của chính trị, khơng trực tiếp thì cũng
gián tiếp, khơng biểu hiện bên ngồi thì cũng ẩn dấu ở bên trong. Điều khác
nhau chỉ là nền chính trị nào? Nhà nước thuộc về ai?... Khi nói kinh tế có
trước chính trị, quyết định chính trị có nghĩa là phải tìm nguồn gốc ngun
nhân của chính trị trong kinh tế. Và khi nói chính trị là biểu hiện tập trung của
kinh tế, chính trị ưu tiên so với kinh tế, chính trị khơng thể khơng chiếm vị trí
hàng đầu là nói đến tác động tích cực của chính trị khi giải quyết nhiệm vụ
kinh tế. Bởi vì, một giai cấp muốn giải quyết vấn đề kinh tế của mình phải
nâng lên quy mơ giai cấp mà giải quyết chứ không phải là ở từng cá nhân và
tất yếu phải nắm quyền lực nhà nước để giải quyết lợi ích của giai cấp mình.
Đây là điều kiện, là tiền đề để giải quyết các vấn đề kinh tế. Ở đây chính trị đã
được “thiết chế hoá” thành hệ thống của các các bộ máy mà biểu hiện tập
trung là nhà nước. Nó tác động trở lại kinh tế như là sức mạnh kinh tế. Trong
thực tiễn, sự tác động này có thể theo các hướng:
Một là, cùng chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó, chính trị có vai trị
tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
11
Hai là, ngược chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó, chính trị là một
vật cản, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, chính trị có khả năng hạn chế phần nào phạm vi tác động những
khuynh hướng phát triển này, hoặc có thể đẩy mạnh tác dụng của những
khuynh hướng phát triển khác trong một chế độ kinh tế nhất định.
Từ những luận điểm trên, trong điều kiện của cách mạng xã hội chủ
nghĩa cho thấy vị trí ưu tiên của chính trị so với kinh tế biểu hiện ở chỗ:
Thứ nhất: Giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động muốn giải phóng
mình khỏi những quan hệ tư sản và tiểu tư sản làm tha hoá con người, trước
hết họ phải giành lấy quyền lực chính trị, phải hình thành hệ thống chính trị
của mình. Chỉ sau đó, họ mới có tiền đề để cải tạo các quan hệ kinh tế - xã
hội, biến mình thành chủ thể sở hữu các tư liệu sản xuất cơ bản, phát triển
kinh tế vì lợi ích của bản thân mình và sự phát triển của tồn xã hội. Đề cập
tới điều đó, trong tác phẩm Tun ngơn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen
viết: “bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến
thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”.
Thứ hai: Phải bảo đảm quan điểm chính trị khi giải quyết các vấn đề
kinh tế và xã hội. Ở đây, các quan điểm chính trị khoa học mang lại khả năng
can thiệp một cách tự giác vào quá trình kinh tế khách quan.
Bằng nhận thức khoa học về những xu hướng và quy luật kinh tế - xã
hội khách quan, chính trị có thể vận dụng tổng hợp một số quy luật, một số
điều kiện để tăng cường tác động của quy luật này, hạn chế tác động tiêu cực
của quy luật khác nhằm đưa đời sống kinh tế - xã hội phát triển theo đúng quỹ
đạo khách quan, đồng thời có lợi nhất cho chủ thể chính trị. Chỉ như vậy mới
có thể làm cho sự tăng trưởng kinh tế đạt mục tiêu giải phóng con người, phát
triển tự do và toàn diện của con người - lý tưởng cao cả của chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay, chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường nhằm giải phóng và
phát huy các năng lực sản xuất, tăng nhanh năng suất lao động, tạo ra nhiều
của cải vật chất cho xã hội. Cho nên ngay từ buổi bình minh của nó, phải có
12
sự tác động có tính định hướng của Nhà nước, của chính trị. Sự cần thiết phải
chú ý đúng mức đến vai trị của chính trị đối với nền kinh tế nhiều thành phần
với mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là do:
Một mặt, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về thực
chất là một kiểu tổ chức vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh
tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã
hội. Ở đây, nhóm nhân tố kinh tế thị trường chủ yếu đóng vai trị động lực
thúc đẩy; nhóm nhân tố xã hội chủ nghĩa đóng vai trị vừa là động lực, vừa
hướng dẫn và định hướng sự vận động của nền kinh tế theo mục tiêu đã định.
Vì thế, vai trị của chính trị vừa là động lực vừa là tay lái bảo đảm cho các
động lực đó theo một hướng. Thực tiễn chứng minh, những chính sách kinh tế
của Đảng và Nhà nước ta trong suốt 30 năm đổi mới vừa qua thực chất là
những quyết định đột phá tạo nên động lực kinh tế, giải phóng sức sản xuất,
trực tiếp thúc đẩy kinh tế phát triển.
Mặt khác, chính trị định hướng kinh tế góp phần duy trì và củng cố
quyền lực chính trị và kinh tế của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Mặt khác, các quan điểm chính trị can thiệp vào q trình kinh tế, sự
điều tiết của nó được biểu hiện bằng chính sách, kế hoạch, luật pháp và các
công cụ điều tiết khác nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con
đường xã hội chủ nghĩa. Và điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình
trạng kinh tế - xã hội kém phát triển, chiến thắng những lực lượng cản trở việc
thực hiện những mục tiêu đã xác định.
Trong quan điểm phát triển kinh tế thị trường như vậy, nếu thiếu sự
định hướng, rất có thể trung tâm quyền lực chính trị khơng cịn nằm trong tay
giai cấp công nhân và nông dân lao động, mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn
liền với tiến bộ và công bằng xã hội không thực hiện được. Do đó, khơng thể
tách rời kinh tế thị trường với sự định hướng xã hội chủ nghĩa. Mối quan hệ
này mang tính nội tại khách quan tất yếu của quá trình phát triển đất nước ta
hiện nay. Khơng có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ nhờ đó nền sản
13
xuất được xã hội hố... thì cũng khơng có chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, nếu
khơng có sự định hướng xã hội chủ nghĩa tức là khơng có sự can thiệp điều
tiết của chính trị, nhà nước thì càng khơng có chủ nghĩa xã hội.
2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM MÁC XÍT VỀ QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ
CHÍNH TRỊ TRONG ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quan điểm mang tính định hướng của Đảng về đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị ở Việt Nam
Khái niệm “đổi mới” được Đảng ta xác định là nhằm kế thừa và phát
huy những thành quả và giá trị mà chủ nghĩa xã hội đã đạt được, thay đổi, uốn
nắn những quan điểm, nhận thức về chủ nghĩa xã hội chưa được xác định
đúng hoặc hiện nay khơng phù hợp với tình hình mới, sửa chữa những sai
lầm, khuyết điểm, đồng thời xây dựng những chính sách đổi mới, những giải
pháp đúng, phù hợp với cuộc sống để đưa chủ nghĩa xã hội phát triển lên một
giai đoạn mới.
Trong thực hiện đổi mới đất nước, Đảng chủ trương phải “đổi mới toàn
diện, đồng bộ với bước đi thích hợp”. Đổi mới đồng bộ từ kinh tế, chính trị
đến tư tưởng và văn hoá; song trọng tâm là đổi mới kinh tế. Tuy nhiên, nội
dung cốt lõi của đổi mới toàn diện đất nước là trên cơ sở: “kết hợp chặt chẽ
ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”. Đây là bài học vơ cùng
quý giá đã được chứng minh trong suốt 30 năm đổi mới vừa qua và tiếp tục
được khẳng định và bổ sung theo tinh thần trong chủ đề của Đại hội XII về:
“Đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới”.
Quan điểm về đổi mới kinh tế
Trước hết, đổi mới kinh tế ở Việt Nam là quá trình chuyển từ nền kinh
tế tập trung, quan liêu bao cấp, sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, dưới sự lãnh
đạo của Đảng; kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, bảo vệ môi
14
trường sinh thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trongđiều kiện đất nước vẫn còn khủng hoảng kinh tế - xã hội, mục
tiêu cơ bản của đổi mới kinh tế là thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội
và tạo tiền đề cho cơng nghiệp hóa.
Từ sau Đại hội lần thứ VIII của Đảng, trên cơ sở đã hoàn thành cơ bản
nhiệm vụ chuẩn bị tiền đề cho cơng nghiệp hóa, nội dung cơ bản của đổi mới
kinh tế là đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; tiếp tục đẩy mạnh phát
triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đến Đại hội lần thứ IX, “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đó là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội”. Còn về nội dung, Đại hội IX nhấn mạnh: “Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc
các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”.
Để hoàn thiện hơn những quan điểm về phát triển nền kinh tế thị trường
định hượng xã hội chủ nghĩa nêu trên, Đại hội XII tiếp tục bổ sung và nhấn
mạnh: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền
kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường,
đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc
tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
15
Quan điểm về đổi mới chính trị
Về đổi mới chính trị tuyệt đối “không phải là thay đổi chế độ chính trị,
thay đổi bản chất của Đảng ta, Nhà nước ta...”, mà thực chất đổi mới chính trị
là trở lại nhận thức và hành động đúng quy luật vận động của chính trị một
cách tổng thể, trước hết và trực tiếp trong việc giải quyết vấn đề trung tâm là
lợi ích và chung quanh lợi ích một cách tổng hòa, cụ thể từ cá nhân, giai cấp,
tầng lớp... tới quốc gia, dân tộc và với các nước trên tầm quốc tế mang tính
thống nhất chỉnh thể và đa dạng. Xét một cách khái quát đổi mới chính trị
thực chất được hiểu là đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội và con
đường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về đổi mới xây dựng đường lối chính trị,
đường lối kinh tế. Theo đó về nội dung, đổi mới chính trị là đổi mới cơ cấu tổ
chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị để xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa ngày càng vững mạnh, thực hiện tốt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm
phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế - xã hội dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đi sâu hơn nữa, trong tinh thần của Đại hội XII, nhấn mạnh vào trọng
tâm của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo... .Hoàn thiện thể
chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, trên cơ sở địi hỏi:
“Xây dựng, hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải tiến hành
đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi
mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi
mới kinh tế, văn hoá, xã hội”.
Tổng kết 30 đổi mới, Đại hội XII của Đảng xác định: tiếp tục quán triệt
và xử lý tốt các quan hệ lớn; trong đó có quan hệ “giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị”. Điều này được thể hiện ở các nhiệm vụ: “Tiếp tục hoàn thiện
thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, “Hoàn
16
thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân;
không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”,
“Tiếp tục hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, “Xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”; “đẩy
mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm
pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân
dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo
pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội”. Đó là tồn
bộquan điểmvề tiếp tục đổi mới đồng bộ thể chế chính trị và thể chế kinh tế.
2.2. Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
2.2.1. Vai trị của đổi mới kinh tế đối với đổi mới chính trị
Đổi mới kinh tế tạo cốt lõi vật chất cho việc giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa, cụ thể là:
Thứ nhất, đổi mới kinh tế nhằm giải phóng mọi sức sản xuất, khơi dạy
mọi tiềm năng của tất cả các thành phần kinh tế, các cá nhân, các tập thể lao
động và của cả cộng đồng dân tộc, trên cơ sở “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Giải phóng và phát triển
lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển khoa
học và công nghệ, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Ở đây kinh tế nhà nước là chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, là chỗ dựa cơ
bản cho việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế
bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trị chủ
yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động
lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ
theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
17
Thứ hai, đổi mới kinh tế còn là cơ sở để giải quyết các vấn đề xã hội
chính trị của q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đóng vai trò động lực to lớn cho sự phát triển
một tư duy chính trị năng động; cho việc hồn thiện một thiết chế nhà nước
gần dân, sát cuộc sống; cho việc tăng cường và củng cố dân chủ trong tổ
chức, hoạt động và phong cách lãnh đạo của Đảng, tổ chức và hoạt động của
các đồn thể chính trị - xã hội của nhân dân. Tính năng động và bản chất dân
chủ của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi và tạo tiền đề
vật chất kinh tế - xã hội cho tính năng động và dân chủ của các thiết chế chính
trị. Hơn nữa, trên cơ sở yêu cầu đổi mới kinh tế phải gắn chặt việc giải quyết
các vấn đề xã hội chính trị của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội
XII nhấn mạnh việc “bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát
triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo
đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững”.
Thứ ba, đổi mới kinh tế làm cơ sở đổi mới chính trị khơng chỉ đơn
thuần thể hiện đổi mới mơ hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, mà
quan trọng phải được thể hiện trong quan điểm đẩy mạnh phát triển các lĩnh
vực kinh tế đảm bảo cho việc bảo vệ an ninh và chủ quyền quốc gia. Cùng với
những vấn đề toàn cầu đang nổi lên hiện nay như an ninh tài chính, an ninh
năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên
tai, dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp, việc “phải đối phó ngày càng
quyết liệt hơn với các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc
biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới” càng thể hiện địi
hỏi phải đổi mới kinh tế để có cơ sở giải quyết, song cũng đồng thời trực tiếp
cho củng cố ổn định chính trị. Đặc biệt, hiện nay yêu cầu đổi mới kinh tế làm
cơ sở đổi mới chính trị gắn với bảo vệ lợi ích dân tộc và chủ quyền quốc gia
gắn chặt với phát triển kinh tế biển. Đại hội XII nhấn mạnh: “Phát triển mạnh
kinh tế biển nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia và bảo vệ chủ quyền
biển, đảo... . Có cơ chế tạo bước đột phá về tăng trưởng và chuyển dịch cơ
18
cấu kinh tế biển... Tập trung đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động các khu kinh
tế ven biển”.
2.2.2. Vai trị của đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế
Đổi mới chính trị là yếu tố quan trọng bảo đảm giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong đổi mới kinh tế. Xét từ quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng, thì mặc dù hệ tưởng chính trị của một kiến trúc
thượng tầng tương ứng với cơ sở hạ tầng - một kết cấu kinh tế - xã hội, song
với quan điểm được qn triệt, rằng “Chính trị khơng thể khơng giữ địa vị
hàng đầu so với kinh tế”, “không thể không ưu tiên hơn so với kinh tế”, do
vậy chính trị phải được nhận thức là nhân tố lãnh đạo kinh tế, vạch hướng đi
cho kinh tế, tạo những điều kiện chính trị, xã hội cho kinh tế phát triển. Điều
đó tránh dẫn đến sự mất định hướng của phát triển kinh tế làm cơ sở của việc
thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà
Đảng và nhân dân ta hướng tới
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường cơ bản thể
hiện ở chỗ hướng sự tăng trưởng kinh tế vào việc thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội; đảm bảo cho con người ln ở vị trí trung tâm của chiến lược
phát triển; làm cho mọi nhu cầu cơ bản và hợp lý của dân đều được thoả mãn.
Bởi lẽ, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao
cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm
đau có thuốc, già khơng lao động được thì nghỉ... Tóm lại, xã hội ngày càng
tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ ngĩa xã hội”.
Khi nói tới vai trị định hướng của đổi mới chính trị đối với đổi mới
kinh tế, trước hết phải nói tới vai trị chi phối của việc đổi mới tư duy chính trị
về kinh tế so với đổi mới kinh tế trong hiện thực. Đổi mới chính trị là yếu tố
quan trọng bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong đổi mới kinh
tế. Thật vậy, nền kinh tế nhiều thành phần không thể ra đời, nếu khơng có tư
duy mới về chính trị, về tính biện chứng đầy mâu thuẫn của q trình đi lên
chủ nghĩa xã hội. Do vậy, sẽ khơng có được mơ hình kinh tế thị trường định
19
hướng xã hội chủ nghĩa nếu vẫn giữ mãi quan niệm cũ kỹ cho rằng, để có chủ
nghĩa xã hội, phải nhanh chóng loại bỏ sở hữu tư nhân dưới mọi hình thức,
vẫn xem cải tạo xã hội chủ nghĩa để nhanh chóng xác lập một cách phổ biến
chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đơn nhất dưới hình thức tồn dân và tập thể là
cơng việc phải làm càng nhanh bao nhiêu càng tốt, nhờ vậy mà xoá bỏ được
tình trạng người bóc lột người. Hơn nữa, nền kinh tế cũng không thể phát
triển mạnh mẽ như đã thấy, nếu chúng ta vẫn giữ tư duy chính trị cũ về cơng
nghiệp hố bằng việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý,
nếu vẫn giữ quan niệm độc lập tự chủ theo nghĩa bảo đảm tự cung tự cấp mọi
sản phẩm tiêu dùng thiết yếu, vẫn “tự lực cánh sinh” trong sự đối lập với hội
nhập quốc tế...
Vai trị của đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế còn thể hiện ở việc
giữ vững vai trị lãnh đạo của Đảng trong q trình đổi mới hệ thống chính trị
và đổi mới kinh tế - một nhân tố quyết định để giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩacủa đổi mới kinh tế; nhờ nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của
nhà nước, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong quá trình đổi mới kinh
tế mà những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường được hạn chế tới mức tối đa,
làm cho nền kinh tế đó phát triển thực sự vì lợi ích của nhân dân.
Với ngun tắc phương pháp luận về tính độc lập tương đối của chính
trị đối với kinh tế, đòi hỏi phải tiếp tục quán triệt quan điểm đổi mới tư duy
chính trị đối với kinh tế với một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, khắc phục quan điểm bảo thủ, trì trệ trong việc nhận thức đối
với sự phát triển nói chung, trong đó cốt lõi ở nhận thức về mơ hình phát triển
kinh tế tổng quát ở Việt Nam hiện nay, mà cụ thể là để đảm bảo thực hiện
được một trong ba khâu đột phá chiến lược của việc hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, việc khắc phục sự bảo thủ
của tư duy chính trị về kinh tế còn trên cơ sở phải tăng cường việc tuân thủ
pháp luật, giữ vững kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, chống lợi ích cá
nhân và lợi ích nhóm.
20
Thứ hai, trên cơ sở của tính vượt trước của tư duy chính trị, cần phải
khơng ngừng hồn thiện tư duy chính trị về kinh tế trong việc bồi dưỡng được
tư duy dự báo, tư duy chiến lược nhằm định hướng đúng đắn cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước trong điều kiện tồn cầu hóa và hội nhập ngày
càng sâu rộng hiện nay, đặc biệt trong giai đoạn cách mạng công nghiệp lần
thứ 4 hiện nay đang tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với ổn định kinh tế và
chính trị.
Thứ ba, đổi mới tư duy chính trị về kinh tế phải trên cơ sở kế thừa và
vận dụng những nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về biện
chứng giữa kinh tế và chính trị để vận dụng trong việc đưa ra được đường
lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, pháp luật nghiêm minh đối với phát
triển kinh tế. Ngoài ra, cần phải tiếp thu giá trị của tư duy chính trị thế giới
và truyền thống tư duy chính trị cũng như những giá trị văn hóa tinh thần
tốt đẹp của dân tộc để hội tụ vào tư duy chính trị để định hướng cho sự phát
triển đất nước.
Thứ tư, đổi mới tư duy chính trị về kinh tế phải phát huy được tinh thần
đề cao tuân thủ pháp luật trong việc trong việc triển khai đường lối, chính
sách đảm bảo được sự minh bạch và hiệu quả cao nhất đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội. Ngoài ra cần phải phát huy giá trị tích cực của các hình thái ý
thức xã hội khác đảm bảo cho việc ngày càng hồn thiện tư duy chính trị
mang bản chất đạo đức và văn hóa Việt Nam.
Tóm lại, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và cùng với nó là việc tiếp tục hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, với những giải pháp nêu trên chính là điều
kiện tiên quyết để chúng ta nhanh chóng thực hiện thành cơng mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
21
KẾT LUẬN
Đại hội XII, Đảng ta đã coi kinh tế và chính trị là một trong chín mối
quan hệ cơ bản của quá trình đổi mới. Tuy các mối quan hệ có nội dung, bản
chất khác nhau song chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Do đó, cần
kết hợp hài hòa việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị với các
mối quan hệ khác. Vì kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản của đời sống
xã hội nên giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là
điều kiện giải quyết các mối quan hệ khác.
Do vậy, “trong thời kỳ đổi mới cần giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị theo hướng thiết lập và hồn thiện thể chế kinh tế
- chính trị - xã hội thống nhất, hài hòa; xây dựng nền kinh tế thị trường hiện
đại, đầy đủ, hội nhập quốc tế; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, phù
hợp, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; phát huy đầy đủ nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa thông qua nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện và ngày càng
coi trọng các hình thức dân chủ trực tiếp.
Với việc kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới
chính trị, nước ta vừa thúc đẩy được nền kinh tế của đất nước phát triển theo
quy luật khách quan, vừa tạo nên sự năng động, tích cực trong tư duy, tư
tưởng và đời sống tinh thần nói chung của xã hội, làm cho con người được
thực sự tự do và có điều kiện phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình. Hai
q trình đó có quan hệ biện chứng với nhau, tạo nên sức mạnh giúp chúng ta
có cơ sở thực hiện thành cơng sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
4. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1996.
5. ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khoá
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
6. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phịng
Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.
7. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình cao cấp lý luận chính
trị, Nxb CTQG, 2019.