Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Chủ nghĩa xã hội khoa học - Bài thu hoạch cao cấp chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.23 KB, 18 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
......................

BÀI THU HOẠCH
MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
TỒN CẦU HĨA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Học viên:
Mã học viên:
Lớp:
Đơn vị công tác:

HÀ NỘI - 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
NỘI DUNG.......................................................................................................4
1. Một số quan niệm........................................................................................ 4
2. Đặc điểm của thế giới tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.........6
3. Quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về giải quyết vấn đề dân
tộc....................................................................................................................11
KẾT LUẬN....................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................16


1
MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn vấn đề nghiên cứu
Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài,
đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Các dân
tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau
cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc anh em cùng sinh
sống (trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số) và có sự cư trú đan xen trên nhiều
địa bàn của Tổ quốc. Anh em các dân tộc Việt Nam có truyền thống đồn kết,
ln kề vai sát cánh trong quá trình dựng nước và giữ nước. Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ln coi trọng vấn đề dân tộc và đã đề ra chủ
trương, chính sách dân tộc với nguyên tắc nhất quán: các dân tộc “bình đẳng,
đồn kết, tương trợ nhau cùng phát triển”. Chính sách của Đảng được đồng
bào các dân tộc ủng hộ, đón nhận và ra sức thực hiện, tạo động lực to lớn, góp
phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng dân tộc, dân chủ và những
thành tựu to lớn của cách mạng XHCN. Trong giai đoạn hiện nay, trước u
cầu của cơng cuộc đổi mới tồn diện, đồng bộ đất nước và hội nhập quốc tế
với những thời cơ và thách thức đan xen, việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân
tộc có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu xây dựng đất nước giàu mạnh.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết vấn
đề dân tộc, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, như: Nghị quyết 22NQ/TW ngày 27-11-1989 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách
lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi; Nghị quyết số 24/NQ/TW ngày 12-32003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về cơng tác dân tộc; Chỉ
thị số 49-CT/TW ngày 20-10-2015 của Ban Bí thư về tăng cường và đổi mới


2
công tác dân vận của Đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vv... Quan
điểm, chủ trương, chính sách cơ bản của Đảng về dân tộc và công tác dân tộc

được thể chế hóa trong nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định, nghị quyết,
quyết định, chỉ thị, thông tư... của các cơ quan có thẩm quyền. Trong giai
đoạn 2010-2015, ngồi những văn bản luật, Chính phủ đã ban hành khoảng
154 chính sách về vấn đề dân tộc, được thể hiện tại 177 văn bản, 37 Nghị định
và Nghị quyết của Chính phủ, 140 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ(2).
Hệ thống chủ trương, chính sách, pháp luật về vấn đề dân tộc mang tính tồn
diện trên các lĩnh vực và phủ kín các địa bàn vùng dân tộc, miền núi, đặc biệt
là những chủ trương, chính sách liên quan đến xóa đói giảm nghèo, an sinh xã
hội. Nhiều văn bản có nội dung quy định cụ thể các chế độ, chính sách được
sửa đổi, bổ sung thường xuyên để phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước và tình hình thực hiện chính sách dân tộc đối với các vùng, miền
hoặc các đối tượng cụ thể. Trong nhiều chính sách đối với đồng bào DTTS đã
thể hiện rõ quan điểm, tư duy đổi mới như coi trọng tính cơng khai, minh
bạch, tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương; chú trọng vai
trị chủ thể thực hiện chính sách của người dân, v.v.. Nhiều chính sách dân tộc
khi đi vào cuộc sống đã phát huy hiểu quả tốt, được đa số đồng bào ủng hộ.
Theo kết quả khảo sát cho thấy, trong số người DTTS được hỏi, có 92,6% trả
lời chính sách dân tộc của Nhà nước tốt và khá tốt, chỉ có 2,8% trả lời chưa
thật tốt và 4,6% trả lời khó đánh giá. Như vậy, chủ trương, chính sách, pháp
luật được Đảng và NN ta xây dựng ngày càng tồn diện, đồng bộ, minh bạch,
dân chủ, cơng bằng và nâng cao tính hiệu quả trong giải quyết vấn đề dân tộc.
Tồn cầu hóa là xu thế tất yếu khách quan, đang lôi cuốn tất cả các
quốc gia trên thế giới tham gia và tác động sâu rộng tới các lĩnh vực của đời
sống xã hội, đến sự vận động, phát triển của mọi quốc gia, dân tộc. Tồn cầu
hóa là một q trình có tác động hai chiều, cả tích cực lẫn tiêu cực, đem lại cả
thời cơ, vận hội phát triển lẫn thách thức, nguy cơ hiểm họa khó lường đối với
các quốc gia, dân tộc. Tồn cầu hóa liên quan chặt chẽ và tác động qua lại


3

biện chứng đối với quá trình hội nhập quốc tế của các nước nói chung và đối
với Việt Nam nói riêng. Về thực chất, hội nhập quốc tế là tiến trình một quốc
gia theo đuổi lợi ích, mục tiêu của mình thơng qua việc tự giác, chủ động hợp
tác, liên kết sâu rộng với các quốc gia khác trên nhiều lĩnh vực (kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh…) dựa trên sự chia sẻ về nhận thức,
lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực và chủ động chấp nhận, tuân
thủ, tham gia xây dựng các “luật chơi” chung, chuẩn mực chung trong khuôn
khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay cũng đang mở
ra những vận hội đi liền với những thách thức to lớn.
Trong bối cảnh đó, chúng ta có thêm nhiều cơ hội cho sự phát triển đất
nước nhưng cũng đứng trước nhiều thử thách khó khăn. Một loạt vấn đề mới
nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi lý luận phải tổng kết,
giải đáp. Vai trò của lý luận ngày càng tăng lên. Cùng với điều đó, mỗi cán bộ
lãnh đạo, quản lý phải nâng cao trình độ của mình, nắm vững những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, có đạo đức cách mạng, thấm nhuần
đường lối chính sách của Đảng và NN để vận dụng vào thực tiễn một cách
sáng tạo, có như thế, chúng ta mới có thể thực hiện được mục tiêu đã đặt ra.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế Đảng
và Nhà nước ta đã chú trọng giải quyết tốt vấn đề dân tộc và đã đạt được
những kết quả đáng khích lệ trên tất cả các phương diện kinh tế, chính trị, văn
hóa - xã hội, quốc phịng - an ninh. Tuy nhiên, trong thực tiễn việc giải quyết
vấn đề dân tộc ở nhiều nơi vẫn tồn tại một số hạn chế, bất cập. Vì vậy, cần
tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp để giải quyết tốt vấn đề dân tộc, góp
phần củng cố khối đại đồn kết tồn dân tộc, bảo đảm sự ổn định chính trị và
gia tăng nguồn lực cho sự phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn
mới. Vì vậy, tơi chọn đề tài: “Chính sách dân tộc ở Việt Nam trong bối cảnh
tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế” làm báo cáo thu hoạch môn học.



4
2. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua việc tìm hiểu một số quan niệm về dân tộc, tồn cầu hóa và
hội nhập quốc tế, những khuynh hướng phổ biến đối với vấn đề dân tộc, những
tác động tiêu cực và âm mưu của các thế lực thù địch đối với vấn đề dân tộc ở
nước ta qua đó nêu lên quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về giải
quyết vấn đề dân tộc.
3. Kết cấu của bài thu hoạch
Ngoài mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung bao gồm 3
mục: (1) Một số quan niệm; (2) Đặc điểm của thế giới tồn cầu hóa và hội
nhập quốc tế hiện nay; (3) Quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về
giải quyết vấn đề dân tộc.
NỘI DUNG
1. Một số quan niệm
Dân tộc (cộng đồng): theo nghĩa rộng là cộng đồng người có chung nền
văn hóa, nhóm sắc tộc, ngơn ngữ, nguồn gốc, lịch sử; đơi khi bao gồm nhiều
nhóm sắc tộc. Dân tộc trong trường hợp quốc gia dân tộc còn được gọi là
quốc dân. Theo nghĩa rộng, dân tộc chỉ cộng đồng người cùng sinh sống trong
một quốc gia, một nước.
Khái niệm dân tộc cần được hiểu theo hai bình diện, dân tộc là cộng
đồng tộc người và dân tộc hiểu theo nghĩa rộng là cư dân của một quốc gia.
Thực chất hai vấn đề khơng giống nhau, nhưng có liên quan mật thiết, hữu cơ
với nhau. Khi nói đến dân tộc Việt Nam khơng thể khơng nói đến 54 dân tộc
(tộc người) đang sinh sống ở nước ta hoặc ngược lại, khi nói đến các dân tộc
ở Việt Nam khơng thể khơng nói đến cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Sắc tộc: chỉ nhóm xã hội được phân loại dựa trên nhiều nét chung như
di sản văn hóa, nguồn gốc, lịch sử, ngơn ngữ hoặc phương ngữ.
Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một quá trình biến các vùng miền,
các cộng đồng người khác nhau từ trạng thái biệt lập, tách rời nhau thành một



5
trạng thái khác về chất, bằng sự liên kết gắn bó thành một thể thống nhất hữu
cơ trên quy mơ tồn cầu. Khi đó, một sự kiện, một hiện tượng, một vấn đề
xảy ra ở vùng miền này, ở cộng đồng người này sẽ có ảnh hưởng, tác động tới
các vùng miền, các cộng đồng người khác trên quy mô tồn thế giới.
Tồn cầu hố và hội nhập quốc tế đang tạo ra những ưu thế nhất định
và có thể tóm tắt ưu thế đó trên mấy điểm như sau: thứ nhất, nó tạo ra khả
năng phát triển, phổ cập công nghệ thông tin và các phương tiện viễn thông;
thứ hai, nó thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thương mại và tạo ra khả năng thực
thi các luật lệ kinh tế khách quan trong một khơng gian tồn cầu rộng lớn; thứ
ba, nó tạo điều kiện cho việc giao lưu văn hoá và tư tưởng rộng rãi, làm cho
con người xích lại gần nhau hơn; cuối cùng, tồn cầu hoá đem lại khả năng
giải quyết một số vấn đề chung đang đối mặt với tồn cầu hố, hội nhập kinh
tế và sự phát triển xã hội.
Bên cạnh những ưu điểm, tồn cầu hố và hội nhập quốc tế đang đặt ra
cho các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển những thách
thức và nguy cơ hết sức to lớn:
Về mặt xã hội, hiện nay, các nước đều đang phải đối mặt với những vấn
đề chung trong sự phát triển kinh tế quốc gia, như những vấn đề sinh thái, ô
nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên, vấn đề dân số và sức khoẻ cộng
đồng, sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm mang tính quốc tế.
Về mặt chính trị, người ta thường nhắc tới những thách thức nghiêm
trọng của toàn cầu hố đối với chủ quyền quốc gia. Điều đó được lý giải bằng
sự tác động của kinh tế đối với chính trị. Sự hội nhập về kinh tế tăng lên sẽ
kéo theo sự hội nhập về chính trị. Với lơgíc đó, người ta nói đến sự suy yếu
của mơ hình quốc gia dân tộc. Trong bối cảnh tồn cầu hố hiện nay, người ta
thường nói về sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia dân tộc hơn là đề cập
đến sự độc lập hoàn toàn của các quốc gia đó. Có thể nói, khơng có và khơng
thể có một quốc gia đứng độc lập hoàn toàn tách biệt khỏi với thế giới bên

ngoài trong bối cảnh toàn cầu hoá.


6
2. Đặc điểm của thế giới tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay
Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, chưa bao giờ thế giới
đương đại có những biến chuyển, dịch chuyển to lớn trên nhiều mặt như hiện
nay, đặc biệt dưới tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học - kỹ thuật, nhất
là công nghệ số, thông tin và công nghệ sinh học. Tồn cầu hóa đã trở thành
khái niệm mang tính phổ biến, thường trực trên mọi lĩnh vực, khía cạnh của
đời sống, nó khơng chỉ là thuật ngữ chun dùng của các chính trị gia, các
nhà phát triển mà trở thành ý niệm thường nhật, mỗi người đều cảm nhận
được.
Thế giới tồn cầu hóa là một khơng gian kinh tế, xã hội, văn hóa và
chính trị dưới sự tác động của q trình hội nhập quốc tế do đơng đảo các
quốc gia dân tộc và các chủ thể quan hệ quốc tế khác triển khai. Chiều sâu của
quá trình hội nhập quốc tế được thể hiện ở số lượng, sự đa dạng, quy mô và
mục tiêu hoạt động của các thể chế liên kết. Các quốc gia, dân tộc ngày càng
trở nên gắn kết với nhau chặt chẽ hơn, trở thành bộ phận cấu thành của hệ
thống, ràng buộc và phụ thuộc nhau bởi các quy định hay các nguyên tắc
chung. Đây là xu thế phát triển tất yếu của thế giới dưới tác động và thúc đẩy
mạnh mẽ của cách mạng khoa học - kỹ thuật, khoa học quản lý đã tạo ra lực
lượng sản xuất và quá trình phân cơng lao động mới. Thế giới tồn cầu hóa
cũng thúc đẩy môi trường hợp tác, đồng thời là mặt trận đấu tranh giữa các
quốc gia độc lập có chủ quyền và các lực lượng tiến bộ khác vì các mục tiêu
hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và phát triển. Q trình tồn cầu hóa thực
chất cũng là quá trình thay đổi, dịch chuyển các giá trị, đan xen giữa tính quốc
gia với quốc tế, giữa quốc gia với các khối nước khu vực, quá trình đối thoại,
hợp tác.
Những khuynh hướng phổ biến đối với vấn đề dân tộc

Độc lập dân tộc gắn với chủ quyền quốc gia đang là một xu thế của thế
giới. Mỗi quốc gia dân tộc, dù lớn hay nhỏ, đều cố gắng khẳng định giá trị
dân tộc, như quyền tự quyết định chế độ xã hội, kinh tế, đường lối phát triển


7
đất nước, khẳng định sự bình đẳng giữa các quốc gia trong sinh hoạt quốc tế.
Lợi ích quốc gia được các nước đặt lên hàng đầu trong các hoạt động đối nội
và đối ngoại. Chính phủ các nước đều coi trọng việc xác lập, bảo vệ và củng
cố các giá trị truyền thống, bản sắc dân tộc, thực thi nhiều chính sách phát
triển kinh tế - xã hội tích cực, cố gắng tạo lập sự hài hòa lãnh thổ, vùng miền,
sắc tộc nhằm hướng tới sự đồng thuận, gắn kết quốc gia.
Về mặt đối ngoại, ranh giới ý thức hệ, tôn giáo, lý tưởng cùng chung
chế độ xã hội không cịn nhiều ý nghĩa mà thay vào đó là các điểm tương
đồng về lợi ích quốc gia dân tộc và được xem là cơ sở để lựa chọn và xây
dựng các mối quan hệ song phương cũng như đa phương. Lợi ích quốc gia
dân tộc đơi khi được đánh đổi bằng các cuộc chiến tranh xâm lược hay các
cuộc đàn áp đối phương.
Các thế lực cường quyền toàn cầu triển khai nhiều học thuyết và hành
động bất chấp chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc của các nước trên thế
giới. Đây vừa là quá trình mở rộng thị trường cho các tập đoàn tư bản độc
quyền, vừa là thủ đoạn áp đặt các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên
phạm vi toàn thế giới trên cơ sở thủ tiêu chủ quyền, độc lập của các quốc gia
dân tộc đang phát triển. Các cuộc chiến ở Áp-ga-ni-xtan, I-rắc, Li-bi, Xy-ri...
là những minh chứng rõ nét cho những đường lối can thiệp thơ bạo đó.
Xuất hiện chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi trong đời sống quốc tế.
Xu thế phát triển đa cực của thế giới cùng những mâu thuẫn của q trình
tồn cầu hóa kết hợp sự cuồng tín tơn giáo đã nảy sinh chủ nghĩa dân tộc cực
đoan. Hơn nữa, chủ nghĩa sô-vanh nước lớn, bành trướng, bá quyền cũng thừa
cơ trỗi dậy đe dọa sự ổn định của quốc tế và khu vực.

Những tác động của tồn cầu hóa đến các quốc gia dân tộc
Hội nhập, tồn cầu hóa - tính tất yếu của quá trình vận động của dân tộc
và vấn đề dân tộc
Dân tộc và vấn đề dân tộc là sự đối thoại, xâm nhập, đan xen, trao đổi,
tác động qua lại và có chút pha trộn giữa các yếu tố nội sinh và ngoại sinh.


8
Khơng có nền văn hóa nào trên thế giới lại tuyệt đối đơn lẻ, thuần khiết và
không bị ảnh hưởng bởi bất cứ nền văn hóa nào khác. Khơng hội nhập với thế
giới bên ngồi thì sớm hay muộn cũng sẽ suy thoái. Nhưng vấn đề là ở chỗ
cách thức hội nhập với thế giới như thế nào thì mới đem lại hiệu quả.
Cơ hội của vấn đề dân tộc trong hội nhập và tồn cầu hóa
Các quốc gia dân tộc có điều kiện “đối sánh”, để nhìn nhận và làm rõ
vấn đề dân tộc trong bối cảnh tình hình mới, có điều kiện để học hỏi cái hay,
cái tinh hoa từ bên ngoài (quốc gia, khu vực, toàn cầu) và tránh được những
“xung đột” do vấn đề dân tộc gây ra; có điều kiện quảng bá và giới thiệu quan
điểm của nhà nước về vấn đề dân tộc và trong giải quyết vấn đề dân tộc. Hội
nhập và toàn cầu hóa là điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội, con người
ngang tầm thời đại và điều kiện để làm giàu và phát triển các dân tộc theo
hướng hiện đại, khắc phục những hủ tục để cải tạo phong tục, tập quán...
Thách thức đối với vấn đề dân tộc trong hội nhập và tồn cầu hóa
Nhận thức, suy nghĩ, tình cảm của người dân, thậm chí của cả cán bộ
chịu tác động xấu từ bên ngoài bằng rất nhiều hình thức khác nhau, vật chất,
tinh thần, tâm linh, trực tiếp và gián tiếp..., đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt
được những diễn biến tâm tư, tình cảm của họ. Từ những tác động đó, dần
dần hình thành tâm lý, nguy cơ phân hóa, cực đoan, chủ nghĩa dân tộc là
những mầm mống nảy sinh gây mất đoàn kết dân tộc. Thực tế đã có những sự
việc nhỏ trong đời sống kinh tế - xã hội bị vướng mắc trong quan hệ giữa các
cá nhân, cộng đồng nhỏ đã bị đẩy lên thành vấn đề quan hệ dân tộc, chính trị

hóa từ sự việc quan hệ kinh tế - dân sự.
Đây là những ảnh hưởng, hệ quả của q trình tồn cầu hóa, hội nhập
quốc tế tác động tiêu cực đến sự phát triển của các dân tộc trên nhiều phương
diện: kinh tế - văn hóa - xã hội và nhất là quan hệ chính trị. Một mắt xích bị
bất ổn sẽ kéo theo chuỗi bất ổn của quốc gia, dân tộc, ảnh hưởng trực tiếp đến
an ninh tồn cầu. Vấn đề tồn cầu hóa và hội nhập đang đặt ra cho các quốc
gia dân tộc phải nắm bắt và xử lý được những vấn đề cơ bản, bao gồm:


9
- Quan hệ đa chiều bao gồm cả những tương tác tích cực và hạn chế
giữa tộc người với tộc người trong phạm vi quốc gia. Quan hệ đa chiều gồm
cả những tiến bộ và hạn chế của tộc người với tộc người trên phạm vi quốc tế.
Từ những so sánh quan hệ này hình thành tâm lý so sánh về trình độ phát triển
và mức hưởng thụ kinh tế, văn hóa xã hội giữa các tộc người trong phạm vi
quốc gia và quốc tế, các thế lực bên ngoài lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo,
nhân quyền gây mất ổn định chính trị.
- Quan hệ truyền thống và hiện đại đang trở thành vấn đề lớn mà các
quốc gia dân tộc phải đối mặt và bắt buộc phải giải quyết. Truyền thống tạo
nên những sắc thái văn hóa và cũng là cơ sở gắn kết tính cộng đồng trở nên
mạnh mẽ hơn, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau và cùng chia sẻ lợi ích có được.
Tâm lý quốc gia, dân tộc cũng hình thành từ những giá trị truyền thống và yêu
nước. Trong khi yếu tố hiện đại phần lớn là những yếu tố ngoại lai, các giá trị
văn minh và lối sống công nghiệp. Điểm mấu chốt là giải quyết mối quan hệ
đó như thế nào, giữ lại cái gì, tiếp nhận cái gì, hịa trộn thế nào là những câu
hỏi khó.
- Sự đối diện giữa đời sống vật chất và các giá trị. Xã hội, tâm linh
ngày càng trở nên phức tạp, đan xen và xuất hiện ngày càng phổ biến trong
đời sống xã hội. Toàn cầu hóa dẫn đến sự xâm nhập, du nhập các dịng tư
tưởng tơn giáo, tâm linh trên tồn thế giới dù rằng mức độ có khác nhau,

nhưng rõ ràng yếu tố này đang chi phối đời sống các cá nhân và cộng đồng
mạnh mẽ dễ dẫn đến sự chệch dòng nếu khơng có sự định hướng, kiểm sốt
phù hợp.
- Vấn đề bản sắc và đồng hóa tự nhiên hoặc có chủ định cũng là vấn đề
lớn đặt ra. Bản sắc khẳng định giá trị và sự tồn tại của một quốc gia dân tộc
nhưng cũng không thể giữ bản sắc theo nghĩa tuyệt đối, khép kín mà phải có
yếu tố hịa nhập. Nhưng nếu khơng có sự độc lập, tự chủ thì sẽ dẫn đến sự
đồng hóa, cả theo nghĩa nhân chủng học, cả về văn hóa, theo con đường thơn
tính tự nhiên hoặc đơi khi cả sự tự nguyện.


10
- Vấn đề phát triển và phát triển bền vững là những yêu cầu mà mỗi
quốc gia dân tộc phải lựa chọn con đường đi, sách lược phù hợp nhằm giải
quyết hợp lý mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lâu dài. Rõ ràng, trong
một tương lai xa phải bắt đầu cho phát triển bền vững ngay từ bây giờ nhưng
với nhiều quốc gia, điều đó là chưa thể vì nhu cầu đời sống thực tại.
- Vấn đề dân chủ, cơng bằng và phân tầng xã hội. Đó là hệ quả tất yếu
của quá trình phát triển hiện đại gắn với q trình tồn cầu hóa, phân cơng lại
lao động, phân chia lại các giá trị. Toàn cầu hóa đã di chuyển chủ nghĩa tư
bản ra tồn thế giới với sự bóc lột tinh vi đối với các quốc gia dân tộc khác.
Dân chủ, công bằng và phân tầng xã hội diễn ra mạnh mẽ ở các nước đang
phát triển, giữa khối một số nước giàu nhất với khối phần lớn các nước
nghèo nhất trên thế giới, thúc đẩy quá trình này đi nhanh hơn so với tiến
trình lịch sử.
Những tác động tiêu cực và âm mưu của các thế lực thù địch đối với
vấn đề dân tộc ở nước ta
Vấn đề dân tộc và tôn giáo từ rất sớm bị các thế lực xâm lược từ bên
ngoài, các thế lực thực dân, đế quốc xem như một “cơng cụ”, “phương tiện”
tất yếu vừa có tính “mở đường”, vừa là “thường xuyên” trong quá trình thực

hiện các ý đồ xâm lược, chống phá cách mạng. Dân tộc và tơn giáo là hai
vấn đề vừa có tính lịch sử, vừa có tính thời sự hiện nay, đó cũng là các vấn
đề nhạy cảm và phức tạp trong mọi thời kỳ phát triển. Vấn đề dân tộc ở
nước ta lại bị các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá cách mạng, bởi
mấy lý do sau: (i) Các dân tộc thiểu số là một bộ phận của quốc gia có đời
sống cịn nhiều khó khăn so với mặt bằng chung. Nguyên nhân kinh tế là yếu
tố dễ đem ra để so sánh, kích động, dễ nhận biết để lồng vào đó cách giải
thích khác nhau nhằm tạo ra sự nghi kỵ, từ đó phá hoại khối đồn kết giữa các
dân tộc, đa số với thiểu số; thiểu số với thiểu số; (ii) Mặt bằng học vấn của
đồng bào các dân tộc thiểu số khơng đồng đều, nhận thức cịn những hạn chế
nên dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng để xuyên tạc sự thật về các vấn đề phát


11
triển và quan hệ dân tộc; (iii) Trình độ quản lý nhà nước về công tác dân tộc
của hệ thống chính trị bên cạnh thành tựu vẫn cịn hạn chế, chưa sâu sát, chưa
bền vững, xuất phát từ nhiều nguyên nhân, như nhận thức, cán bộ, cơ chế
quản lý, chính sách, xuất phát điểm của các dân tộc trong phát triển; (iv) Xuất
phát từ quan điểm chiến lược (thuộc bản chất) của các thế lực thù địch khi đi
xâm lược một thuộc địa hay chiếm đoạt quốc gia khác trước khi chiếm tài
nguyên là chinh phục “người dân bản địa, bản xứ” thơng qua con đường có
tính mũi nhọn là “tôn giáo” và “dân tộc”. Lợi dụng đặc điểm quan hệ tộc
người trong điều kiện các quốc gia đa tộc người; áp dụng chính sách “chia để
trị” để kích động phá hoại khối đoàn kết dân tộc.
3. Quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về giải quyết vấn
đề dân tộc
3.1. Quan điểm, đường lối giải quyết vấn đề dân tộc quốc gia
Thứ nhất, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia - độc lập dân tộc trong
thời kỳ đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới đất nước. Xây dựng kinh tế
độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập quốc tế. Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày

27-11-2001, của Bộ Chính trị khóa IX xác định ngun tắc hội nhập kinh tế
quốc tế, trong đó nhấn mạnh chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực,
bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân
tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Hội nhập quốc tế tranh
thủ hịa bình, phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.
Thứ hai, đổi mới và thống nhất nhận thức kịp thời xây dựng độc lập, tự
chủ và chủ quyền quốc gia trong bối cảnh mới. Giải quyết tốt 8 mối quan hệ
đặt ra và giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. Độc lập và tự chủ có liên quan
mật thiết nhưng khơng đồng nhất nhau và đều có những nội hàm riêng trên
thực tế. Độc lập là quyền và sự công nhận chủ quyền, là sự khẳng định tính
đơn nhất nhưng vẫn nằm trong thế đan xen, hợp tác trong các khối kinh tế,
chính trị. Tự chủ là sự chủ động, tự quyết và tự giải quyết các vấn đề thuộc về


12
quốc gia độc lập, trên nguyên tắc không can thiệp. Vấn đề quan trọng nhất là
nâng cao tự chủ quốc gia.
Độc lập chính trị là vơ cùng quan trọng và được coi là nguyên tắc bất di
bất dịch trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Chính trị ở đây là vấn đề
nhà nước và chính quyền. Trong bối cảnh tồn cầu hóa, quản trị tồn cầu đang
trở thành một xu hướng đan xen và tồn tại bên cạnh quản trị quốc gia, trong
quản lý quốc gia như một phương thức quản trị hữu hiệu.
Thứ ba, nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, đồng thời giải quyết có
hiệu quả mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội
nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ phụ thuộc vào sức mạnh kinh tế, quân sự của
quốc gia. Sức mạnh đó bao gồm các cấu thành: Tiềm lực kinh tế, khoa học kỹ
thuật, quốc phòng và an ninh; các giá trị truyền thống và đương đại Việt Nam,
bao gồm cả các hệ giá trị mới nhằm thúc đẩy sự phát triển của đất nước; củng
cố vị thế quốc gia trên trường quốc tế và khu vực, củng cố chủ quyền quốc gia
trên cả vùng biển và đất liền, củng cố và bảo vệ độc lập, dân tộc.

Thứ tư, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ này cần
được nhận thức đầy đủ trong bối cảnh mới khi mà bảo vệ Tổ quốc không
chỉ trên mặt trận sức mạnh vũ khí trực tiếp mà cả trong phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội và bảo vệ mơi trường. Và nó cần phải được chú trọng xử lý
ngay trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội, các đề án, quy
hoạch, kế hoạch.
3.2. Quan điểm, đường lối giải quyết vấn đề dân tộc trong nước
Vấn đề dân tộc luôn được Đảng quan tâm và thể hiện trong từng văn
kiện của Đảng. Có thể thấy, đường lối, chính sách của Đảng về vấn đề dân tộc
được khái quát trên những điểm cơ bản là:
- Trong nội bộ quốc gia và với các quốc gia khác, đó là việc giải quyết
vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc trên cơ sở kiên trì phát huy truyền thống


13
“độc lập dân tộc” gắn với “chủ nghĩa xã hội”, và “khơng có gì q hơn độc
lập tự do”.
- Giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta là giải phóng con người thốt
khỏi nghèo nàn, lạc hậu; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; thực hiện dân chủ, tự do cho các dân tộc; phát huy
truyền thống đoàn kết xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
- Việc giải quyết vấn đề dân tộc khơng chỉ là vấn đề mang tính chính trị
-xã hội sâu sắc mà cịn mang tính liên ngành, tính toàn diện, tác động đến
nhiều cấp, nhiều ngành trong hệ thống tổ chức nhà nước, hệ thống chính trị xã
hội các cấp từ Trung ương đến địa phương.
3.3. Tiếp tục kiên trì giải quyết một số vấn đề cơ bản liên quan đến
dân tộc, đó là:
- Sự phát triển khơng đồng đều của các vùng, nhóm dân tộc: Có thể
nhận thấy, sự phát triển không đồng đều làm cho đời sống kinh tế - xã hội

giữa các dân tộc chênh lệch nhau, gây nên sự mặc cảm, tự ti, làm giảm yếu tố
động lực phát triển ở các dân tộc. Điều này gây bất lợi trong việc xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc, nhất là khi mối quan hệ dân tộc trở nên phức tạp và
dễ vượt ra khỏi phạm vi dân tộc trở thành quan hệ quốc gia và quốc tế khi bị
các thế lực thù địch lợi dụng. Thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, từng bước
cải thiện và nâng cao mọi mặt đời sống nhân dân, thu hẹp dần khoảng cách
phát triển giữa các vùng, các dân tộc là một mục tiêu lớn đặt ra cho cơng tác
dân tộc nói riêng và cơng tác quản lý quốc gia nói chung.
- Quan hệ giữa yếu tố truyền thống (đoàn kết, yêu nước) và hiện đại:
Xử lý hài hịa các nhu cầu và lợi ích, giữa yếu tố truyền thống và hiện đại,
giữa kinh tế và văn hóa trong sự biến đổi kinh tế - văn hóa, quan hệ dân tộc
đang là nhu cầu bức thiết, địi hỏi phải có những nghiên cứu sâu rộng, khả
năng giải quyết tình hình thực tiễn nhạy bén, linh hoạt. Đây là thách thức đối
với các cấp, các ngành, địa phương vùng dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay.


14
- Quan hệ về vấn đề dân tộc liên quan đến các nước trong khu vực và
trên thế giới. Nhiều dân tộc ở nước ta hiện có mối liên hệ truyền thống với
các cư dân vùng biên giới các quốc gia láng giềng cũng như các quốc gia
trong khu vực và cả một số quốc gia trên thế giới. Giải quyết và xử lý đúng
đắn quan hệ về vấn đề dân tộc trong bối cảnh tồn cầu hóa liên quan đến các
nước trong khu vực và thế giới là một yêu cầu quan trọng. Phải kiên trì thực
hiện đường lối chính trị rộng mở, đa phương hóa, đồn kết thống nhất dân tộc.
Mặt khác, phải kiên quyết đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa
bình” của các thế lực thù địch hịng chống phá lợi ích dân tộc. Tùy từng sự
việc, điều kiện hoàn cảnh cụ thể mà có những phân tích, xử lý đúng đắn, và
địi hỏi cơng tác dân tộc phải nắm chắc tình hình, nhạy bén, làm tham mưu tốt
cho Đảng, Nhà nước trong công tác đối ngoại chính trị, đối ngoại nhân dân và
xử lý tình huống khi cần thiết.



15
KẾT LUẬN
Cách mạng là q trình sáng tạo khơng ngừng, trong thời kỳ đổi mới,
chính sách dân tộc của Đảng ta vừa bảo đảm tính nhất quán, vừa đổi mới
trước yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế nhằm giải quyết thành công vấn
đề dân tộc ở nước ta hiện nay và trong tương lai. Từ Đại hội IV đến Đại hội
XII của Đảng, chính sách dân tộc được Đảng ta đề ra trên các vấn đề cốt lõi
là: Vị trí của vấn đề dân tộc trong tồn bộ sự nghiệp cách mạng; các nguyên
tắc cơ bản trong chính sách dân tộc; những vấn đề trọng yếu của chính sách
dân tộc trong những điều kiện cụ thể. Trong suốt quá trình phát triển, quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách dân tộc là nhất quán theo
nguyên tắc “Các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tương trợ nhau cùng phát triển”.
Điều này, một mặt, thể hiện trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với đồng
bào các dân tộc thiểu số; mặt khác, cho thấy việc giải quyết vấn đề dân tộc
đang là sự đòi hỏi cấp thiết cần phải có những chỉ đạo kịp thời.
Với quan điểm nhất quán, xuyên suốt trong lãnh đạo thực hiện cơng tác
dân tộc và chính sách dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đề ra nhiều chủ trương,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo vùng dân tộc và
miền núi. Trong đó, nhiều chính sách đi vào cuộc sống, diện mạo kinh tế các
địa phương miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc từng bước phát triển.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện nảy sinh nhiều thách thức, đòi
hỏi cần phải được điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp với bối cảnh tồn cầu hóa
và hội nhập quốc tế sâu rộng, mạnh mẽ như Việt Nam hiện nay./.


16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 24/NQ-Trung ương, Ban chấp

hành Trung ương lần thứ 7, khố IX, năm 2003, Về cơng tác dân tộc.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 25/NQ- TW, Ban chấp hành
Trung ương lần thứ 7, khoá IX, năm 2003, Về cơng tác tơn giáo.
3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình cao cấp lý luận chính
trị, Nxb CTQG, 2020.



×