Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

“Hiệu quả thực hiện ủy thác tư pháp trong lĩnh vực dân sự từ Việt Nam ra nước ngoài – Thực tiễn và giải pháp”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.87 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ
MÔN LUẬT TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP
Đề tài: “Hiệu quả thực hiện ủy thác tư pháp trong lĩnh vực dân sự từ Việt Nam
ra nước ngoài – Thực tiễn và giải pháp”

Tên sinh viên:

Đoàn Thái Phong

Mã số sinh viên:

1453801010189

Lớp

K2B

Hà Nội, tháng 3 năm 2017


CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

TTTP – Tương trợ tư pháp
UTTP - ủy thác tư pháp


MỤC LỤC



LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, vấn đề TTTP nói chung và
TTTP về dân sự nói riêng được đặt ra như là một nhu cầu tất yếu khách quan và
ngày càng trở nên quan trọng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Xuất
phát từ nhu cầu của thực tiễn mà Luật TTTP đã được Quốc hội khóa XII thơng
qua tại kỳ họp thứ 2 ngày 21 tháng 11 năm 2007 và có hiệu lực thi hành từ ngày
01 tháng 7 năm 2008. Trải qua quá trình gần 10 năm thi hành, cho đến nay Luật
TTTP 2007 đã phát sinh nhiều vấn đề bất cập đối với việc thực thi và áp dụng
trong lĩnh vực dân sự, đặc biệt về trình tự, thủ tục UTTP gây nhiều khó khăn,
vướng mắc đối với các cơ quan Nhà nước có liên quan và đương sự. Kết quả
thực hiện UTTP từ Việt Nam ra nước ngoài đạt tỷ lệ rất thấp.
Từ những cơ sở trên, em lựa chọn đề tài: “Hiệu quả thực hiện ủy thác tư
pháp trong lĩnh vực dân sự từ Việt Nam ra nước ngoài – Thực tiễn và giải
pháp” nhằm làm rõ những bất cập cịn tồn tại trong q trình u cầu nước
ngồi TTTP về dân sự từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp để khắc phục tình
trạng này.
NỘI DUNG
I – KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUY TRÌNH YÊU CẦU NƯỚC NGOÀI
TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP TRONG LĨNH VỰC DÂN SỰ
1.1.

Phạm vi yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp về dân sự
Uỷ thác tư pháp về dân sự là yêu cầu bằng văn bản của Tịa án, cơ quan có

thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về việc
thực hiện một hoặc một số hoạt động TTTP theo quy định của pháp luật nước có
liên quan hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. UTTP chính là một
hình thức để thực hiện TTTP được thực hiện trên cơ sở yêu cầu của cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngồi.

Theo quy định tại Điều 13 của Luật TTTP thì Tịa án, cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam trong q trình giải quyết các vụ việc dân sự có thể yêu cầu cơ
Trang | 4


quan có thẩm quyền của nước ngồi thực hiện TTTP trong các trường hợp sau
đây:
-

Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu cho người đang ở nước được yêu cầu;
Triệu tập người làm chứng, người giám định đang ở nước được yêu cầu;
Thu thập, cung cấp chứng cứ ở nước được yêu cầu để giải quyết vụ việc

-

dân sự tại Việt Nam;
Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Như vậy, theo quy định của pháp luật thì trong quá trình giải quyết các vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngồi Tịa án Việt Nam có thể u cầu cơ quan có
thẩm quyền của nước ngồi TTTP về dân sự khi cần tiến hành một số hoạt động
tố tụng dân sự tại nước ngoài.
1.2.

Hồ sơ ủy thác tư pháp về dân sự
Lập hồ sơ UTTP về dân sự là khâu quan trọng trong quá trình TTTP về dân

sự cho nước ngoài. Theo quy định tại Điều 11 Luật TTTP và Điều 10 Thông tư
liên tịch số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC (sau đây gọi tắt là thông tư liên
tịch số 15) thì Hồ sơ UTTP về dân sự bao gồm các văn bản sau đây:

-

Văn bản yêu cầu thực hiện UTTP về dân sự theo Mẫu số 01 ban hành kèm theo

-

Thông tư liên tịch số 15;
Văn bản UTTP về dân sự quy định tại Điều 12 Luật TTTP theo Mẫu số 02 ban

-

hành kèm theo Thông tư liên tịch số 15;
Giấy tờ khác theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước được yêu cầu ủy

-

thác;
Các giấy tờ, tài liệu khác phục vụ cho việc thực hiện UTTP (Ví dụ: Thơng báo
về việc thụ lý vụ án; Quyết định uỷ thác thu thập chứng cứ; Bản án, Quyết định
của Tòa án...).
Hồ sơ UTTP về dân sự được lập thành 03 bộ theo quy định của Luật TTTP
và phù hợp với pháp luật của nước được ủy thác.
Ngôn ngữ được sử dụng để lập hồ sơ theo quy định tại Điều 5 của Luật
TTTP. Cụ thể là:
“1. Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngồi đã có điều ước quốc tế về
tương trợ tư pháp thì ngơn ngữ trong tương trợ tư pháp là ngôn ngữ được quy
định trong điều ước quốc tế đó.
Trang | 5



2. Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế về
tương trợ tư pháp thì hồ sơ phải kèm theo bản dịch ra ngôn ngữ của nước được
yêu cầu tương trợ tư pháp hoặc dịch ra một ngôn ngữ khác mà nước được yêu
cầu chấp nhận.
3. Cơ quan lập hồ sơ yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp phải dịch hồ sơ
ra ngôn ngữ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này”.
Thẩm quyền yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự

1.3.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Thông tư liên tịch số 15 về thẩm quyền
yêu cầu thực hiện TTTP về dân sự thì trong quá trình giải quyết các vụ việc dân
sự mà cần tiến hành hoạt động tố tụng ở nước ngồi thì Tồ án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương; các Tòa phúc thẩm Tịa án nhân dân tối cao có
thẩm quyền u cầu thực hiện TTTP về dân sự.
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 9 của Thông tư liên tịch số 15 đã có quy định riêng
thẩm quyền của Tịa án cấp huyện khi phải yêu cầu thực hiện TTTP về dân sự.
Theo quy định này thì, trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, nếu phát sinh
yêu cầu TTTP về dân sự mà cần tiến hành hoạt động tố tụng ở nước ngồi thì Tồ
án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh lập hồ sơ uỷ thác tư pháp
theo quy định tại Điều 11 Luật TTTP và hướng dẫn tại Điều 10 Thông tư liên tịch
số 15, gửi tới Toà án nhân dân cấp tỉnh để thực hiện theo thủ tục chung.
Trình tự, thủ tục yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp về dân sự

1.4.

Điều 62 Luật TTTP quy định: “Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ thống
nhất quản lý nhà nước về hoạt động tương trợ tư pháp; tiếp nhận, chuyển giao,
theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các uỷ thác tư pháp về dân sự”. Do vậy, Bộ Tư
pháp chính là cơ quan đầu mối của Việt Nam trong việc giải quyết các yêu cầu

về TTTP về dân sự đối với nước ngồi. Qua đó, khi u cầu cơ quan có thẩm
quyền của nước ngồi TTTP về dân sự, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam
phải gửi yêu cầu tương trợ tới Bộ Tư pháp. Thủ tục yêu cầu nước ngoài TTTP về
dân sự được quy định tại Điều 14 Luật TTTP và các văn bản hướng dẫn cụ thể
như sau:
a)

Trình tự, thủ tục lập và gửi hồ sơ UTTP về dân sự tại Tòa án
Trang | 6


Khi tiến hành thủ tục UTTP về dân sự, Tòa án tiến hành thủ tục gửi hồ sơ
UTTP theo đúng quy định tại Điều 14 của Luật TTTP và hướng dẫn tại Điều 12
của Thông tư liên tịch số 15. Theo đó, Tịa án, Cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài TTTP về dân sự phải lập
hồ sơ ủy thác theo quy định tại Điều 11 của Luật TTTP và gửi cho Bộ Tư pháp.
b)

Trình tự, thủ tục nhận và gửi hồ sơ UTTP về dân sự tại Bộ Tư pháp

Trong thời hạn mười ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ UTTP do Tòa
án gửi đến, Bộ Tư pháp có trách nhiệm vào Sổ hồ sơ UTTP về dân sự (phần
UTTP đi), kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ theo quy định của Luật TTTP, Điều 11
Thông tư liên tịch số 15 và đưa ra một trong các quyết định sau đây:
Trường hợp hồ sơ UTTP đầy đủ và hợp lệ:
-

Chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngồi hoặc cho Bộ
Ngoại giao theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước đó là


-

thành viên;
Chuyển hồ sơ cho Bộ Ngoại giao để xem xét, quyết định áp dụng nguyên
tắc có đi có lại theo thủ tục quy định tại khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch
số 15 nếu giữa Việt Nam và nước ngồi chưa có điều ước quốc tế về
TTTP về dân sự hoặc chưa có thỏa thuận hoặc chưa có tiền lệ về việc áp
dụng nguyên tắc có đi có lại.

Trường hợp hồ sơ UTTP khơng đầy đủ và hợp lệ thì Bộ Tư pháp trả lại hồ sơ
UTTP cho Tòa án đã lập hồ sơ và nêu rõ lý do.
c)

Trình tự, thủ tục nhận, gửi hồ sơ ủy thác tư pháp về dân sự tại Bộ
Ngoại giao và cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài

Đối với trường hợp Bộ Ngoại giao thực hiện UTTP cho cơng dân Việt Nam ở
nước ngồi hoặc theo quy định của điều ước quốc tế liên quan thì thời hạn chuyển
hồ sơ cho cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài là năm ngày làm việc kể từ
ngày nhận được hồ sơ UTTP hợp lệ do Bộ Tư pháp chuyển đến.
Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ UTTP, cơ
quan đại diện Việt Nam ở nước ngồi có trách nhiệm triển khai việc thực hiện

Trang | 7


UTTP cho cơng dân Việt Nam ở nước ngồi hoặc chuyển hồ sơ cho cơ quan có
thẩm quyền của nước ngoài.
Đối với trường hợp thực hiện UTTP theo nguyên tắc có đi có lại thì thời hạn
và quy trình thực hiện tại Bộ Ngoại giao và cơ quan đại diện Việt Nam ở nước

ngoài theo quy định tại điểm c và điểm e khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch số
15.
1.5.
a)

Xử lý kết quả thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự
Xử lý kết quả ủy thác tư pháp tại Bộ Ngoại giao và cơ quan đại diện
Việt Nam ở nước ngồi

Thơng tư liên tịch số 15 quy định tại Điều 14 về xử lý kết quả UTTP tại Bộ
Ngoại giao và cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài như sau:
-

Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày thực hiện xong việc UTTP hoặc
kể từ ngày nhận được văn bản thông báo kết quả thực hiện UTTP của cơ quan có
thẩm quyền của nước ngoài, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài gửi văn
bản thông báo kết quả thực hiện UTTP, biên bản tống đạt hồ sơ UTTP cùng các

-

tài liệu, chứng cứ kèm theo về Bộ Ngoại giao.
Trong thời hạn tối đa là ba tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ ủy thác của cơ
quan có thẩm quyền trong nước mà cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngồi
khơng thể thực hiện UTTP cho công dân Việt Nam ở nước ngồi hoặc cơ quan
có thẩm quyền của nước ngồi khơng có thơng báo về kết quả thực hiện UTTP
hoặc không trả lời đề nghị của Việt Nam về việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại
theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch số 15 thì cơ quan đại diện

-


Việt Nam ở nước ngồi có trách nhiệm thơng báo về Bộ Ngoại giao.
Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản thông báo kết
quả thực hiện UTTP do cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài gửi về, Bộ
Ngoại giao chuyển văn bản đó cho Bộ Tư pháp để chuyển cho Tòa án theo quy
định tại khoản 3 Điều 14 Luật TTTP.
b) Xử lý kết quả UTTP tại Tịa án
Thơng tư liên tịch số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC quy định tại Điều
15 về xử lý kết quả UTTP tại Tòa án như sau:

Trang | 8




-

Xử lý kết quả tống đạt văn bản UTTP cho cơng dân Việt Nam đang cư trú

ở nước ngồi:
Trường hợp Tịa án nhận được văn bản thơng báo kết quả thực hiện UTTP theo
quy định khoản 2 Điều 17 Thông tư liên tịch 15 thì Tịa án tiếp tục tiến hành
UTTP nếu xác minh được đúng tên, địa chỉ, thông tin cá nhân chính xác của
đương sự ở nước ngồi.
Trường hợp Tòa án đã tiến hành mọi biện pháp nhưng vẫn không xác định
được địa chỉ của đương sự ở nước ngồi, thì Tịa án giải thích để đương sự u
cầu Tịa án thơng báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú theo quy định tại
Chương XX và Chương XXII của Bộ luật Tố tụng dân sự. Sau khi có kết quả
thơng báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, Tòa án tiếp tục giải quyết vụ
việc theo thủ tục chung. Trong thời hạn một tháng, kể từ ngày Tịa án u cầu
mà đương sự khơng u cầu Tịa án tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú thì

Tịa án đình chỉ giải quyết vụ việc theo quy định tại Điều 168 và Điều 192 Bộ
luật Tố tụng dân sự.

-

Trường hợp Tòa án nhận được văn bản thông báo kết quả thực hiện UTTP theo
quy định tại khoản 1, 3 và 4 Điều 17 Thông tư liên tịch 15 thì Tịa án tiếp tục giải

-

quyết vụ việc theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
• Xử lý kết quả UTTP cho người nước ngồi đang cư trú ở nước ngồi:
Trường hợp Tịa án nhận được kết quả thực hiện ủy thác của cơ quan có thẩm
quyền của nước ngồi thơng báo việc tên, địa chỉ, thông tin cá nhân của người
cần tống đạt không đúng hoặc người cần tống đạt đã chuyển đến địa chỉ mới
nhưng không rõ địa chỉ mới hoặc người cần tống đạt vắng mặt tại địa chỉ mà
không rõ thời điểm trở về, thì Tịa án tiếp tục tiến hành UTTP lần thứ hai nếu
xác minh được đúng địa chỉ, tên và thơng tin cá nhân chính xác của đương sự ở
nước ngoài.
Trường hợp việc thực hiện UTTP của cơ quan có thẩm quyền của nước ngồi
vẫn khơng có kết quả mặc dù Tòa án đã tiến hành mọi biện pháp để xác minh
địa chỉ, tên và thông tin cá nhân của đương sự ở nước ngoài nhưng vẫn khơng
xác định được thơng tin chính xác thì Tịa án tiếp tục giải quyết vụ việc theo quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trang | 9


-

Trường hợp Tòa án nhận được kết quả thực hiện ủy thác của cơ quan có thẩm

quyền của nước ngồi thông báo về việc người được tống đạt đã nhận được văn
bản UTTP hoặc người được tống đạt từ chối nhận, thực hiện u cầu UTTP thì

-

Tịa án tiến hành giải quyết vụ việc theo thủ tục chung.
Trường hợp vụ việc dân sự không thể thực hiện được việc UTTP do Việt Nam
và nước ngồi chưa có điều ước quốc tế hoặc khơng áp dụng được ngun tắc có
đi có lại, thì Tịa án đã thụ lý vụ việc tiến hành thủ tục niêm yết công khai hồ sơ
UTTP tại trụ sở Tòa án, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối
cùng của đương sự được UTTP (nếu có) trong thời hạn sáu tháng và đăng trên
báo hàng ngày của trung ương trong ba số liên tiếp và phát sóng trên Đài phát
thanh hoặc Đài truyền hình của trung ương (kênh sóng dành cho người nước
ngoài) ba lần trong ba ngày liên tiếp. Nếu hết thời hạn này mà khơng có tin tức
của đương sự ở nước ngồi thì Tịa án tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự theo thủ



tục chung.
Xử lý kết quả UTTP trong trường hợp tống đạt bản án, quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm:
Trường hợp Tòa án UTTP để tống đạt bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm cho đương sự đang cư trú ở nước ngoài mà trong thời hạn ba tháng kể từ
ngày tống đạt bản án, quyết định cho người cần tống đạt hoặc thời hạn sáu tháng
kể từ ngày niêm yết bản án, quyết định tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước
ngoài hoặc kể từ ngày gửi hồ sơ UTTP cho cơ quan có thẩm quyền của nước
ngồi thực hiện UTTP mà Tịa án khơng nhận được kháng cáo của đương sự ở
nước ngoài, và trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị khơng có người khác
kháng cáo, Viện kiểm sát khơng kháng nghị, thì bản án, quyết định của Tịa án
cấp sơ thẩm có hiệu lực pháp luật và Tịa án khơng phải tiếp tục tiến hành UTTP.




Xử lý kết quả UTTP trong trường hợp không nhận được thông báo kết quả thực
hiện UTTP
Sau sáu tháng kể từ ngày Bộ Tư pháp gửi hồ sơ UTTP hợp lệ lần thứ hai cho
cơ quan có thẩm quyền của nước ngồi hoặc Bộ Ngoại giao mà không nhận
được thông báo kết quả thực hiện UTTP thì Tịa án u cầu UTTP sẽ căn cứ vào
Trang | 10


những tài liệu, chứng cứ đã thu thập được để giải quyết vụ việc theo quy định
của pháp luật mà khơng phải tiếp tục u cầu UTTP.


Xử lý kết quả UTTP trong trường hợp nhận được thông báo kết quả thực hiện
UTTP
Trường hợp nhận được thông báo kết quả thực hiện UTTP thì Tịa án căn cứ
vào tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ việc nếu xét thấy tài liệu, chứng cứ đã
đúng và đủ theo nội dung yêu cầu; trường hợp tài liệu, chứng cứ chưa đúng hoặc
chưa đủ theo nội dung đã u cầu thì Tịa án tiếp tục UTTP theo thủ tục chung.

II - THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ YÊU CẦU NƯỚC NGOÀI
TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP TRONG LĨNH VỰC DÂN SỰ
2.1.


Thực tiễn thi hành pháp luật
Thực tiễn thi hành pháp luật về tương trợ tư pháp tại Toà án nhân dân:


Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Toà án nhân dân các tỉnh, Thành phố
trực thuộc Trung ương và các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội,
Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh, từ ngày 01/7/2008 đến ngày 31/12/2010
toàn ngành Toà án đã nhận được 310 u cầu TTTP của nước ngồi trong đó đã
thực hiện được 268 yêu cầu (đạt 86,5%) và 42 yêu cầu chưa thực hiện được
(chiếm 13,5%).
Đối với các yêu cầu uỷ thác tư pháp do các Toà án gửi đi trong cùng khoảng
thời gian này, trong tổng số 3.174 yêu cầu uỷ thác do các tồ án gửi đi chỉ có
182 u cầu có kết quả (chiếm 5,7%), cịn lại 2.992 yêu cầu chưa có kết quả uỷ
thác tư pháp (chiếm 94,2%).
Nếu so sánh tỉ lệ này ở các khoảng thời gian khác nhau trong 3 năm có thể
thấy cơng tác thực hiện Luật TTTP đã ngày càng đem lại kết quả tốt hơn.
- Thời gian từ 01-7-2008 đến 31-12-2009: tổng số yêu cầu uỷ thác tư pháp của
các Toà án gửi đi là: 2.683 yêu cầu, có 16 yêu cầu có kết quả (chiếm 0,6%);
- Thời gian từ 01-01-2010 đến 31-6-2010: tổng số yêu cầu uỷ thác tư pháp của
các Tồ án gửi đi là: 119 u cầu, có 3 yêu cầu có kết quả (chiếm 2,5%);
- Thời gian từ 01-7-2010 đến 31-12-2010: tổng số yêu cầu uỷ thác tư pháp của
các Toà án gửi đi là: 372 yêu cầu, có 163 yêu cầu có kết quả (chiếm 43,8%).
Trang | 11




Thực tiễn thi hành pháp luật về TTTP tại Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và
cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài:

Theo thống kê của Bộ Tư pháp, trong thời gian từ 01/7/2008 đến 30/12/2011,
Bộ Tư pháp đã thực hiện UTTP về dân sự cụ thể như sau:
Đối với yêu cầu TTTP do các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam gửi đi
nước ngoài:

- Tổng số hồ sơ gửi đến Bộ Tư pháp: 8823 hồ sơ;
- Tổng số hồ sơ khơng hồn thiện Bộ Tư pháp gửi lại để hoàn thiện: 767
(chiếm 8,7%);
- Tổng số hồ sơ có kết quả gửi về: 281 (chiếm 3,1 %).
Các hồ sơ gửi ra nước ngoài yêu cầu UTTP chủ yếu là tống đạt giấy tờ, tài
liệu, bản án, thu thập chứng cứ lấy lời khai của đương sự.
Năm địa phương có u cầu ủy thác ra nước ngồi nhiều nhất: Tồ án nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bà Rịa-Vũng Tàu, Vĩnh Long, Tây Ninh.
Năm nước Việt Nam gửi yêu cầu ủy thác nhiều nhất: Hoa Kỳ, Trung Quốc
(Đài Loan), Úc, Canada, Hàn Quốc.
Đối với yêu cầu TTTP của nước ngoài gửi tới Việt Nam:
- Tổng số: 826 hồ sơ
- Kết quả đã thực hiện: 288 yêu cầu (chiếm 34,9%)
- Trả lại: 09 hồ sơ (chiếm 1.08%)
Các hồ sơ của nước ngoài yêu cầu thực hiện UTTP phần lớn là tống đạt hồ
sơ, tài liệu, thu thập chứng cứ lấy lời khai, cung cấp thông tin về hộ tịch.
Số lượng 5 nước có yêu cầu ủy thác lớn nhất: Hàn Quốc, Pháp, Đức, Séc, Ba
Lan.
Số lượng 5 địa phương thực hiện ủy thác của nước ngoài nhiều nhất: Hải
Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hà Nội.
Từ những số liệu thực tiễn trong giai đoạn trên có thể đưa ra một số nhận xét
về hoạt động yêu cầu nước ngoài TTTP về dân sự như sau:
- Xét về tổng thể, tỉ lệ các yêu cầu UTTP của Việt Nam ra nước ngồi vẫn khơng
đạt hiệu quả như mong muốn. Trong khi đó yêu cầu ủy thác xử lý hàng năm
Trang | 12


ngày càng tăng về số lượng, phức tạp và đa dạng hơn về nội dung, đối tượng,
quốc gia thực hiện và yêu cầu thực hiện UTTP.
- Trước khi có Luật TTTP, tình hình thực hiện UTTP ra nước ngồi chỉ thuận lợi

đối với những nước có hiệp định TTTP tuy nhiên kết quả thực hiện cũng chậm.
Đối với những nước chưa có hiệp định TTTP thì về cơ bản là khơng có kết quả.
Kể từ khi có Luật TTTP đến nay, thực trạng này vẫn chưa có gì thay đổi đáng
kể.
- Việc thực hiện UTTP được thực hiện trên cơ sở điều ước quốc tế mà Việt Nam
đã ký kết với các nước. Trong trường hợp chưa có điều ước quốc tế quy định thì
việc UTTP được thực hiện trên cơ sở có đi có lại. Tuy nhiên thực tế cho thấy,
các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam tiếp nhận và thực hiện các yêu cầu
UTTP của nước ngoài đạt kết quả khá tốt (trong lĩnh vực UTTP về dân sự đạt
34, 9%). Trong khi đó, kết quả thực hiện UTTP của cơ quan nước ngoài đối với
yêu cầu củaViệt Nam rất hạn chế.
Như vậy, có thể nói rằng trong những năm qua thực tiễn hoạt động TTTP
trong lĩnh vực dân sự tại Việt Nam rơi vào tình trạng số lượng hồ sơ UTTP tăng
lên theo từng năm nhưng kết quả UTTP lại đạt tỷ lệ thấp, hiệu quả áp dụng pháp
luật chưa cao. Việc hiệu quả TTTP vẫn còn thấp do nhiều nguyên gây nên, tuy
nhiên trong đó nguyên nhân chủ yếu phải kể đến các bất cập còn tồn tại sau:
Thứ nhất, Số quốc gia, vùng lãnh thổ có ký hiệp định TTTP với Việt Nam
cịn ít nên việc thực hiện các yêu cầu TTTP của Việt Nam phần lớn vẫn dựa vào
nguyên tắc có đi có lại. Điều này dẫn đến nhiều vướng mắc như: trong quá trình
giải quyết những vụ việc dân sự liên quan tới các đối tượng sống tại các quốc
gia này mà cần tới việc tống đạt giấy tờ tài liệu, lấy lời khai, thu thập chứng
cứ… là rất khó khăn; một số quốc gia mà theo quy định của hệ thống pháp luật
của họ nếu khơng có Hiệp định TTTP sẽ khơng thực hiện việc UTTP, ví dụ như
Ấn Độ.
Bên cạnh đó, Các hiệp định TTTP mà Việt Nam đã ký kết hoặc điều ước
quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, pháp luật của nước ngoài về uỷ thác
tư pháp không được cập nhật, phổ biến kịp thời, thường xuyên cho Toà án địa
Trang | 13



phương nên việc nghiên cứu và áp dụng đúng các điều ước quốc tế cũng như
pháp luật nước được uỷ thác hết sức khó khăn.
Thứ hai, Cơ chế phối hợp giữa Toà án nhân dân tối cao với Bộ Tư pháp, Bộ
Ngoại giao trong việc thực hiện các yêu cầu uỷ thác tư pháp của nước ngoài và
gửi các yêu cầu uỷ thác tư pháp của Toà án Việt Nam ra nước ngồi chưa đồng
bộ. Chưa có cơ chế, biện pháp để thường xun rà sốt và đề nghị phía nước
ngoài thực hiện hoặc trả lời kết quả uỷ thác tư pháp.
Thứ ba, Quy trình UTTP hiện hành cịn qua nhiều khâu, nhiều cơ quan trung
gian như: Nếu trong quá trình giải quyết Tịa án cấp huyện thấy cần thiết UTTP
thì phải làm hồ sơ chuyển lên cấp tỉnh để thực hiện UTTP theo thủ tục chung.
Đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài vẫn phải UTTP qua Bộ tư pháp, Bộ
ngoại giao mới đến cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài là qua nhiều khâu,
mất nhiều thời gian chung chuyển. Địa chỉ thực hiện UTTP còn không rõ ràng,
thiếu thông tin hoặc thông tin về đương sự khơng chính xác. Có thể khẳng định
khơng ai giám chắc rằng việc trải qua nhiều khâu như vậy lại có sự phối kết hợp
tốt và sự thuận lợi tối đa trong việc UTTP. Với thực tế hiện nay, số lượng vụ việc
dân sự có nhu cầu UTTP ngày càng tăng sẽ không phù hợp với chủ trương
chung của Đảng, nhà nước và đặc biệt là ngành tư pháp đang đẩy mạnh việc cải
cách các thủ tục tố tụng hướng đến mục tiêu “để người dân thuận tiện nhất với
việc tiếp cận công lý và coi người dân như khách hàng đối với các yêu cầu dân
sự”.
Thứ tư, sai sót trong việc lập hồ sơ UTTP: nhiều hồ sơ yêu cầu nước ngoài
thực hiện ủy thác do các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam lập khơng đúng
quy định của Luật TTTP cả về nội dung lẫn hình thức, cụ thể như: ngôn ngữ sử
dụng trong yêu cầu TTTP không đúng với ngôn ngữ của quốc gia được yêu cầu,
nội dung bản dịch hồ sơ còn chưa chuẩn; địa chỉ ở nước ngồi của các đương sự
khơng chính xác; không rõ quốc tịch của đương sự; không rõ tên và địa chỉ của
cơ quan được ủy thác;… nên các cơ quan đầu mối thực hiện ủy thác phải gửi trả
lại cơ quan yêu cầu ủy thác để hoàn thiện dẫn đến mất nhiều thời gian, công sức.


Trang | 14


Thứ năm, đối với các hồ sơ của cơ quan có thẩm quyền nước ngồi gửi, do
tiếng Việt khơng có dấu nên nhiều trường hợp không rõ tên cụ thể, địa chỉ, hay
nhiều đương sự sau khi nhập cảnh về Việt Nam khơng cịn ở địa chỉ cũ đã khiến
việc tống đạt gặp nhiều khó khăn, mất thời gian điều tra, xác minh.
Thứ sáu, Về lệ phí và chi phí khác khi có yêu cầu UTTP chưa được quy định
cụ thể trong Pháp lệnh án phí, lệ phí Tịa án. Đối với UTTP từ nước ngoài vào
Việt Nam theo quy định tại Điều 47 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tịa án thì mức thu
là 5.000.000đ/một hồ sơ. Nhưng theo thông báo của đại diện Cục lãnh sự-Bộ
ngoại giao đang thực hiện mức thu là 550.000đ và cơ quan thực hiện UTTP cũng
khơng nhận được lệ phí thực hiện UTTP. Đối với việc thực hiện UTTP từ Việt
Nam ra nước ngồi thì lệ phí UTTP khơng quy định trong Pháp lệnh án phí, lệ
phí Tịa án mà lại được quy định tại Điều 16 Luật TTTP khơng cụ thể:
“1.Chi phí thực hiện TTTP về dân sự giữa Việt Nam và nước ngoài do nước
yêu cầu chi trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2.Cá nhân, tổ chức Việt Nam yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của
Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự làm phát sinh yêu cầu UTTP ra nước ngồi
thì phải trả chi phí theo quy định của Việt Nam và của nước yêu cầu…”
Tuy nhiên trong thực tiễn TTTP quốc tế tại mối quốc gia, khu vực lại có cách
thu và mức thu khác nhau như: Hoa Kỳ thu 95 USD/một lần UTTP (phải nộp
trước tiền lệ phí), Úc là 50 đơ la Úc…
Thứ bảy, việc tuân thủ quy trình, thủ tục TTTP theo Luật chưa được triệt để
hay không xác định được cơ quan có thẩm quyền thực hiện ủy thác do khơng
xác định được quốc tịch đương sự nên không đạt được kết quả, đồng thời gây
khó khăn cho cơ quan đầu mối trong công tác quản lý.
Thứ tám, Các lớp tập huấn và bồi dưỡng nghiệp vụ về TTTP chưa được tổ
chức thường xuyên để nâng cao nghiệp vụ và kỹ năng thực hiện uỷ thác tư pháp
của cán bộ Toà án địa phương. Công tác tuyên truyền, tập huấn về các điều ước

quốc tế về TTTP, về pháp luật TTTP của các nước đối tác hầu như chưa được
triển khai mặc dù thực tế công tác uỷ thác tư pháp liên quan trực tiếp đến các điều

Trang | 15


ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hay tham gia trong lĩnh vực này và chịu sự
điều chỉnh của pháp luật các nước nhận yêu cầu uỷ thác từ Việt Nam.
2.2.

Giải pháp
Từ những vướng mắc trong qua trình thực hiện TTTP trong thực tiễn, có thể

đưa ra một số giải pháp sau:


Hồn thiện cơ sở pháp lý quốc tế: Việt Nam cần thiết lập lộ trình đàm phán, ký
kết Hiệp định TTTP song phương với các quốc gia mà hiện có đơng người Việt
Nam đang sinh sống, làm việc và học tập. Điều này giúp tạo ra một cơ chế giải
quyết vấn đề UTTP khi phát sinh nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho
cơng dân Việt Nam cũng như cơng dân nước ngồi. Bên cạnh đó cần rà sốt tổng
thể các Hiệp định TTTP mà Việt Nam đã ký kết trước khi có luật TTTP để tiến
hành đàm phán sửa đổi, bổ sung hoặc ký kết các Hiệp định mới với các nước
liên quan.
Việc tham gia vào một số Công ước đa phương về TTTP về dân sự đối với
Việt Nam cũng đóng vai trị rất quan trọng. Việc tham gia Công ước đa phương
không những tạo thuận lợi cho quá trình UTTP được thực hiện nhanh gọn, hiệu
quả hơn mà còn giúp cho Việt Nam có thể cùng một lúc hợp tác TTTP với nhiều
nước là thành viên của Công ước, mở rộng phạm vi hợp tác mà không cần phải
trực tiếp đàm phán với từng nước một như điều ước song phương. Có thể kể đến

một số Công ước đa phương được nhiều quốc gia tham gia và hoạt động rất hiệu
quả như: Công ước về Tống đạt giấy tờ (Công ước La-hay 1965); Cơng ước
Miễn hợp pháp hóa giấy tờ (Cơng ước La - hay 1961); Cơng ước thu thập ở
nước ngồi chứng cứ trong lĩnh vực dân sự và thương mại (Công ước La-hay
1970); Công ước công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tịa án nước
ngồi (Cơng ước La-hay 1971); và Công ước lựa chọn thỏa thuận Tịa án hay
Cơng ước lựa chọn tịa án (Cơng ước La-hay 2005).
Trong đó, mới đây vào ngày 10/3/2016, Việt Nam đã chính thức nộp Văn
kiện hồ sơ gia nhập Cơng ước La Hay năm 1965 về tống đạt ra nước ngoài giấy
tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại. Theo đó, kể
từ ngày 01/10/2016, Cơng ước này sẽ có hiệu lực đối với Việt Nam. Trong bối
Trang | 16


cảnh Việt Nam đang tiến hành cải cách tư pháp và cải cách pháp luật, việc gia
nhập Công ước Tống đạt sẽ góp phần giúp Việt Nam hồn thiện hệ thống pháp
luật liên quan đến tư pháp quốc tế thông qua việc áp dụng những chuẩn mực
quốc tế về TTTP, đưa hệ thống pháp luật, quy trình tố tụng của Việt Nam đến
gần và phù hợp với hệ thống pháp luật quốc tế. Bên cạnh đó, việc gia nhập Cơng
ước Tống đạt có ý nghĩa thiết thực nhằm giải quyết những tồn đọng, khó khăn
trong việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi tại Tịa án Việt
Nam, qua đó đảm bảo quyền lợi chính đáng cho cả cơng dân Việt Nam và người
nước ngồi.


Bên cạnh việc hồn thiện cơ sở pháp lý quốc tể thì Việt Nam cũng cần phải củng
cố các cơ sở pháp lý trong nước. Cụ thể cần hoàn thiện một số nội dung như:
Thứ nhất, về ngôn ngữ trong bản dịch UTTP, cần thiết phải ban hành mẫu
bản dịch văn bản UTTP theo từng nước, từng khu vực trên thế giới. Đề nghị Bộ
ngoại giao công bố những nước mà Việt Nam đã tham gia ký kết Hiệp định TTTP và

danh mục ngôn ngữ mà các nước, khu vực sử dụng để thuận tiện trong việc dịch văn
bản UTTP nhằm khắc phục tình trạng sai sót trong hồ sơ, đẩy nhanh tiền trình thực
hiện UTTP.
Thứ hai, về quy trình UTTP: Nên rút ngắn quy trình thực hiện UTTP qua các
cơ quan khác nhau như Tòa án nhân dân cấp huyện trong quá trình giải quyết vụ
việc nếu thấy cần thiết thực hiện việc TTTP ra nước ngồi thì có thể trực tiếp lập
hồ sơ theo quy định chung (không cần thông qua Tòa án nhân dân cấp tỉnh). Đối
với việc UTTP cho cơng dân Việt Nam ở nước ngồi khơng nhất thiết UTTP qua
Bộ tư pháp, Bộ ngoại giao mà UTTP trực tiếp qua cơ quan đại diện Việt Nam
(hoặc tổ chức có thẩm quyền) ở nước thực hiện việc UTTP.
Thứ ba, cần quy định cụ thể về việc nộp lệ phí và chi phí khác khi thực hiện
UTTP từ Việt Nam ra nước ngoài. Khi Bộ ngoại giao thu lệ phí UTTP từ nước
ngồi về Việt Nam cần có cơ chế chi phí cho các Tịa án thực hiện UTTP. Đối
với việc thu lệ phí UTTP từ Việt Nam ra nước ngồi cần ban hành Thơng tư
hướng dẫn cụ thể.

Trang | 17


Để hài hòa các quy định của pháp luật Việt Nam với quy định của điều ước
quốc tế nhằm tạo cơ sở pháp lý khi thực hiện Công ước Tống đạt, mới đây Bộ
Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao xây
dựng, ban hành Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC quy
định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự thay thế Thông
tư liên tịch số 15. So với Thông tư liên tịch số 15, một trong số những điểm mới
của Thông tư liên tịch số 12 đó là việc bổ sung cơ chế thu, nộp chi phí UTTP về
dân sự. Để giải quyết vấn đề về chi phí thực tế đối với việc UTTP về dân sự, các
quy định của Thông tư đã tiếp cận các quy định mới của Bộ luật tố tụng dân sự
2015 và các quy định của Công ước Tống đạt. Trên cơ sở đó, Điều 6 thơng tư đã
xác định rõ ràng các khoản chi phí thực hiện UTTP về dân sự phải nộp, Điều 7

Thông tư quy định cụ thể việc thu nộp chi phí thực tế thực hiện UTTP của Việt
Nam, theo đó:
Đối với các chi phí thực tế phát sinh trong nước thì người có nghĩa vụ nộp
chi phí thực hiện UTTP của Việt Nam thanh toán trực tiếp cho người cung cấp
dịch vụ.
Đối với chi phí thực tế do cơ quan có thẩm quyền nước ngồi thu:
+ Trường hợp chi phí thực tế đã xác định được theo quy định của phía nước
ngồi tại thời điểm cơ quan có thẩm quyền yêu cầu UTTP của Việt Nam lập hồ
sơ, cơ quan có thẩm quyền yêu cầu UTTP của Việt Nam thơng báo người có
nghĩa vụ nộp chi phí thanh tốn chi phí với cơ quan có thẩm quyền nước ngồi
phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc gia liên quan.
+ Trường hợp chi phí thực tế chưa xác định được tại thời điểm cơ quan có
thẩm quyền yêu cầu UTTP của Việt Nam lập hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền yêu
cầu UTTP của Việt Nam thông báo cho người có nghĩa vụ nộp chi phí của Việt
Nam nộp tạm ứng 3 triệu đồng tại cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi cơ
quan có thẩm quyền UTTP về dân sự của Việt Nam có trụ sở. Số tiền tạm ứng
này sẽ được thanh toán cho chi phí thực tế theo u cầu của cơ quan có thẩm
Trang | 18


quyền nước ngồi và các chi phí phục vụ việc chuyển tiền ra nước ngoài do cơ
quan thi hành án dân sự thực hiện.
Ngồi ra, Điều 8 thơng tư cũng quy định trình tự chuyển và thanh tốn tạm
ứng chi phí thực tế thực thiện uỷ thác tư pháp của Việt Nam và Điều 9 quy định
về thu nộp chi phí thực tế UTTP của nước ngồi.
Có thể thấy, các nhà làm luật của Việt Nam đã có cái nhìn đúng đắn về những
vấn đề đang đặt ra đối với hoạt động UTTP về dân sự của Việt Nam ra nước
ngồi bằng việc ban hành Thơng tư số 12 sửa đổi, bổ sung các quy định của
pháp luật Việt Nam liên quan đến các kênh tống đạt, các mẫu yêu cầu tống đạt,
Giấy xác nhận kết quả tống đạt phù hợp với Công ước Tống đạt và đặc biệt là bổ

sung cơ chế thu chi phí thực hiện tống đạt. Các quy định trong thông tư 12 được
quy định khá cụ thể và nhìn chung đã khắc phục được những điểm bất cập của
thông tư số 15, tuy nhiên một số những quy định về ngôn ngữ trong hồ sơ, rút
ngắn trình tự, thủ tục giữa các cơ quan vẫn chưa có những thay đổi sâu sắc. Để
có thể đánh giá chính xác hiệu quả của những thay đổi này đối với hoạt động
UTTP về dân sự thì cần phải tiếp tục theo dõi bằng thực tiễn thực hiện thông tư
số 12 trong thời gian tới cùng với sự ra đời của Thơng tư liên tịch giữa Tịa án
nhân dân tối cao và Bộ Ngoại giao đối với việc tống đạt giấy tờ cho cơng dân
Việt Nam ở nước ngồi đang được TANDTC và Bộ ngoại giao xây dựng tách
riêng ra khỏi thông tư số 12. Đây sẽ là những cơ sở pháp lý quan trọng góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác TTTP về dân sự trong thời gian tới.

KẾT LUẬN
Trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, TTTP quốc tế nói chung, TTTP về
dân sự nói riêng đang trở thành một vấn đề hết sức quan trọng. Vấn đề TTTP về
dân sự và cụ thể là UTTP của Việt Nam cho nước ngoài về dân sự cũng đã đạt
được nhiều thành quả nhất định nhờ sự nỗ lực cố gắng của các cơ quan tư pháp
Trang | 19


Việt Nam. Tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc còn tồn tại cần phải
được tiếp tục nghiên cứu và sửa đổi để phù hợp với thực tiễn đầy biến động,
nâng cao hơn nữa chất lượng TTTP về dân sự nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác và
hội nhập quốc tế của Việt Nam.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bộ luật tố tụng dân sự, Nxb. Lao động, 2015;


2.

Luật tương trợ tư pháp, Nxb. Lao động, 2007;

Trang | 20


3.

Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 19
tháng 10 năm 2016 của Bộ tư pháp, Bộ ngoại giao, Tòa án nhân dân tối
cao quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự;

4.

Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 15
tháng 09 năm 2011 của Bộ tư pháp, Bộ ngoại giao, Tòa án nhân dân tối
cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định về tương trợ tư pháp trong lĩnh
vực dân sự của Luật tương trợ tư pháp;

5.

Dự thảo Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Luật Tương trợ tư pháp của
Bộ Tư pháp, tháng 10/2011;

6.

Đình Tun: “Tiếp tục hồn thiện thể chế, tăng cường phối hợp công
tác tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự”, Báo điện tử Công Lý,
ngày 24-10-2016;


7.

Nguyễn Văn Cường: “Một số vấn đề về tương trợ tư pháp trong lĩnh
vực dân sự”, Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao,
/>p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=206
51956;

8.

Nguyễn Việt Cường: “Quy trình thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự
thực tiễn áp dụng và những bất cập”, Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân
dân tối cao,
/>p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=267
79886,

9.

Phạm Thị Trang, Nguyễn Vương Thùy Dương: “Một số khó khăn
vướng mắc liên quan tới vấn đề tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự và

Trang | 21


các kiến nghị giải pháp”, Đề tài khoa học cấp trường, Trường đào tạo bồi
dưỡng nghiệp vụ kiểm sát, 2010;
10.

Trường đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật tương trợ tư pháp,
Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, 2016.


Trang | 22



×