VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI
BÀI TẬP NHÓM SỐ 2
Đề số 2: Anh/ chị hãy tìm một vụ việc thực tế hoặc xây dựng một tình
huống giả định về tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngồi. Phân tích
vụ việc đó, xác định tư cách đương sự? Căn cứ pháp lý? Xác định
thẩm quyền của tịa án giải quyết vụ việc đó.
Nhóm 3 – Lớp K2B
Hà Nội – 2016
MỞ ĐẦU
Trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng của nước ta hiện nay, nhu cầu
giao thương khơng cịn bó hẹp trong nước mà được mở rộng với các nước trên
thế giới. Song song với sự xuất hiện đa dạng của các mối quan hệ dân sự có yếu
tố nước ngồi thì cùng với đó cũng nảy ra nhiều vụ việc tranh chấp có yếu tố
nước ngồi trong đó. Việc xác định yếu tố nước ngoài trong các tranh chấp dân
sự là một nội dung quan trọng quyết định việc giải quyết đúng đắn vụ án. Bài
viết sau đây của nhóm sẽ giải quyết một tình huống về tranh chấp dân sự có yếu
tố nước ngồi do nhóm xây dựng, từ đó đưa ra những phân tích, căn cứ pháp lý
theo quy định của pháp luật hiện hành về tư cách đương sự cùng thẩm quyền xét
xử của Tòa án để có một cái nhìn cụ thể hơn về vấn đề này.
NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VÈ TRANH CHẤP DÂN SỰ CĨ YẾU TỐ
NƯỚC NGỒI
1. Khái niệm tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngồi.
Theo quy định tại Điều 758 BLDS 2005 thì: “Quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngồi là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ
chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các
quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn
cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngồi, phát
sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi”.
Những tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngồi là những tranh chấp dân sự
phát sinh từ các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi. Thường những tranh chấp
đó liên quan đến một bên các chủ thể là người nước ngoài, hoặc người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, hoặc tài sản ở nước ngồi...
Đối với những tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngồi sẽ có những nét đặc
thù về trình tự thủ tục giải quyết cũng như việc xác định cơ quan có thẩm quyền
giải quyết, áp dụng pháp luật để giải quyết...
2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngồi
Thẩm quyền của Tịa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài được xác định tại chương III của Bộ Luật tố tụng dân sự 2004. Tòa
án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi trong các
trường hợp sau:
- Bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngồi có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc
bị đơn có cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phịng đại diện tại Việt Nam;
- Bị đơn là cơng dân nước ngồi, người khơng quốc tịch, cư trú, làm ăn,
sinh sống lâu dài tại Việt Nam hoặc có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam;
- Nguyên đơn là công dân nước ngồi, người khơng quốc tịch, cư trú, làm
ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam đối với vụ việc dân sự về yêu cầu đòi
tiền, cấp dưỡng, xác định cha mẹ;
- Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm
dứt quan hệ đó theo pháp luật Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt
Nam nhưng ít nhất một trong các đương sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức
nước ngoài;
- Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm
dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngồi hoặc xảy ra ở nước ngồi,
nhưng các đương sự đều là cơng dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam và
nguyên đơn hoặc bị đơn tại Việt Nam
- Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mà việc thực hiện toàn bộ hoặc một
phần hợp đồng xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam
- Vụ việc ly hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam.
Khi giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi, tịa án có thể ủy thác
tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngồi, ủy thác cho tịa án
nước ngồi điều tra, tống đạt... và thực hiện các hành vi tố tụng khác. Hiện nay
theo quy định của pháp luật Tố tụng dân sự 2004 thì thẩm quyền giải quyết các
vụ việc có yếu tố nước ngồi là tịa án nhân dân cấp tỉnh.
Khoản 3 Điều 33 BLTTDS 2004 quy định: “Những tranh chấp, yêu cầu quy
định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài
hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài,
cho Toà án nước ngồi khơng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tồ án nhân dân
cấp huyện”
Tính đặc thù trong việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi
cịn được thể hiện rõ ở chỗ khi giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi,
thẩm phán khơng những phải nắm rõ luật nội dung, nắm vững pháp luật tố tụng
mà còn phải nắm vững và vận dụng đúng đắn các nguyên tắc giải quyết xung
đột pháp luật về các quan hệ cụ thể, có kiến thức về tư pháp quốc tế.
II – TÌNH HUỐNG GIẢ ĐỊNH VỀ TRANH CHẤP NƯỚC NGỒI
Nội dung tình huống:
Ngày 13/5/2015, Ơng Nguyễn văn A là công dân Việt Nam đã giao kết hợp
đồng mua bán chiếc xe ô tô hiệu porsche cayenne 2015 của ông B là công dân
Đức. Hợp đồng được hai bên kí kết tại Pháp . Theo hợp đồng, sẽ được chuyển từ
Đức về Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, giữa 2 bên đã xảy ra tranh chấp về việc
sau khi ông A nhận được xe cho rằng tình trạng của chiếc xe hiện tại khơng đúng
như trong hợp đồng đã thỏa thuận. Vì vậy cơng ty ông A cho rằng ông B đã vi
phạm hợp đồng do giao hàng không đúng chất lượng và ngày 23/8/2015 đã làm
đơn khởi kiện ơng B.
1. Phân tích tình huống:
Trước hết để xác định tính huống trên có phải là tranh chấp có yếu tố nước
ngồi hay khơng? chúng ta cần phải xem xét một số các điều kiện như sau:
Theo điều 758 bộ luật dân sự 2005 quy định:"Quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngồi là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ
chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các
quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn
cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát
sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi."
Các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi được điều chỉnh trong Bộ luật Dân
sự năm 2005 đuợc các nhà làm luật xem xét theo ba phương diện: chủ thể, khách
thể và sự kiện pháp lý:
Về chủ thể, Bộ luật dân sự năm 1995 chỉ quy định quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi là quan hệ mà một bên chủ thể là người nước ngoài và pháp nhân
nước ngoài. Tuy nhiên, trong quan hệ dân sự còn thiếu một loại chủ thể khác
được thành lập theo pháp luật nước ngồi khơng phải là cá nhân, cũng khơng
phải là pháp nhân. Chính vì thế, trong Bộ luật dân sự năm 2005 nhà làm luật đã
sửa đổi, bổ sung quy định này so với Bộ luật Dân sự năm 1995. Theo đó, quan
hệ dân sự mà có một bên hoặc các bên tham gia quan hệ là cơ quan, tổ chức, cá
nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngồi, thì quan hệ đó cũng
được gọi là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi.
Về mặt khách thể, tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi. Trong
trường hợp này, chủ thể quan hệ dân sự có thể đều là cá nhân, pháp nhân Việt
Nam, nhưng tài sản là đối tượng tranh chấp lại không ở trên lãnh thổ Việt Nam,
mà ở nước ngoài.
Về sự kiện pháp lý, căn cứ để xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ dân sự
được phát sinh ở nước ngồi. Nói cách khác, mặc dù chủ thể quan hệ dân sự đều
là cá nhân, cơ quan, tổ chức Việt Nam, nhưng sự kiện pháp lý là căn cứ để xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngồi.
Từ sự phân tích trên cho thấy, "yếu tố nước ngoài" được xác định trong các
quan hệ dân sự dựa trên cơ sở quốc tịch, nơi xác lập giao dịch dân sự hoặc nơi
có tài sản. Các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi khơng chỉ đơn giản xảy ra
một trong các trường hợp trên. Trên thực tế, các quan hệ dân sự này đa dạng và
phong phú hơn nhiều. Nó có thể phát sinh các quan hệ dân sự trong đó vừa có cá
nhân nước ngồi tham gia, vừa có những căn cứ phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt các quan hệ pháp luật dân sự ở nước ngoài, hoặc tài sản liên quan đến quan
hệ đó ở nước ngồi.
Trên đây là những điều kiện cơ bản để xác định một vụ việc có yếu tố nước
ngồi từ đó chúng ta có thể phân tích tình huống của nhóm xem nó có thỏa mãn
các điều kiện trên hay khơng:
- Chủ thể:
Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi là quan hệ dân sự có ít nhất một trong
các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là cơng dân,
tổ chức Việt Nam. Vì vậy trong tình huống chúng ta có thể thấy bên tham gia ở
tình huống có một bên chủ thể là tổ chức nước ngồi đó là ơng B là cơng dân
Đức và một bên chủ thể khác để thực hiện hợp đồng mua bán đó là Ơng Nguyễn
Văn A là cơng dân Việt Nam. Từ đó ta có thể thấy về mặt chủ thể tình huống
trên đã đáp ứng được cơ bản các điều kiện về mặt chủ thể.
- Khách thể:
Tài sản liên quan đến quan hệ đó có yếu tố nước ngồi trong tình huống. Tài
sản là chiếc ơ tơ hiệu Porsche Cayenne 2015 của ơng B. Vì tài sản của ông B là
công dân Đức và được đặt ở nước ngoài tức là đối tưởng của vụ việc là tài sản ở
nước ngồi do đó yếu tố khách thể có yếu tố nước ngoài cũng thỏa mãn với điều
kiện của điều luật
- Sự kiện pháp lý:
Căn cứ để xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ dân sự được phát sinh ở
nước ngồi. Trong tình huống này nhóm xây dựng đủ căn cứ để xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quan hệ dân sự. Đó là việc phát sinh hợp đồng mua bán chiếc ô
tô và sự việc ông A nhận không đúng chất lượng của chiếc ô tô và từ sự việc đó
phát sinh việc khởi kiện ra tịa án để bảo vệ quyền và lợi ích của ơng A.
Từ các phân tích trên nhóm khẳng định tình huống xây dựng hoàn toàn phù
hợp với các điều kiện để cho rằng tình huống trên là tình huống tranh chấp dân
sự có yếu tố nước ngồi.
2. Xác định tư cách đương sự
Việc xác định tư cách đương sự trong một vụ án là vơ cùng quan trọng nó
gây ảnh hưởng đến nhiều vấn đề khác trong cách giải quyết vụ án dân sự:
Tư cách nguyên đơn của vụ án:
Theo Điều 56 Bộ Luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 quy
định:
“Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khời kiện, người được cá nhân, cơ
quan, tổ chức do bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết vụ
án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm hại.
Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để u cầu
tịa án bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực mà mình
phụ trách cũng là nguyên đơn”.
Điều đó cho thấy nguyên đơn có vai trị quan trọng trong vụ án dân sự so với
các đương sự khác. Vì để phát sinh vụ án dân sự tại Tòa án, đồng thời là cơ sở
để bắt đầu giải quyết vụ án dân sự phải có nguyên đơn khởi kiện hoặc các chủ
thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng để bảo vệ quyền lợi của nguyên
đơn.
Bộ Luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 chỉ quy định nguyên tắc
chung để xác định nguyên đơn thông qua hành vi khởi kiện của chủ thể có
quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh chấp. Theo đó, nguyên đơn
trong vụ án dân sự là người khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự
khi cho rằng quyền và lợi ích của người đó bị xâm phạm.
Theo quy định trên thì nguyên đơn là chủ thể thỏa mãn hai điều kiện sau:
- Được giả thiết có quyền lợi bị xâm hại hay tranh chấp với bị đơn.
- Đã tự mình khởi kiện.
Các quy định trên của BLTTDS chưa đủ để xác định tư cách của đương sự
trong vụ án dân sự. Bởi lẽ, để có thể xác định đúng tư cách của ngun đơn thì
ngồi các điều kiện trên, cần có các quy định của pháp luât hơn nhân gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động. Việc xác định tư cách của nguyên đơn phải
dựa trên cơ sở quan hệ pháp luật có tranh chấp, pháp luật nội dung điều chỉnh
quan hệ đó.
Theo những phân tích trên chúng ta có thể thấy Ông Nguyến Văn A trong
tình huống trên là nguyên đơn dân sự vì trong tình huống này ơng A là người đã
bị xâm hại về các quyền mà ông sẽ được hưởng như giao hàng đúng chất lượng
nhưng ở đây ông đã bị xâm hại quyền đó. Thứ hai do ông bị xâm phạm đến
quyền lợi của mình nên ông đã tự mình khởi kiện ra để được tịa án bảo vệ
quyền lợi của mình.
Tư cách bị đơn trong vụ án:
Cũng theo điều 56 bộ luật tố tụng dân sự cũng quy định bị đơn trong vụ án
dân sự: “3. Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà
án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên
đơn bị người đó xâm phạm.”
Theo điều luật này ta có thể khẳng định bị đơn là người bị nguyên đơn khởi
kiện trong tình huống này ta có thể khẳng định Ơng B là bị đơn của vụ án vì
trong tình huống ơng B đã vi phạm xâm hại đến quyền và lợi ích của ơng A từ
đó ơng A khởi kiện để yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình. Do đó nhóm em
khảng định ơng B cơng dân Đức là bị đơn trong vụ án dân sự.
3. Thẩm quyền xét xử của Tòa án
Trước tiên, cần phải xem ông A có quyền khởi kiện không, và khởi kiện như
thế nào? Tại Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm
2011) quy định cá nhân, tổ chức, cơ quan có quyền tự mình hoặc thông qua
người đại diện hợp pháp để khởi kiện vụ án. Như vậy, ơng A có thể tự mình nộp
đơn khởi kiện hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện.
“ Điều 161. Quyền khởi kiện vụ án
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thơng qua người đại diện
hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tồ án có
thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”
Về thẩm quyền của Tịa án giải quyết:
Trước tiên để xác định Tồ án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp Đức hay không cần dựa vào thoả
thuận của các bên trong hợp đồng. Trong trường hợp hợp đồng quy định một cơ
quan giải quyết tranh chấp là một cơ quan giải quyết tranh chấp khác Toà án
Việt Nam thì Tồ án Việt Nam sẽ khơng có thẩm quyền đương nhiên giải quyết
mà cơ quan giải quyết tranh chấp mà các bên thoả thuận trong hợp đồng sẽ có
thẩm quyền đương nhiên khi mà hợp đồng hợp pháp. Nếu Toà án Việt Nam vẫn
thụ lý vụ án trong trường hợp này, bản án có thể khơng được chấp nhận tại Đức
(nơi ông B là công dân ).
Trong trường hợp hợp đồng khơng có thoả thuận và theo Tư pháp Quốc tế,
mỗi nước có những quy định riêng biệt về thẩm quyền của Tồ án nước mình
trong việc giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngồi. Tư pháp Quốc tế các
nước cũng như Việt Nam công nhận thẩm quyền chung của Tồ án nước mình
trong việc giải quyết tranh chấp mà một bên trong tranh chấp có trụ sở chính hay
quốc tịch nước mình (hệ thuộc luật quốc tịch). Do đó, Tồ án Việt Nam có thẩm
quyền thụ lý giải quyết vụ án nếu ông A khởi kiện đối với ông B
Căn cứ Điều 410 tại Bộ Luật Tố tụng dân sự 2004 có quy định:
“1. Thẩm quyền của Toà án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngồi được xác định theo quy định tại Chương III của Bộ luật này, trừ
trường hợp Chương này có quy định khác.
2. Tồ án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong
các trường hợp sau đây:
a) Bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngồi có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc
bị đơn có cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam;
b) Bị đơn là cơng dân nước ngồi, người khơng quốc tịch cư trú, làm ăn,
sinh sống lâu dài tại Việt Nam hoặc có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam;
c) Ngun đơn là cơng dân nước ngồi, người khơng quốc tịch cư trú, làm
ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam đối với vụ việc dân sự về yêu cầu đòi tiền cấp
dưỡng, xác định cha mẹ;
d) Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm
dứt quan hệ đó theo pháp luật Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam,
nhưng có ít nhất một trong các đương sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước
ngoài;
đ) Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm
dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngồi hoặc xảy ra ở nước ngồi, nhưng các
đương sự đều là cơng dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam và nguyên đơn hoặc bị
đơn cư trú tại Việt Nam;
e) Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mà việc thực hiện toàn bộ hoặc một
phần hợp đồng xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam;
g) Vụ việc ly hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam.
Trong vụ việc trên, tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mà việc thực hiện một
phần xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam (một bên trong tranh chấp ơng A có nghĩa vụ
trả tiền mua xe cho ơng B theo hợp đồng), theo đó căn cứ vào Điểm e Khoản 2
Điều 410 Bộ Luật tố tụng dân sự 2004 thì Tồ án Việt Nam có thẩm quyền giải
quyết khi ông A nộp đơn kiện ông B.
Thứ hai, tịa án cấp nào sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa ông A
và ông B.
Căn cứ vào khoản 3 Điều 25, khoản 3 điều 33, điểm c khoản 1 Điều 44 và
khoản 1 Điều 35 bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011 thì nhóm cho
rằng thẩm quyền giải quyết vụ án này thuộc về toà án nhân dân cấp tỉnh. Cụ thể
trong trường hợp này cơ quan có thẩm quyền giải quyết là tồ án nhân dân cấp
tỉnh (nơi mà ơng A sinh sống ).
“Điều 25. Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của
Toà án: 3. Tranh chấp về hợp đồng dân sự.”
“Điều 33. Thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh
3.
Những tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà
có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ
quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngồi, cho Tồ án nước ngồi khơng thuộc
thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện.”
“Điều 34. Thẩm quyền của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương
1. Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi
chung là Toà án nhân dân cấp tỉnh) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ
thẩm những vụ việc sau đây:
c) Tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 3 Điều 33 của Bộ luật này.”
“Điều 35. Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ.
1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác
định như sau:
a) Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn
có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục
sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
b) Các đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Toà
án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có
trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những
tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
c) Tồ án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về
bất động sản.”
Thứ ba, pháp luật nước nào sẽ được áp dụng để giải quyết tranh chấp giữa
ông A và ông B.
Trong Tư pháp Quốc tế, việc xác định pháp luật áp dụng thường được xác
định dựa trên thoả thuận giữa các bên. Trong trường hợp các bên khơng có thoả
thuận thì Tồ án thụ lý vụ án sẽ có thẩm quyền xác định pháp luật được áp dụng
để giải quyết vụ việc trên. Thơng thường, Tồ án nước nào thụ lý vụ án sẽ áp
dụng quy phạm pháp luật nước mình để xem xét pháp luật được áp dụng trong
hợp đồng.
Về hình thức hợp đồng, theo quy định tại khoản 1 Điều 770 BLDS 2005
thì hình thức hợp đồng sẽ tuân theo pháp luật nước nơi giao kết hợp đồng tức là
pháp luật Pháp sẽ điều chỉnh về hình thức hợp đồng về việc mua bán chiếc xe
giữa ông A và ơng B.
“Điều 770. Hình thức của hợp đồng dân sự
1. Hình thức của hợp đồng phải tuân theo pháp luật của nước nơi giao kết
hợp đồng. Trong trường hợp hợp đồng được giao kết ở nước ngoài mà vi phạm
quy định về hình thức hợp đồng theo pháp luật của nước đó, nhưng khơng trái
với quy định về hình thức hợp đồng theo pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thì hình thức hợp đồng được giao kết ở nước ngồi đó vẫn được cơng
nhận tại Việt Nam.”
Về nội dung hợp đồng, theo quy định tại Điều 769 BLDS 2005 thì nội dung
của hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ tuân theo pháp luật nơi thực
hiện hợp đồng. Nếu hợp đồng trên khơng có thoả thuận thì có thể pháp luật Việt
Nam và pháp luật Đức có thể áp dụng. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam sẽ được
Toà án Việt Nam áp dụng trong thực tiễn trừ trường hợp các bên trong tranh
chấp chứng minh được pháp luật nước khác có mối quan hệ gắn bó hơn.
“Điều 769: Hợp đồng dân sự
1. Quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được xác định theo pháp
luật của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu khơng có thoả thuận khác.
Hợp đồng được giao kết tại Việt Nam và thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam thì
phải tn theo pháp luật Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong trường hợp hợp đồng không ghi nơi thực hiện thì việc xác định nơi
thực hiện hợp đồng phải tuân theo pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
2. Hợp đồng liên quan đến bất động sản ở Việt Nam phải tuân theo pháp luật
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
KẾT LUẬN
Với các tranh chấp về hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi nói riêng, các
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi nói chung, thì khơng phải khi nào cũng
đương nhiên áp dụng tư pháp quốc tế Việt Nam. Vì lẽ đó, nghiên cứu cách thức
xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp cũng như tính hợp pháp
của việc chọn luật áp dụng dứt khốt phải được đặt trong một bình diện tổng thể
với sự đan xen của tư pháp quốc tế nhiều nước trên thế giới. Bên cạnh đó, đặt ra
yêu cầu đối với đội ngũ Thẩm phán không những phải nắm rõ luật nội dung,
nắm vững pháp luật tố tụng mà còn phải nắm vững và vận dụng đúng đắn các
nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về các quan hệ cụ thể, có kiến thức về
tư pháp quốc tế thì mới có thể giải quyết vụ án được một cách đúng đắn, đảm
bảo quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
*****
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb.CAND,
2013;
2. Bộ luật Dân sự 2005;
3. Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi bổ sung 2011)