TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI
KHOA TỘI PHẠM HỌC VÀ ĐIỀU TRA TỘI PHẠM
BÀI TẬP NHĨM
MƠN TỘI PHẠM HỌC
Đề tài: Đặc điểm nhân thân người phạm tội giết người
Nhóm 2 – K2B
Hà Nội, tháng 9 năm 2017
I – LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI GIẾT NGƯỜI
1. Khái niệm nhân thân người phạm tội giết người
Nhân thân con người là sự thống nhất giữa các đặc tính xã hội và các đặc
tính sinh học, tâm lý của một người, thể hiện bản chất riêng của con người đó trong
các mối quan hệ xã hội, thể hiện họ là chính họ.
Đối tượng nghiên cứu của tội phạm học là con người phạm tội chứ không
phải con người nói chung. Người phạm tội là người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong BLHS và bị coi là tội phạm. Vì vậy, khi đề cập đến
nhân thân người phạm tội là nói đến các đặc điểm của nhân thân con người nói
chung và cả những đặc điểm đặc trưng của bản thân người phạm tội – những đặc
điểm thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của họ, như là: tại thời điểm thực hiện
hành vi phạm tội họ có NLTNHS, đạt độ tuổi theo luật định, tâm lý, tính cách, thói
quen, sở thích, quan điểm, thái độ, ý thức pháp luật,... Tất cả các đặc điểm tâm,
sinh lý này của người phạm tội phụ thuộc vào điều kiện sống, giáo dục của gia
đình và nhà trường, và những mối quan hệ nhất định. Chính các đặc điểm này dưới
sự tác động của các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài, của những tình huống cụ thể
đã tạo thành động lực thúc đẩy việc thực hiện tội phạm.
Trong Tội phạm học, nhân thân người phạm tội là tổng hòa các yếu tố, các
đặc điểm riêng biệt của người phạm tội ở một địa bàn hành chính – lãnh thổ nhất
định, trong một khoảng thời gian nhất định về các mặt tâm – sinh lý – xã hội, nhân
khẩu – nhân chủng học, dân tộc học và pháp lý, những cái có ý nghĩa, điều kiện
của tội phạm để có giải pháp phịng ngừa tội phạm phù hợp.
Như vậy, có thể kết luận rằng: Nhân thân người phạm tội là toàn bộ các đặc
điểm tự nhiên, xã hội của người phạm tội trong mối tương tác với những hoàn
cảnh, điều kiện nhất định dẫn đến việc con người thực hiện một hành vi mà pháp
luật hình sự gọi đó là tội phạm. Bao gồm: đặc điểm tự nhiên, đặc điểm xã hội, và
đặc điểm pháp lý hình sự. Các đặc điểm này của nhân thân người phạm tội chỉ bộc
lộ hoàn toàn khi một người đã thực hiện hành vi phạm tội.
Trên cơ sở khái niệm nhân thân người phạm tội nói chung có thể rút ra khái
niệm nhân thân người phạm tội giết người như sau: Nhân thân người phạm tội giết
người là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất của con người và
các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp với các điều kiện, hoàn cảnh nhất định đã dẫn
đến người đó thực hiện hành vi phạm tội giết người được quy định tại Điều 123
BLHS 2015.
2. Đặc điểm nhân thân người phạm tội giết người
2.1.
Đặc điểm sinh học
Tuổi
Thứ nhất, nhóm người chiếm tỷ lệ phạm tội cao nhất là nhóm người từ 18
đến 30 tuổi. Tương quan với các nhóm tuổi khác như: 14 đến 18; 30 đến 45; trên
45 thì nhóm người từ 18 đến 30 tuổi đều nhiều hơn hẳn các nhóm còn lại. Sở dĩ
nhân thân về tuổi của người phạm tội giết người có những đặc điểm trên là vì: Một
là, sự phát triển về thể chất, tâm sinh lý, nhận thức, kinh nghiệm khác nhau giữa
các độ tuổi mà trong đó độ tuổi từ 18 đến 30 là có sự phát triển mạnh mẽ nhất đồng
thời có nhiều biến động nhất. Từ 18 đến 30 tuổi là tuổi con người đang phát triển
và dần hoàn thiện về cả thể chất lẫn nhân cách. Đây là độ tuổi phát triển mạnh mẽ
và thể hiện bản ngã rõ nét nhất, chính vì vậy vừa dễ chịu tác động từ bên ngồi vào
và cũng dễ bộc lộ, bộ phát những yếu tố của bản thân ra bên ngoài mà hành vi hành
động là một trong những cách thể hiện. Trong độ tuổi này sẽ có sự thơi thúc mạnh
mẽ hành động, nếu là định hướng đúng sẽ hành động đúng, nếu nhận thức suy nghĩ
sai sẽ rất dễ hành động sai. Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ thì độ tuổi này cũng
chịu nhiều biến động. Những biến động đó có thể kể đến như sự thay đổi môi
trường sống, sự thay đổi về nhận thức, tư duy, sự thay đổi về cách nhìn nhân cuộc
sống… Khi chịu nhiều biến động và thay đổi liên tục như vậy mỗi người sẽ dễ bị
hoang mang, mất đi sự kiên định, vững vàng và rất dễ dàng hành động sai. Hai là,
đây là độ tuổi phải chịu nhiều áp lực nhất. Bên cạnh áp lực về việc phát triển, hoàn
thiện và thể hiện bản thân, tìm kiếm chỗ đứng của cái tơi trong xã hội thì độ tuổi
này cũng chịu nhiều áp lực về kinh tế, gia đình, xã hội. Mà một trong số đó là áp
lực về kinh tế khiến cho bản thân dễ nảy sinh những tâm lý tiêu cực cần giải toả.
Thứ hai, có sự chuyển dịch, thay đổi về nhóm người phạm tội cao nhất. Tội
phạm ngày càng được trẻ hóa, tội phạm giết người cũng vậy, diễn biến tội phạm
cho thấy nhóm người phạm tội dưới 18 tuổi ngày càng gia tăng. Lý do dẫn đến đặc
điểm này là do sự phát triển của xã hội cũng như là sự phát triển sớm của con
người. Ngày nay khi mà xã hội ngày càng phát triển, các phương tiện thiết bị ngày
càng phổ thơng, mọi nhà, mọi người đều có thể tiếp cân được và tiếp cận một cách
tự do dẫn đến việc những văn hóa phẩm tiêu cực rất dễ thâm nhập vào xã hội một
cách khó quản lý. Và với độ tuổi dưới 18 tuổi, khi chưa có đầy đủ kiến thức, kinh
nghiệm thì sẽ là đối tượng dễ bị tác động tiêu cực ảnh hưởng nhất. Cùng với sự
phát triển của xã hội thì mỗi cá nhân cũng phát triển sớm hơn, những tác động của
xã hội cũng làm mỗi cá nhân lớn-trước-tuổi dẫn đến những đặc điểm trước đây là ở
nhóm tuổi 18 đến 30 thì nay lại xuất hiện sớm ở nhóm tuổi dưới 18.
Giới tính
Thứ nhất, tỷ lệ nam giới phạm tội giết người lớn hơn nữ giới và tính chất
mức độ phạm tội của nam giới nguy hiểm hơn nữ giới. Sở dĩ nam giới có tỷ lệ
phạm tội cao hơn nữ giới và mức độ phạm tội nguy hiểm hơn nữ giới là vì nam
giới có thể chất phát triển hơn, sức khỏe tốt hơn. Ngồi ra do đặc điểm hóc mơn
nam giới có khí chất nóng nảy hơn nữ giới, tâm lý tiêu cực cũng vì thế mà dễ phát
sinh hơn nữ giới. Cùng với đó là việc nam giới phải chịu nhiều áp lực hơn nữ giới
nên cũng dễ nảy sinh tâm lý tiêu cực và phát sinh tội phạm.
Thứ hai, tội phạm giết người là nữ giới có xu hướng tăng. Sở dĩ tội phạm
giết người là nữ có xu hướng tăng là vì phụ nữ ngày càng tham gia nhiều hơn vào
đời sống xã hội, họ cũng chịu những tác động, áp lực giống như nam giới, đây là
một trong những nguyên nhân khiến tội phạm giết người là nữ có xu hướng tăng.
2.2.
Các đặc điểm xã hội
Trình độ văn hóa
Trong cùng nhóm lứa tuổi và giới tính, những người có trình hộ học vấn
thấp hơn có xu hướng phạm tội giết người cao hơn. Đối với tội giết người trình độ
học vấn chủ yếu là Trung học. Sở dĩ đặc điểm về trình độ văn hóa của tội phạm
giết người có đặc điểm như vậy là vì ở trình độ này, người phạm tội ý thức được
hành vi của mình là nguy hiểm nhưng chưa có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm để có
sự điều chỉnh hành vi đúng đắn cũng như chưa dự liệu được đầy đủ hậu quả do
hành vi của mình gây ra. Với trình độ này, sự bộc lộ ra bên ngoài thường là sự thể
hiện những gì bình thường nhất trong đời sống thường ngày chưa thể hiện được
văn hóa trong ứng xử cùng chưa thể hiện được phẩm chất, nhân cách của những
người có trình độ có kiến thức.
Địa vị xã hội, nghề nghiệp
Tội phạm giết người thường là những người không có nghề nghiệp hoặc có
nghề nghiệp khơng ổn định. Sở dĩ người có những đặc điểm này dễ nảy sinh tội
phạm giết người là vì những người khơng có nghề nghiệp hoặc có nghề nghiệp
khơng ổn định thường chịu nhiều sự biến đổi trong cuộc sống, tiếp xúc với nhiều
đối tượng nhiều môi trường và dễ bị tác động tiêu cực. Những người trong nhóm
này cũng chịu áp lực cuộc sống, kinh tế nhiều hơn, dễ nảy sinh tâm lý tiêu cực.
Đồng thời, những người nhóm này lại thường là những người có trình độ học vấn
Trung học, nhân thức, kinh nghiệm còn yếu kém nên dễ nảy sinh tội phạm.
Tội phạm giết người thường là những người thuộc nhóm địa vị thấp. Bởi lẽ
những người có địa vị cao họ có trình độ, có nhận thức, có sức mạnh xã hội, họ
thường ít phát sinh những tâm lý tiêu cực, ít chịu áp lực hơn. Đồng thời, với những
người có địa vị xã hội cao họ thường ít gặp tình huống phạm tội, nếu như cuộc
sống có những vấn đề, xích mích hay những trục trặc họ đều có những lựa chọn, có
những cách xử lý khác thay vì phạm tội. Ngược lại, người có địa vị thấp họ thường
sử dụng đến bạo lực, thường có tâm lý tiêu cực và dễ nảy sinh tội phạm giết người.
Hồn cảnh gia đình
Phần lớn tội phạm giết người xuất thân từ gia đình khơng hịa thuận, các
thành viên trong gia đình khơng quan tâm chăm sóc nhau, thiếu trách nhiệm với
nhau; kinh tế gia đình khó khăn. Trong một gia đình khơng hịa thuận, thiếu tình
cảm sự phát triển của cá nhân sẽ khơng được bình thường, dễ nảy sinh tâm lý tiêu
cực. Đối với gia đình có kinh tế khó khăn, các thành viên sẽ phải chịu áp lực về
kinh tế, khơng được học tập, khơng có trình độ văn hóa cao, khơng có nghề nghiệm
ổn định, khơng có địa vị xã hội dẫn đến nguy cơ phạm tội càng cao.
2.3.
Các đặc điểm tâm lý
Ý thức đạo đức
Những người phạm tội nói chung, phạm tội giết người nói riêng thường có ý
thức đạo đức hạn chế. Sở dĩ những người có ý thức đạo đức hạn chế có xu hướng
phạm tội cao hơn bởi vì bản thân họ không tuân thủ được những chuẩn mực đạo
đức như tơn trọng, hịa thuận, bao dung, vị tha… nên thay vì lựa chọn cách xử lý
khác họ chọn hành vi giết người. Và những người có đạo đức khơng tốt thường tạo
nên tình huống phạm tội, trong đó có tình huống phạm tội giết người.
Ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật bao gồm cả nhận thức về pháp luật và xử sự theo pháp luật.
Tội phạm giết người là những người có ý thức pháp luật rất hạn chế. Chính vì sự
hiểu biết hạn hẹp về pháp luật nên họ khơng nhìn thấy được hậu quả nặng nề mà
hành động giết người gây ra, họ chỉ cần biết thỏa mãn nhu cầu, động cơ của mình
lúc đó. Có những người có hiểu biết pháp luật nhưng vẫn cố tình vi phạm.
Nhu cầu, sở thích, thói quen
Đa số những người phạm tội giết người thường có thói quen sống lười lao
động, nhu cầu vật chất quá cao không phù hợp, khơng chính đáng, sở thích rượu
chè, cờ bạc… Chính vì những nhu cầu, sở thích, thói quen tiêu cực này dẫn đến
hình thành tâm lý các nhân tiêu cực dễ nảy sinh tội phạm.
II – VÍ DỤ THỰC TIỄN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI GIẾT
NGƯỜI
Bị cáo: Lê Văn Luyện
Sinh 18 tháng 10 năm 1993 (23 tuổi)
Quê quán: Thanh Lâm, Lục Nam, Bắc Giang.
Phạm tội: Giết người, cướp tài sản
Về đặc điểm sinh học:
- Giới tính: nam. Nam giới theo bản năng tự nhiên của mình ln thể hiện sự
phân tích và tính cạnh tranh nhiều hơn, trong khi đó phụ nữ giàu lòng trắc ẩn và
thiên về sự chăm chút tỉ mỉ cho những người xung quanh. Nhiều người thường
nghĩ rằng: nam giới với bản tính cạnh tranh và hiếu chiến hơn hẳn có tỉ lệ phạm tội
cao hơn phụ nữ. Điều này đúng ở Việt Nam. Song theo số liệu thống kê được đăng
trên tạp chí tâm lý của Tây Ban Nha (Spanish Journal of Psychology) cho thấy: nữ
ở tuổi vị thành niên và phụ nữ tuổi từ 25 - 33 tuổi có tỉ lệ phạm tội cao hơn nam
giới. Phần lớn các trường hợp phạm tội ở nữ giới có liên quan đến tình trạng cảm
xúc thái quá và các vấn đề mất kiểm soát cảm xúc ở phụ nữ.
- Độ tuổi phạm tội: Dưới 18 tuổi. Thời điểm có sự phát triển mạnh mẽ của cơ
thể cũng như thay đổi tâm sinh lý. Trường hợp Lê Văn Luyện do đi làm, tiêu tiền
sớm, sự thiếu quan tâm của gia đình cũng như ăn chơi cho nên đã khơng có sự giáo
dục và sự kìm hãm, ngăn cản cần thiết.
- Đặc điểm thể chất: Lê Văn Luyện có đơi lơng mày dùi đục (đầu lơng mày to,
ở giữa co thắt lại như cái chày giã cua). Những người có lơng mày to ngang, đen
sẫm, xương lông mày rõ với hai bờ cao bằng nhau ở giữa như Luyện từ tuổi trung
niên trở đi có thể lâm vào cảnh tù tội, anh em ly tán và bị hao hụt về tài sản. Những
người có đơi lơng mày như vậy, tính tình vừa hung hãn, vừa tàn bạo.
Về đặc điểm tâm lý:
- Về tính cách: biểu hiện ra ngoài của Lê Văn Luyện được mọi người cho là
hiền lành “thằng này nhìn thấy tiền rơi khơng biết nhặt”.
- Về xu hướng: Xa gia đình, khơng có người giáo dục quản lý, định hướng
hành vi, nên từ suy nghĩ, nhận thức đến hành vi của Luyện đã bị phát triển lệch lạc,
cái tốt cái xấu lẫn lộn khơng có sự phân biệt rõ ràng, dẫn đến những hành vi nông
nổi, bột phát nguy hiểm.
Về đặc điểm xã hội:
- Bố mẹ Luyện làm nghề mổ lợn, với đặc thù của nghề này, Luyện đã quen
với cảnh máu me và có thể chịu đựng tiếng kêu thảm thiết của con vật khi bị giết
thịt.
- Bố mẹ mải làm kinh tế, không dạy dỗ con cái đến nơi đến chốn nên vào năm
lớp 9, Luyện bắt đầu sa đà vào việc tụ tập bạn bè, đua đòi lêu lổng, học lực và hạnh
kiểm đều ở mức trung bình nên hết năm lớp 9, Luyện bỏ học giữa chừng. Việc bỏ
học bị bố mẹ Luyện bỏ qua, để Luyện tiếp xúc sớm với xã hội. Luyện đi làm thế
nào, kiếm được bao nhiêu tiền, sinh sống ra sao, quan hệ với ai, gia đình Luyện
đều khơng biết.
“Chỗ nước lặng khơng phải là chỗ nước không sâu”. Con người ta đứng trước
một mối lợi rất lớn và nghĩ là an toàn khi chiếm mối lợi ấy thì máu tham nổi lên.
Nhất là nghi phạm lại sinh ra trong một gia đình làm nghề mổ lợn quen buôn bán
và quen với máu me.
III – GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM GIẾT NGƯỜI
Từ những ln điểm đã được phân tích trên đây, nhóm xin đưa ra một số giải
pháp nhằm phòng ngừa tội phạm giết người xảy ra trên thực tế như sau:
Một là, tăng cường phối hợp để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật cho quần chúng nhân dân:
Các ban, ngành, đoàn thể, cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh tuyên
truyền về giá trị đạo đức truyền thống gia đình, xóm làng, truyền thống dân
tộc...định hướng người dân nhất là đối với tầng lớp thanh niên ứng xửphù hợp đạo
đức truyền thống của người Việt Nam, lên án những hành vi ứng xử thiếu văn hóa,
vi phạm pháp luật; tuyên truyền sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân về chủ trương
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong cơng tác phịng ngừa, đấu
tranh tội phạm nói chung trong đó có tội phạm giết người.
Mở rộng hình thức tun truyền: Thơng qua phương tiện thơng tin đại chúng
(cần có những chương trình truyền hình tuyên truyền về quy định của pháp luật đối
với tội phạm nói chung cũng như tội giết người nói riêng, các tội phạm giết người
hiện nay, ...); thơng qua báo chí đời sống hằng ngày; … Khơng những thế, cần phải
có các biện pháp ngăn chặn những thông tin gây phẫn nộ, thúc đẩy con người
phạm tội trên internet, … Ngồi ra, cần có những biện pháp tuyên truyền tác động
đến trẻ vị thành niên, đối tượng đang ngày càng có tỉ lệ phạm tội cao. Cụ thể, ở địa
phương thì các cơ quan chức năng, tổ chức ở địa phương cần có biện pháp tuyên
truyền với các gia đình nói chung cũng như đến các trẻ vị thành niên nói riêng; ở
mơi trường học đường cũng cần có những hình thức tun truyền, tác động đến
học sinh, sinh viên về vấn đề tội phạm nói chung và tội phạm giết người nói riêng
để ngay lứa tuổi này thì trẻ vị thành niên đã có kiến thức cơ bản về vấn đề này,
tăng cường giáo dục đạo đức và ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh, sinh
viên; phối hợp với cơ quan chức năng tổ chức các buổi tuyên truyền trực tiếp đến
học sinh, sinh viên nhất là học sinh Trung học phổ thông;tổ chức cho học sinh ký
cam kết không vi phạm pháp luật, chấp hành nghiêm pháp luật thơng qua đó có thể
hạn chế được tội phạm giết người
Cần tuyên truyền các luật liên quan để mọi người có kiến thức để giải quyết
trong những vụ tranh chấp, thay vì những mâu thuẫn xuất phát từ việc khơng giải
quyết được tranh chấp sẽ dẫn đến nhiều hơn việc trả thù, gây thù hằn. Chính vì thế,
cần tun truyền: Luật đất đai, luật dân sự, luật khiếu nại tố cáo, phịng chống bạo
lực trong học đường, gia đình... Từ đó, giúp quần chúng nhân dân nâng cao nhận
thức và phòng ngừa tội phạm.
Củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của Tổ hòa giải, Trung tâm trợ giúp
pháp lý để phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với từng đối
tượng.
Không những thế, cần thiết hơn và quan trọng hơn nữa là tăng cường tuyên
truyền nêu những gương người tốt, việc tốt; hạn chế đến mức thấp nhất tuyên
truyền gây ra tác hại tiêu cực nhất là bạo lực. Thực tế, trong xã hội hiện nay thì
những gương người tốt, việc tốt khơng được quan tâm nhiều như đối với những
vấn đề về tội phạm và bức xúc (xuất phát từ đặc điểm tâm lý của con người).
Chính vì thế, cần thiết hơn nữa việc noi gương nhiều hơn người tốt việc tốt.
Tăng cường hơn nữa công tác phối hợp để xét xử lưu động các vụ án giết
người nhằm tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong quần chúng nhân dân.
Hai là, tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các tranh chấp,
khiếu kiện và hịa giải cơ sở:
Chính quyền địa phương, các tổ chức đồn thể cần chú trọng tăng cường
cơng tác hòa giải tại cơ sở, kịp thời phát hiện giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ
quần chúng nhân dân nhất là mâu thuẫn về tranh chấp đất đai, vay mượn tài sản...
không để xảy ra các mâu thuẫn bức xúc, kéo dài dẫn đến giải quyết mâu thuẫn
bằng bạo lực; củng cố và phát huy tinh thần đoàn kết, văn hóa, trách nhiệm trong
cộng đồng dân cư gắn với phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, tích cực
vận động nhân dân tham gia tố giác tội phạm.
Ba là, Ủy ban nhân dân các huyện (quận), tỉnh (thành phố) cần quan tâm chỉ
đạo thực hiện tốt công tác hịa giải tại cơ sở; tăng cường cơng tác quản lý, kiểm tra
các ngành nghề kinh doanh có điều kiện đối với các lĩnh vực nhạy cảm như trò
chơi điện tử, dịch vụ karaoke, cầm đồ trên địa bàn; kịp thời phát hiện và xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm có liên quan đến tình hình an ninh trật tự; khen thưởng
cá nhân, tập thể làm tốt công tác quản lý, giáo dục những người có hành vi vi phạm
pháp luật và cơng tác hịa giải tại cơ sở.
Bốn là, Công an các cấp cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhà nước
về an ninh trật tự. Cần có biện pháp kiểm tra cụ thể hơn đối với các địa điểm có
mật độ cao và có xu hướng tội phạm giết người tăng (các quán nhậu, các vũ
trường, quán bar, …) vì ở những nơi này những nguyên nhân gia tăng tội phạm
giết người cao hơn so với các địa điểm khác. Công tác quản lý vũ khí, vật liệu nổ
và cơng cụ hỗ trợ; chỉ đạo các đơn vị thường xuyên, chủ động phối hợp với chính
quyền cùng cấp nắm tình hình, phát hiện các mâu thuẫn là nguyên nhân có thể dẫn
đến tội phạm giết người để có biện pháp xử lý, giáo dục, phòng ngừa.
Năm là, các cơ quan tiến hành tố tụng cần tăng cường phối hợp trong công
tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án giết người; xử lý nghiêm minh, kịp
thời các đối tượng phạm tội có hành vi cơn đồ, tội phạm có tổ chức, các băng nhóm
hoạt động theo kiểu “xã hội đen”. Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả phịng ngừa
tội phạm nói chung và tội phạm giết người nói riêng trong thời gian tới.