Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tóm tắt bài viết Nhận thức và áp dụng án lệ - nhìn từ phán quyết Bosman và gợi mở cho Việt Nam, so sánh, nêu quan điểm về án lệ tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.22 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU...................................................................................3
B. NỘI DUNG...............................................................................3
I. Tóm tắt bài viết “Nhận thức và áp dụng án lệ - nhìn từ phán
quyết Bosman và gợi mở cho Việt Nam” của tác giả Phạm Vĩnh
Hà................................................................................................. 3
II. So sánh quan điểm của tác giả với những tri thức về án lệ được
học trong môn Lý luận chung về nhà nước và pháp luật...............5
2.1. Điểm giống nhau................................................................6
2.2. Điểm khác nhau.................................................................6
III. Quan điểm cá nhân về án lệ ở Việt Nam theo quy định tại
Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao.......................................................................7
C. KẾT LUẬN.............................................................................. 9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................10

2


A. MỞ ĐẦU
Tiền lệ pháp (hay án lệ) từ lâu đã được coi là một loại nguồn
quan trọng của pháp luật, cung cấp căn cứ pháp lý cho các chủ thể
để thực hiện hành vi thực tế. Tại Việt Nam, án lệ vẫn cịn khá mới
mẻ khi chỉ chính thức được thừa nhận là một loại nguồn pháp luật
từ năm 2014, nhưng đã thu hút được nhiều sự quan tâm và nghiên
cứu của các học giả. Trong bài viết “Nhận thức và áp dụng án lệ nhìn từ phán quyết Bosman và gợi mở cho Việt Nam”, tác giả Phạm
Vĩnh Hà đã trích lại phán quyết Bosman- một án lệ điển hình trên
thế giới, lý giải sự thành cơng của phán quyết này và liên hệ gợi mở
về mặt nhận thức và áp dụng án lệ ở Việt Nam hiện nay. Với tính
chất quan trọng và thiết thực của vấn đề cả về mặt lý luận và thực
tiễn, bài tiểu luận xin được tóm tắt bài viết trên của tác giả Phạm


Vĩnh Hà, qua đó so sánh quan điểm của tác giả với những tri thức
về án lệ được học trong bộ môn Lý luận chung về nhà nước và pháp
luật, đồng thời nêu quan điểm cá nhân về án lệ ở Việt Nam theo quy
định tại Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao, ban hành ngày 28/10/2015.
B. NỘI DUNG
I. Tóm tắt bài viết “Nhận thức và áp dụng án lệ - nhìn từ
phán quyết Bosman và gợi mở cho Việt Nam” của tác giả Phạm
Vĩnh Hà
3


Phán quyết Bosman là một phán quyết được công bố bởi Tịa
án cơng lý châu Âu (ECJ) ngày 15/12/1995, liên quan đến vụ kiện
nổi tiếng giữa cầu thủ bóng đá Bỉ Jean-Marc Bosman với Liên đồn
bóng đá Bỉ, câu lạc bộ R.F.C de Liège (sau đây gọi tắt là CLB
Liege) và Liên đồn bóng đá châu Âu (UEFA).
Vụ kiện bắt đầu từ việc bản hợp đồng giữa Bosman với CLB
Liege hết hạn vào tháng 6/1990, và Bosman không muốn ký kết hợp
đồng mới do mức lương thỏa thuận bị giảm đáng kể. Sau đó, mức
phí chuyển nhượng mà CLB đưa ra q cao và vơ lý, trong đó bao
gồm cả phí đào tạo cầu thủ, khiến anh khơng thể đầu quân được cho
CLB nào khác. Ngày 6/10/1993, Bosman kiện cả Liege, Liên đồn
bóng đá Bỉ lẫn UEFA ra Tịa án Công lý châu Âu.
Sau 5 năm, Bosman được xử thắng kiện với phán quyết gồm 3
điểm:
“1. Điều 48 của Hiệp ước EEC loại trừ việc áp dụng các quy
tắc được đặt ra bởi các Liên đoàn thể thao mà theo đó, một cầu thủ
bóng đá chun nghiệp là cơng dân của một quốc gia thành viên khi
đáo hạn hợp đồng với một câu lạc bộ không thể đầu quân cho một

câu lạc bộ khác thuộc một quốc gia thành viên khác nếu câu lạc bộ
sau không trả cho câu lạc bộ trước một khoản phí chuyển nhượng,
đào tạo và phát triển cầu thủ.
2. Điều 48 của Hiệp ước EEC loại trừ việc áp dụng các quy
tắc được đặt ra bởi các Liên đồn thể thao mà theo đó, trong những
trận đấu thuộc các giải đấu mà họ tổ chức, các CLB bóng đá chỉ

4


được phép đưa ra sân một số lượng nhất định các cầu thủ chuyên
nghiệp mang quốc tịch của các quốc gia thành viên khác.
3. Hiệu lực trực tiếp của Điều 48 Hiệp ước EEC không thể
được dựa vào để phục vụ cho việc đưa ra những yêu cầu liên quan
đến một khoản phí về chuyển nhượng, đào tạo và phát triển mà đã
được thanh toán hoặc vẫn phải thanh toán theo một nghĩa vụ phát
sinh từ trước ngày ra phán quyết này, trừ trường hợp những người
đã tiến hành những thủ tục tố tụng tại tòa hoặc đưa ra một yêu cầu
tương đương theo luật áp dụng của quốc gia trước ngày đó.”
Phán quyết Bosman được cho là một thành cơng rất lớn, tạo ra
cuộc cách mạng trong tồn bộ hệ thống chuyển nhượng cầu thủ ở
châu Âu bởi nhiều yếu tố. Thứ nhất, phán quyết Bosman có phạm
vi áp dụng rất rộng. Trong nội dung phán quyết, Tòa án chỉ nhắc
đến các đối tượng chung như “các liên đoàn thể thao”, “các CLB
bóng đá”, “các vận động viên chuyên nghiệp”, biến bản án Bosman,
vốn là một phán quyết mang tính cá biệt, trở thành quy phạm chung.
Thứ hai, phán quyết Bosman vừa mang tính giải thích, vừa tạo ra
quy phạm. Trong phán quyết Bosman, các thẩm phán đã khéo léo
giải thích các quy định của Hiệp ước Cộng đồng châu Âu mà trọng
tâm là Điều 48 và áp dụng chúng vào lĩnh vực thể thao. Đồng thời,

Tòa đã tạo ra một quy phạm ngầm định, được hiểu là: “Các liên
đồn thể thao khơng được đặt ra các luật lệ hạn chế quyền tự do lao
động và di chuyển của các vận động viên mà trái với các quy tắc
chung của Hiệp ước Cộng đồng châu Âu”. Thứ ba, án lệ Bosman
được sử dụng chủ yếu trong giai đoạn tiền tố tụng. Với tính chất
5


bắt buộc và mức độ nổi tiếng, phán quyết Bosman được các CLB và
cầu thủ biết đến và tuân thủ gần như một đạo luật thành văn của cơ
quan lập pháp. Các bên đều nhận thức rõ được những lợi thế và bất
lợi của mình để giải quyết những tranh chấp tương tự trong nội bộ
với nhau, không muốn đưa ra trước tịa.
Từ sự thành cơng của phán quyết Bosman, tác giả cho rằng
cần có sự nhận thức và áp dụng án lệ một cách đúng đắn ở Việt
Nam. Một là, nên xem xét khả năng thừa nhận những án lệ tạo
ra quy phạm mới. Hiện nay ở Việt Nam chỉ có loại án lệ giải thích
các quy phạm pháp luật còn thiếu tường minh, tuy cần thiết song là
chưa đủ để lấp đầy những lỗ hổng của pháp luật thành văn. Hai là,
cần nhìn nhận lại một số ưu, nhược điểm của án lệ. Về ưu điểm,
án lệ ít chịu sự phụ thuộc về yếu tố thời gian và với tính linh hoạt
vốn có, hiệu lực của nó có thể được mở rộng về phạm vi không
gian, cũng như về đối tượng tác động khi được tiếp tục phát triển
bởi các án lệ khác. Về nhược điểm, án lệ dễ dẫn đến sự tùy tiện của
tòa án và nguy cơ tòa án lấn quyền nghị viện, đặc biệt là với loại án
lệ tạo ra quy phạm mới. Ba là, cần xác định rõ đâu là nội dung án
lệ và trình bày nội dung đó một cách trung thực nhất. Thay vì xây
dựng án lệ gồm hai phần “nội dung án lệ” và “khái quát nội dung án
lệ” như hiện nay với nhiều hạn chế về cách trình bày cũng như hạn
chế của chủ thể thực hiện là Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân

tối cao, tác giả cho rằng chúng ta có thể sử dụng cách thức đơn giản
như phán quyết Bosman: Đăng tải toàn văn phán quyết, chỉ bổ sung
thêm từ khóa và ký hiệu nhận dạng án lệ. Bốn là, cần tận dụng sức
6


mạnh truyền thông trong việc hỗ trợ đưa án lệ vào đời sống. Ở
Việt Nam, do số lượng án lệ được cơng bố trong mỗi đợt là khá ít và
tần suất cũng khơng nhiều, nên chúng ta hồn tồn có điều kiện về
thời gian để đào sâu vào ý nghĩa của từng án lệ và giới thiệu những
nội dung này đến người dân thông qua các kênh báo đài, diễn đàn
khoa học.
II. So sánh quan điểm của tác giả với những tri thức về án
lệ được học trong môn Lý luận chung về nhà nước và pháp luật
Dưới góc độ của một nhà nghiên cứu pháp luật, nhìn án lệ
trong mối quan hệ với phán quyết Bosman, tác giả Phạm Vĩnh Hà
đã đưa ra những quan điểm vừa giống với kiến thức phổ thông trong
bộ môn Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, vừa có những
điểm khác biệt nhất định.
2.1. Điểm giống nhau
Về nguồn gốc hình thành án lệ, tác giả cùng cho rằng đó là từ
những bản án, quyết định của chủ thể có thẩm quyền (thường là
thẩm phán Tòa án tối cao) khi giải quyết các vụ việc cụ thể trong
thực tế cuộc sống, được nhà nước thừa nhận có chứa đựng khn
mẫu để giải quyết các vụ việc tương tự về sau, nếu thẩm phán hoặc
luật sư chứng minh được tính chất tương tự.
Về vai trò của án lệ đối với pháp luật, tác giả cũng thừa nhận
đó là một loại nguồn quan trọng của pháp luật. Tức là án lệ cung cấp
những căn cứ pháp lý để chủ thể có thẩm quyền thực hiện hành vi
thực tế, bổ sung cho pháp luật trong những trường hợp pháp luật

chưa quy định hoặc không thể chạm tới. Thậm chí ở các nước như
7


Anh, Mỹ, án lệ cịn có vị trí cao hơn, được coi trọng hơn văn bản
quy phạm pháp luật.
2.2. Điểm khác nhau
Về phân loại án lệ, theo lý thuyết cho rằng có hai loại án lệ:
một là án lệ tạo ra quy phạm pháp luật, do thẩm phán tạo ra trong
quá trình giải quyết vụ việc; hai là án lệ giải thích các quy phạm
thành văn mà cịn mập mờ chưa rõ nghĩa, thẩm phán chỉ có quyền
giải thích mà không được phép tạo ra quy phạm mới. Tuy nhiên, tác
giả Phạm Vĩnh Hà có phần khơng đồng tình với lý thuyết này bằng
việc lý giải phán quyết Bosman như một loại án lệ đặc biệt: vừa là
án lệ giải thích, vừa là án lệ tạo ra quy phạm pháp luật.
Về ưu điểm của án lệ, theo lý thuyết từ bộ môn Lý luận chung
về nhà nước và pháp luật, ưu điểm này được xét trong việc xây
dựng và áp dụng án lệ. Cụ thể, vì án lệ bắt nguồn từ thực tế cuộc
sống, từ những vụ việc cụ thể được chủ thể có thẩm quyền giải
quyết trên cơ sở khách quan, công bằng, tôn trọng lẽ phải nên việc
xây dựng án lệ khơng tốn nhiều chi phí, dễ xác định và án lệ cũng
dễ dàng được xã hội chấp nhận, áp dụng. Ở một góc độ khai thác
khác, tác giả Phạm Vĩnh Hà lại nêu ra những ưu điểm của án lệ
trong mối tương quan với hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật.
Cụ thể, án lệ ít chịu sự phụ thuộc về yếu tố thời gian, có thể được
mở rộng về phạm vi không gian, cũng như về đối tượng tác động
khi được tiếp tục phát triển bởi các án lệ khác.
Về hạn chế của án lệ, tác giả cũng có ý cho rằng một trong
những hạn chế của án lệ là dễ dẫn tới sự tùy tiện của tòa án và nguy
8



cơ lấn quyền của nghị viện. Tuy nhiên quan điểm của ông là không
nên xem điều này như một yếu tố tiêu cực nếu những quy phạm
được tạo ra từ hệ quả của án lệ được các chủ thể tôn trọng và thực
hiện một cách tự giác trong đời sống xã hội.
Về cách thức áp dụng án lệ, từ việc nhận thức về phán quyết
Bosman trong thực tế, tác giả nêu quan điểm rằng án lệ không chỉ
được áp dụng khi vụ việc đã được đưa ra tòa án, với chủ thể áp dụng
là thẩm phán, mà án lệ còn có thể được áp dụng trong giai đoạn tiền
tố tụng. Khi đó, các bên biết được lợi thế và bất lợi của mình mà tự
có được giải pháp phù hợp. Hệ quả này có thể được xem như một
điểm rất đặc biệt của án lệ trong điều chỉnh các quan hệ xã hội, đặc
biệt khi đó là các án lệ có tính phổ biến, tính khn mẫu cực kỳ cao
và có phần phán quyết rõ ràng, cụ thể.
III. Quan điểm cá nhân về án lệ ở Việt Nam theo quy định
tại Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao
Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao đã nêu rõ về quy trình lựa chọn, cơng bố và
áp dụng án lệ. “Đây chính là cơ sở pháp lý cụ thể nhất để các chủ
thể có thẩm quyền có thể xây dựng và đưa án lệ vào sử dụng trong
thực tiễn cuộc sống”1. Với nghị quyết này, các án lệ một khi được
cơng nhận cũng sẽ có tính thống nhất về nội dung và hình thức thể
hiện, qua đó nâng cao chất lượng án lệ.

1 Trần Thị Quyên (2016), Án lệ ở Việt Nam hiện nay – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn

thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 33.


9


Về khái niệm án lệ và giá trị pháp lý của án lệ được nêu tại
Điều 1: “Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án”. Như
vậy có thể thấy, án lệ ở đây được xét với tư cách là quy phạm nhiều
hơn so với tư cách là một loại nguồn chứa đựng căn cứ pháp lý (khi
đó án lệ là những bản án). Điều này về cơ bản khơng ảnh hưởng
nhiều tới ý nghĩa và vai trị của án lệ, nhưng nên có những quy định
cụ thể hơn để có thể khiến án lệ thực sự trở thành một loại nguồn
quan trọng của pháp luật Việt Nam trong tương lai.
Về tiêu chí lựa chọn án lệ được nêu tại Điều 2, có một số vấn
đề cần được bàn luận như sau. Một là, án lệ ở Việt Nam được bó
hẹp lại là án lệ giải thích các quy định của pháp luật cịn có cách
hiểu khác nhau, khơng có loại án lệ tạo ra quy phạm mới. Điều này
xuất phát một phần từ truyền thống coi trọng pháp luật thành văn
của Việt Nam, và như đã nói ở các phần trước, điều này là khơng đủ
để có thể xóa bỏ những lỗ hổng trong pháp luật thành văn. Hai là,
từ tiêu chí này có thể thấy Việt Nam đã kế thừa nguyên tắc cơ bản
và quan trọng nhất khi áp dụng án lệ của hệ thống luật pháp
Common Law, đó là nguyên tắc “Stare decisis”: Hai vụ việc với các
tình tiết chính tương tự nhau sẽ phải có kết quả xét xử như nhau.
Mặt khác, cần có quy định rõ hơn về “tính chuẩn mực” của án lệ,
nếu không sẽ dễ dẫn đến sự thiếu thống nhất trong khâu rà sốt bởi
mỗi người sẽ có quan niệm khác nhau về chuẩn mực. Ba là, để đảm
bảo có nhiều án lệ đáp ứng được các tiêu chí trên thì năng lực của
thẩm phán phải được đảm bảo và coi trọng. Bởi lẽ, “để có được
những án lệ có giá trị bắt buộc đòi hỏi các thẩm phán phải có trình
10



độ cao, có khả năng phân tích, đánh giá các bản án, các lập luận của
luật sư.”2 Trong khi đó, thực tế hiện nay cho thấy ở Việt Nam còn
tồn tại nhiều vụ án bị xét xử sai trái, bị kháng cáo nhiều do lỗi chủ
quan của thẩm phán, đặt ra yêu cầu cấp thiết trong việc đào tạo và
tuyển chọn đội ngũ thẩm phán để có thể thực sự đưa án lệ vào đời
sống.
Về rà soát, phát hiện bản án, quyết định để đề xuất phát triển
thành án lệ tại Điều 3, án lệ theo nguyên tắc chỉ do các Tòa án cấp
cao đề xuất. Tuy nhiên ở đây nghị quyết quy định các cá nhân, cơ
quan, tổ chức cũng có thể gửi đề xuất lựa chọn bản án để phát triển
thành án lệ. Điều này nhằm đảm bảo khơng bỏ sót bất cứ bản án nào
đủ tiêu chuẩn thành án lệ trong thực tế cuộc sống, tạo điều kiện để
phát triển án lệ về số lượng, đồng thời mở rộng quyền tham gia xây
dựng, đóng góp ý kiến về luật pháp của mọi người.
Về quy trình lấy ý kiến và thông qua án lệ được quy định tại
Điều 4, Điều 5 và Điều 6, có thể thấy đó là một quy trình hết sức
chặt chẽ và hợp lý. Theo đó, thời gian lấy ý kiến từ 3 tháng; chủ thể
có thẩm quyền được tổ chức lấy ý kiến là Vụ Pháp chế và Quản lý
khoa học Toà án nhân dân tối cao, Hội đồng tư vấn án lệ; người
tham gia góp ý đều là những người có năng lực, có trình độ về pháp
luật như: đại biểu Quốc hội, các chuyên gia, nhà khoa học, các nhà
hoạt động thực tiễn,... Việc qua nhiều bước lấy ý kiến giúp đảm bảo
chất lượng của án lệ, sao cho nó thực sự là một chuẩn mực để sau
này có thể áp dụng phổ biến trong giải quyết các vụ án. Hơn nữa,
2 Dương Bích Ngọc, Lê Thị Thúy (2009), “Vấn đề áp dụng án lệ ở Việt Nam”, Luật học, (05), tr.

43.

11



việc thông qua án lệ theo nguyên tắc biểu quyết quá bán của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cho thấy tầm quan trọng
của án lệ là rất lớn, cần phải có sự đồng thuận của đại đa số.
Về việc công bố án lệ quy định tại Điều 7, có thể thấy án lệ ở
Việt Nam chưa có cơ chế phổ biến rộng rãi đến mọi người. Tuy có
được đăng trên Tạp chí Tồ án nhân dân, Cổng thơng tin điện tử Tịa
án nhân dân tối cao, nhưng như vậy là chưa đủ vì đa số người dân
thường ít khi truy cập, tìm đến những nguồn tài liệu đó, trừ những
người theo chuyên ngành luật. Như vậy vơ hình chung ta đã kìm
hãm việc phổ biến án lệ vào đời sống xã hội, khiến án lệ dù bắt
nguồn từ thực tế đời sống song lại không điều chỉnh được nhận thức
và hành vi của tất cả mọi người một cách hiệu quả.
Tóm lại, qua Nghị quyết ta có thể thấy án lệ tại Việt Nam bước
đầu đã được nhìn nhận một cách đúng đắn, vừa có sự tiếp thu những
quy định của các nước trên thế giới về án lệ, vừa có những thay đổi,
điều chỉnh phù hợp với điều kiện riêng của nước ta. Nhưng bên
cạnh đó, án lệ vẫn cịn những hạn chế đặc biệt trong việc quy định
vai trị và việc cơng bố, phổ biến án lệ, địi hỏi trong thời gian tới
cần có sự sửa đổi hợp lý để từng bước đưa việc xây dựng và áp
dụng án lệ đi vào ổn định.
C. KẾT LUẬN
Có thể nói, án lệ địi hỏi sự nghiên cứu rất rộng và toàn diện.
Trong phạm vi nhất định, bài tiểu luận đã trình bày tóm tắt một
trong những bài viết tiêu biểu về án lệ của tác giả Phạm Vĩnh Hà đó
12


là “Nhận thức và áp dụng án lệ - nhìn từ phán quyết Bosman và gợi

mở cho Việt Nam”. Qua đó, những quan điểm của tác giả đã được
rút ra trong mối tương quan so sánh với các tri thức phổ thông về án
lệ trong bộ môn Lý luận chung về nhà nước và pháp luật. Đồng
thời, Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao cũng đã đặt ra cho người viết nhiều vấn đề
cần bàn luận. Từ đó, mỗi người chúng ta nên trang bị cho mình
nhận thức đúng đắn về án lệ - một loại nguồn ngày càng trở nên
quan trọng trong pháp luật Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói
chung.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản pháp luật
1. Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao.
II. Giáo trình, tạp chí, luận văn
1. Phạm Vĩnh Hà (2017), “Nhận thức và áp dụng án lệ - Nhìn
từ phán quyết Bosman và gợi mở cho Việt Nam”, Nhà nước
và Pháp luật, (05), tr. 3 – 9, 25.
2. Dương Bích Ngọc, Lê Thị Thúy (2009), “Vấn đề áp dụng án
lệ ở Việt Nam”, Luật học, (05), tr. 37 – 44, 64.
3. Trần Thị Quyên (2016), Án lệ ở Việt Nam hiện nay – Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội.
4. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Lý luân
chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

13




×