TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
BỘ MÔN GÂY MÊ HỒI SỨC
Ọ
C
Chủ biên: GS.TS. Nguyễn Hữu Tú
BẢ
N
Y
H
BÀI GIẢNG
GÂY MÊ HỒI SỨC CƠ SỞ
(Giáo trình dùng cho sinh viên hệ bác sĩ)
N
H
À
XU
ẤT
Tái bản lần thứ nhất có sửa chữa và bổ sung
NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC
HÀ NỘI - 2020
Chủ biên:
GS.TS. Nguyễn Hữu Tú
Tham gia biên soạn:
GS.TS. Nguyễn Hữu Tú
PGS.TS. Trịnh Văn Đồng
C
TS. Cao Thị Anh Đào
TS. Nguyễn Toàn Thắng
Ọ
TS. Nguyễn Đức Lam
H
TS. Phạm Quang Minh
TS. Vũ Hoàng Phương
Y
PGS.TS. Nguyễn Trung Kiên
ThS. Nguyễn Thị Thanh Hoa
ThS. Bùi Minh Huệ
ThS. Nguyễn Bá Tuân
ThS. Tạ Minh Hiền
Thư ký:
XU
ThS. Phan Thùy Chi
ẤT
ThS. Trịnh Thu Huyền
N
H
À
ThS.BS. Nguyễn Ngọc Diệp
2
BẢ
N
ThS. Tạ Ngân Giang
LỜI NÓI ĐẦU
Gây mê hồi sức là một chuyên ngành sâu có liên quan trực tiếp đến hầu hết các
chuyên ngành và lĩnh vực của y học có hoặc khơng có phẫu thuật như Ngoại khoa, Sản
khoa, Nhi khoa, Ung thư, Răng Hàm Mặt, Tai Mũi Họng, Mắt…
Ọ
C
Môn học Gây mê hồi sức sẽ cung cấp cho sinh viên y khoa những kiến thức và kỹ
năng cơ bản liên quan đến vơ cảm và an tồn cho bệnh nhân phải phẫu thuật nói chung,
thực hiện cấp cứu ban đầu cho một bệnh nhân chấn thương hoặc tiến hành chống đau cơ
bản cho bệnh nhân có đau cấp và mạn tính. Trên thế giới, gây mê hồi sức được giảng
dạy trong trường đại học y như một môn học hoặc lồng ghép trong module chung liên
quan đến ngoại khoa hoặc cấp cứu và hồi sức.
Y
H
Nhằm cung cấp cho sinh viên y khoa những kiến thức và kỹ năng cơ bản trong lĩnh
vực Gây mê hồi sức, giúp sinh viên khi ra trường có thể thực hiện đúng và hiệu quả một
số tình huống cấp cứu ban đầu, có nền tảng để tiếp tục học tốt hơn các chuyên ngành
liên quan khác, chúng tôi biên soạn và giới thiệu cuốn sách Bài giảng gây mê hồi sức
cơ sở. Cuốn sách gồm 20 bài giảng được chia thành hai phần:
BẢ
N
Phần 1: 10 bài lý thuyết cơ bản về gây mê hồi sức
Phần 2: 10 bài thực hành tiền lâm sàng và lâm sàng
ẤT
Cuốn sách được biên soạn bởi các giảng viên có nhiều năm kinh nghiệm của Bộ
môn Gây mê hồi sức, Đại học Y Hà Nội. Chúng tôi hy vọng cuốn sách sẽ là tài liệu
tham khảo cần thiết và hữu ích cho sinh viên đa khoa và sinh viên một số chuyên
ngành khác.
Thay mặt nhóm tác giả
GS.TS. Nguyễn Hữu Tú
Trưởng Bộ môn Gây mê hồi sức, Đại học Y Hà Nội
N
H
À
XU
Cuốn sách được xuất bản đầu tiên vào năm 2017. Trong lần tái bản này chúng tôi
đã cố gắng sửa chữa, bổ sung một số nội dung để hoàn chỉnh hơn cuốn sách. Chúng tôi
xin trân trọng cảm ơn và chờ đợi các ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp, các thầy cơ
và sinh viên để có thể hồn thiện hơn trong những lần tái bản sau.
3
4
À
H
N
ẤT
XU
BẢ
N
Y
Ọ
H
C
MỤC LỤC
PHẦN I. LÝ THUYẾT ................................................................................................... 7
Lịch sử của ngành Gây mê hồi sức ................................................................................... 8
GS.TS. Nguyễn Hữu Tú
Chuẩn bị bệnh nhân trước phẫu thuật ............................................................................. 17
C
ThS. Tạ Ngân Giang, GS.TS. Nguyễn Hữu Tú
Ọ
Thuốc mê tĩnh mạch ........................................................................................................ 30
H
TS. Phạm Quang Minh, PGS.TS. Trịnh Văn Đồng
Thuốc giảm đau họ morphin .......................................................................................... 44
Y
TS. Vũ Hoàng Phương, PGS.TS. Trịnh Văn Đồng
TS. Nguyễn Toàn Thắng
BẢ
N
Thuốc giãn cơ.................................................................................................................. 52
Thuốc tê và các phương pháp gây tê ............................................................................... 62
ThS. Tạ Ngân Giang, GS.TS. Nguyễn Hữu Tú
Gây mê toàn thân ............................................................................................................ 79
ẤT
TS. Cao Thị Anh Đào
Cấp cứu sốc chấn thương ................................................................................................ 87
GS.TS. Nguyễn Hữu Tú
XU
Các nguyên tắc cấp cứu và hồi sức bệnh nhân chấn thương.......................................... 97
GS.TS. Nguyễn Hữu Tú
Chống đau cấp tính ....................................................................................................... 108
À
ThS. Nguyễn Thị Thanh Hoa, PGS.TS. Nguyễn Trung Kiên
H
PHẦN II. THỰC HÀNH ............................................................................................ 119
N
Bảng kiểm cho bệnh nhân phẫu thuật ........................................................................... 120
ThS. Trịnh Thu Huyền
5
Đánh giá và tiên lượng kiểm sốt đường thở khó ......................................................... 127
ThS. Bùi Minh Huệ
Các phương pháp vô cảm cơ bản để phẫu thuật ........................................................... 135
ThS. Nguyễn Bá Tuân
Đăt đường truyền tĩnh mạch ......................................................................................... 145
ThS. Trịnh Thu Huyền
Kỹ năng đặt nội khí quản ở người lớn .......................................................................... 154
ThS. Nguyễn Thị Thanh Hoa
C
Kỹ năng đặt mask thanh quản ....................................................................................... 160
Ọ
ThS. Nguyễn Thị Thanh Hoa
H
Kỹ năng thơng khí nhân tạo qua mask mặt ................................................................... 165
TS. Nguyễn Đức Lam
Y
Dịch truyền tĩnh mạch sử dụng trong gây mê hồi sức ................................................. 169
ThS. Tạ Minh Hiền
ThS. Bùi Minh Huệ
BẢ
N
Thực hiện các nguyên tắc vô khuẩn trong phòng mổ ................................................... 178
Đánh giá mức đau sau phẫu thuật ................................................................................. 190
ThS. Nguyễn Bá Tuân, ThS. Phan Thùy Chi
ẤT
Theo dõi bệnh nhân tại phòng hồi tỉnh ......................................................................... 195
N
H
À
XU
ThS. Tạ Minh Hiền
6
C
Ọ
H
Phần I
N
H
À
XU
ẤT
BẢ
N
Y
LÝ THUYẾT
7
LỊCH SỬ CỦA NGÀNH GÂY MÊ HỒI SỨC
Mục tiêu
1. Trình bày được những khó khăn của phẫu thuật và sự chịu đựng của người bệnh
trước khi ngành Gây mê hồi sức ra đời.
2. Trình bày được một số mốc lịch sử quan trọng của sự ra đời và phát triển của
ngành Gây mê hồi sức.
1. PHẪU THUẬT TRƯỚC KHI CÓ NGÀNH GÂY MÊ HỒI SỨC
C
3. Nêu được các nhiệm vụ của người Gây mê hồi sức ngày nay.
À
XU
ẤT
BẢ
N
Y
H
Ọ
So với nhiều chuyên ngành y học khác, Gây mê hồi sức (GMHS) là một chuyên
ngành y học khá non trẻ. GMHS thực sự đảm bảo cho phẫu thuật mới chỉ tồn tại trên
150 năm và những tiến bộ quan trọng nhất của GMHS mới được diễn ra trong 50 năm
gần đây.
Hàng nghìn năm trước đây, phẫu thuật đã được con người thực hiện để cắt cụt chi,
cắt bỏ tổ chức viêm mủ, hoại tử hay nhổ răng... Phẫu thuật lúc này là nỗi kinh hoàng lan
truyền trong dân chúng mỗi khi phải trải qua vì sự đau đớn và hoảng sợ tột cùng.
Frannie Burney, một bá tước nước Anh đã ghi lại cảm giác sau cuộc phẫu thuật vào đầu
thế kỷ 19 “Đó là địa ngục! Tơi cảm nhận rõ đường đi của con dao xé trong ngực tôi,
gặm sâu vào xương. Tất cả diễn ra trong sự đau đớn không thể kêu lên được nữa...”.
H
Hình 1.1. Cuộc phẫu thuật thời trung cổ. Người bệnh đang bị đánh vào đầu bằng vật tù nhằm
mục đích giảm đau tại vùng phẫu thuật ở cánh tay
N
Trong một thời gian dài, để tiến hành phẫu thuật, từ phương Đông đến phương Tây
người ta đã làm tất cả nhằm giảm bớt đau đớn và hoảng sợ của người bệnh. Trước khi
phẫu thuật, người bệnh phải được trói chặt hoặc giữ bất động bởi nhiều người. Ngồi
8
BẢ
N
Y
H
Ọ
C
các liệu pháp tâm lý như động viên, trấn an thậm chí là dọa dẫm; các phương pháp cơ
học, hóa học đã được áp dụng như cho uống rượu say, uống nước của một số cây cỏ có
tác dụng gây ngủ, làm lạnh vùng phẫu thuật, đè ép lên các dây thần kinh của chi để
giảm đau tại chi đó. Thậm chí, người Mỹ cổ đã khoan vào sọ, đánh vào đầu bệnh nhân
để giảm cảm giác đau cho phẫu thuật ở các nơi khác trên cơ thể. Các biện pháp này có
tác dụng làm bớt lo lắng và giảm đau, nhưng nguy hiểm và không bao giờ đủ để cuộc
phẫu thuật diễn ra thuận lợi và an toàn; gây nên những tổn thương thể xác và tâm lý
nặng nề đối với người bệnh.
Hình 1.2. Người Mỹ cổ đã khoan vào sọ để giảm đau trong phẫu thuật tại vùng khác
trên cơ thể; Nén ép chặt vào đùi để phẫu thuật chi dưới
XU
ẤT
Nhiều loại cây cỏ có tác dụng an thần, gây ngủ, giảm đau, hoặc chỉ đơn giản làm
mất khả năng la hét của người bệnh đã được tìm thấy và sử dụng, trong đó phải kể đến
cây lê lư (cây trị điên), cây bạch tiễn, cây dâu, rau diếp, cây độc có hoa vàng, cây độc
cần, cây thuốc phiện... Ở thời kỳ này, người Hy Lạp cổ đã tìm ra cây độc cần và chính
Socrates - nhà triết học cổ đại vĩ đại (469-399 BC) đã được dùng loại cây này trong một
lần phẫu thuật.
2. NGÀNH GÂY MÊ HỒI SỨC RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN NHƯ MỘT SỰ KIỆN
TRỌNG ĐẠI CỦA Y HỌC
À
2.1. Sự ra đời của các thuốc mê đường hô hấp và đường tĩnh mạch
N
H
Từ thế kỷ thứ 18 và 19, nhờ sự phát triển vượt bậc của các ngành vật lý và hóa học
và với sự ra đời của nhiều phịng thí nghiệm, các chất có tác dụng gây ngủ, giảm đau lần
lượt được phát hiện đã làm nên những cuộc cách mạng trong phẫu thuật. Đầu tiên là khí
N O (hay cịn gọi là khí gây cười) được bác sĩ người Anh - Humphry Davy phát hiện
vào năm 1799. N O đơn thuần đã được sử dụng cho các cuộc phẫu thuật sau đó nhưng phần
2
2
9
lớn đều thất bại do không đủ mạnh để gây ngủ và giảm đau. Mặc dù vậy do khởi phát tác
dụng và đào thải rất nhanh N O vẫn được sử dụng cho đến ngày nay như là một thành phần
của khí gây mê (N O và oxy). Tiếp theo N O, khí Ether được tìm ra vào năm 1840.
2
2
2
À
XU
ẤT
BẢ
N
Y
H
Ọ
C
Ngày 16/10/1846 trở thành ngày lịch sử của ngành Gây mê hồi sức và Ngoại khoa
khi ca phẫu thuật cắt bỏ u xương hàm được thực hiện thành công tại khu phẫu thuật,
giảng đường mái vòm của Đại học Harvard (nay thuộc bệnh viện đa khoa nổi tiếng
Massachusetts - MGH) trước sự chứng kiến của nhiều quý ông, quan khách và công
chúng. Lần đầu tiên bệnh nhân đã được gây mê hồn tồn bằng khí Ether, khơng phải
chịu đau đớn và tỉnh dậy một cách bình thường. Người đi vào lịch sử chính là bác sĩ
William T.G Morton sau nhiều nghiên cứu sử dụng Ether của ông trên động vật. Ngay
lập tức sự kiện này được đăng tải trên trang nhất của tờ báo danh tiếng “Nội và Ngoại
khoa Boston” và nhanh chóng lan đi tồn thế giới như một điều kỳ diệu của y học trong
sự hân hoan, hy vọng của cả các thầy thuốc và người bệnh.
N
H
Hình 1.3, 1.4. (Ca phẫu thuật đầu tiên trên thế giới được thực hiện thành cơng với gây mê tồn
thân bằng khí Ether tại khu phẫu thuật Đại học Harvard). Tin vui lịch sử được đăng tải trên
trang nhất Tạp chí Y học hàng đầu thế giới - Boston medical and Surgical journal
10
C
H
Ọ
Hình 1.5. Quang cảnh trong lịng giảng đường mái vịm thuộc khu phẫu thuật Đại học Harvard,
nơi diễn ra cuộc gây mê và phẫu thuật lịch sử hơn 160 năm về trước. Ngày nay, giảng đường
này được đặt tên là Ether Dome và trở thành Di tích Lịch sử Quốc gia của Mỹ từ năm 1965
(Ảnh chụp tháng 6/2014)
N
H
À
XU
ẤT
BẢ
N
Y
Nhờ sự phát triển của nhiều ngành khoa học, thế kỷ 20 là cuộc hành trình vĩ đại
của gây mê hồi sức với hàng loạt thuốc gây mê mới được tổng hợp và đưa vào sử dụng.
Sau Ether, nhiều thuốc mê bốc hơi được nghiên cứu và sử dụng thường quy trên lâm sàng
như halothan, enfluran, isoflurane, sevofluran, desfluran… Năm 1932, hexobarbital là
thuốc mê đường tĩnh mạch đầu tiên được sử dụng trên người; tiếp theo đó lần lượt
pentothal (1934), ketamin (1962), etomidat (1964), propofol (1977) được tổng hợp và
sử dụng rộng rãi cho đến nay. Những thuốc mê hô hấp và đường tĩnh mạch mới ngày
nay cho phép người bệnh ngủ nhanh, sâu nhưng lại có thể tỉnh dậy nhanh chóng và êm
dịu, ít phải chịu các tác dụng phụ, các phiền nạn của thuốc.
Hình 1.6. W.T.G. Morton, người thực hiện cuộc gây mê đầu tiên thành công với ether
tại khu phẫu thuật Đại học Harvard
11
2.2. Sự ra đời của các thuốc giảm đau dòng họ morphin
Cùng với các thuốc mê, để chống đau trong và sau phẫu thuật, các thuốc giảm đau
tổng hợp dòng họ morphin cũng lần lượt ra đời và được sử dụng trên lâm sàng như
morphin (1827), fentanyl (1960), sufentanil (1974), alfentanil (1976), remifentanil
(1996)... đảm bảo cho một cuộc phẫu thuật hồn tồn khơng đau. Các thuốc giảm đau
dịng họ morphin thế hệ mới mạnh hơn 100-200 lần morphin, có tác dụng và đào thải rất
nhanh vì thế dễ điều chỉnh phù hợp với yêu cầu trong phẫu thuật cũng như hạn chế được
các tác dụng không mong muốn, đặc biệt là tác dụng ức chế hô hấp sau phẫu thuật.
2.3. Sự ra đời của các thuốc giãn cơ
Ọ
C
Thuốc giãn cơ được chiết xuất từ thế kỷ 18 - 19 từ cây Chondrodendron tomentosum.
Trước đó, trong một thời gian dài từ thế kỷ 16, người da đỏ đã ninh nhừ thân và rễ cây
này thành hỗn dịch, sau đó dùng để tẩm mũi tên khi săn bắn.
N
H
À
XU
ẤT
BẢ
N
Y
H
Thuốc giãn cơ được chính thức sử dụng ở thế kỷ 20; các thuốc giãn cơ mới tiếp tục
được phát hiện và tổng hợp. Nhìn chung các thuốc thế hệ sau có nhiều ưu điểm hơn như
thời gian chờ tác dụng ngắn, thời gian tác dụng ngắn, đào thải nhanh, ít gây các tác dụng
phụ: succinylcholin (1949), pacuronium (1964), atracurium (1974), vecuronium (1979),
mivacurium (1993), rocuronium (1994). Sự ra đời của thuốc giãn cơ đã tạo nên một
cuộc gây mê hoàn chỉnh hay được gọi là gây mê cân bằng với cả 3 loại thuốc (thuốc mê,
thuốc giảm đau, thuốc giãn cơ): đảm bảo cho người bệnh không biết và không nhớ các
hoạt động của cuộc phẫu thuật, không đau dù phẫu thuật lớn như thế nào trong khi các
cơ được giãn hoàn toàn, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các thao tác của người phẫu
thuật. Thuốc giãn cơ ra đời cũng tạo nên một bước ngoặt quan trọng trong kiểm soát
đường thở, đặt nội khí quản, đảm bảo thở máy hiệu quả trong hồi sức nội và ngoại khoa.
Thuốc bridion (sugammadex) cho phép trung hịa hồn tồn một số thuốc giãn cơ trong
trường hợp cấp cứu cần thiết là phát minh quan trọng gần đây về thuốc giãn cơ (2007).
12
Hình 1.7. Các nhà nghiên cứu châu Âu tìm hiểu chiết xuất giãn cơ từ cây
Chondrodendron tomentosum của người da đỏ
2.4. Sự ra đời của các thuốc tê
Ọ
2.5. Sự ra đời của các phương tiện hỗ trợ gây mê hồi sức
C
Không thể không kể đến sự ra đời của thuốc tê và các phương pháp gây tê trong
lịch sử đầy ắp sự kiện của ngành Gây mê hồi sức. Năm 1885, Leonard Corning gây tê
tủy sống bằng cocain trên chó, năm 1899 August Bier sử dụng cocain để gây tê tủy sống
ở người. Các thuốc tê lần lượt được tổng hợp và sử dụng trên lâm sàng như procain
(1905), lidocain (1949), mepivacain (1960), bupivacain (1957), ropivacain (1996),
levobupivacain (1998). Các thuốc tê mới ngày nay như levobupivacain, ropivacain vẫn
đảm bảo là thuốc tê mạnh nhưng ít độc hơn với thần kinh và tim mạch, vì thế an tồn
hơn cho người bệnh. Hiện nay các kỹ thuật gây tê như gây tê tại chỗ, gây tê thân thần
kinh, gây tê vùng... chiếm hơn 50% các kỹ thuật vô cảm để phẫu thuật và là cũng các
phương pháp chủ yếu để chống đau sau phẫu thuật, chống đau cấp và mạn tính.
BẢ
N
Y
H
Bên cạnh những bước ngoặt về thuốc, hàng loạt các phương tiện, kỹ thuật đã được
nghiên cứu và đưa vào sử dụng trong thế kỷ 20, đặc biệt là các phương tiện kiểm soát
đường thở. Đầu tiên là phát minh cannula kim loại mở miệng của Joseph Clover vào
năm 1877, sau đó là đèn soi thanh quản, ống nội khí quản (NKQ), máy gây mê, máy
thở, máy theo dõi các chức năng sống với nhiều thông số, máy thay thế tim - phổi; các
dụng cụ gây tê tủy sống, gây tê ngoài màng cứng, gây tê đám rối thần kinh, các phương
tiện kiểm sốt đường thở khó như mask thanh quản, ống combitube, ống Cook, đèn soi
thanh quản có camera...
ẤT
Với sự phát triển của các phần mềm điện tử, nhiều phương tiện có phần mềm
thơng minh dựa trên các dữ liệu của bệnh nhân đã được ứng dụng trong gây mê hồi sức
như máy chống đau do bệnh nhân tự kiểm soát (PCA), máy gây mê theo nồng độ đích
(TCI), theo dõi độ sâu của gây mê (BIS), theo dõi phản ứng đau trong phẫu thuật...
N
H
À
XU
Nhờ tất cả những phát minh lịch sử, những tiến bộ không ngừng ngay từ khi ra đời
mà gây mê hồi sức ngày nay có thể đảm bảo an tồn cho một giấc ngủ sâu khơng hề đau
đớn, từ những can thiệp nhỏ như nhổ răng, nội soi tiêu hóa, nắn trật xương khớp... đến
mọi cuộc đại phẫu thuật phức tạp, ở mọi cơ quan, với mọi lứa tuổi, với thời gian phẫu
thuật kéo dài hàng giờ, thậm chí hàng chục giờ.
13
Ọ
3. VAI TRÒ VÀ SỨ MẠNG CỦA GÂY MÊ HỒI SỨC NGÀY NAY
C
Hình 1.8. Đèn soi thanh quản trước đây và ngày nay
XU
ẤT
BẢ
N
Y
H
Gắn liền với lịch sử của ngành ngoại khoa và y học nói chung, Gây mê hồi sức đã
có những bước phát triển kỳ diệu trong một thời gian ngắn, góp phần quan trọng cho
những thành cơng vĩ đại của nền y học. Theo những nghiên cứu gần, đây tỷ lệ tử vong
liên quan trực tiếp với gây mê hồi sức đã giảm 10 - 20 lần tại các nước phát triển, từ
6 - 10/10.000 vào những năm 50 của thế kỷ trước xuống còn 0,5 - 1/10.000 cuộc gây mê.
Hình 1.9. Bệnh nhân 82 tuổi, sốc nhiễm trùng đường mật nặng do sỏi được phẫu thuật/gây
mê hồi sức thành công tại Khoa Gây mê hồi sức, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
N
H
À
Khơng ít người trong chúng ta còn hiểu đơn giản gây mê hồi sức là làm cho bệnh
nhân ngủ sâu và không đau, nhưng sự thật thì cơng việc gây mê hồi sức khó khăn và
phức tạp hơn rất nhiều. Trong suốt thời gian phẫu thuật, người gây mê hồi sức phải sử
dụng các thuốc và các phương tiện hồi sức, điều khiển máy móc và phương tiện để thay
thế chức năng hô hấp của người bệnh, thậm chí thay thế cả chức năng tuần hoàn như
trường hợp phải làm ngừng tim trong phẫu thuật tim; phải đối phó với hàng loạt các rối
loạn khác của người bệnh trong phẫu thuật như dị ứng nặng, khó kiểm sốt đường thở,
chảy máu, rối loạn huyết động, rối loạn đông máu, hạ nhiệt độ, rối loạn kiềm toan...
14
Tiếp sau gây mê là giai đoạn hồi tỉnh, hồi sức phức tạp với nhiều nguy cơ tai biến
và phiền nạn nhằm tiếp tục sửa chữa các rối loạn, thiếu hụt do cuộc phẫu thuật gây nên,
đưa các chức năng sống của người bệnh trở về bình thường, thốt ra khỏi sự thay thế và
hỗ trợ của máy móc. Gây mê và hồi sức ln đi cùng nhau, có trong nhau trong suốt
cuộc phẫu thuật, đặc biệt trong các phẫu thuật lớn, hoặc trên các bệnh nhân cao tuổi,
bệnh nhân nặng, bệnh nhân có nguy cơ cao hoặc có nhiều bệnh phối hợp.
Người gây mê hồi sức ngày nay không chỉ đảm bảo bệnh nhân an toàn trong và
sau phẫu thuật, mà còn phải phát hiện, sửa chữa và điều chỉnh các rối loạn trước phẫu
thuật đảm bảo điều kiện tối ưu cho cuộc phẫu thuật.
Ọ
C
Gây mê hồi sức cũng có nhiệm vụ tiến hành chống đau hiệu quả đối với cả trường
hợp đau cấp và mạn tính (đau do ung thư, bệnh cơ xương khớp, đau do thần kinh…).
Trên thế giới, hơn 70% hoạt động chống đau đang được được thực hiện bởi người gây
mê hồi sức.
Y
H
Cùng với Ngoại khoa nói chung, tiến bộ của Gây mê hồi sức cũng đã cho phép đa
số các trường hợp được phẫu thuật ngoại trú, bệnh nhân được phẫu thuật và về nhà ngay
trong ngày, mang lại nhiều lợi ích đối với y tế và xã hội. Ngoài ra, hoạt động gây mê hồi
sức cũng không thể thiếu trong cấp cứu ngoại khoa, đặc biệt là cấp cứu chấn thương.
Tại nhiều nước phát triển, người gây mê hồi sức có vai trị quyết định, dẫn dắt trong khi
cấp cứu các bệnh nhân này.
BẢ
N
Hội Gây mê thế giới được thành lập vào năm 1955 tại Hà Lan có 28 thành viên, đến
nay đã trở thành một trong những hội nghề nghiệp lớn của y học với 150 thành viên trên
toàn thế giới trong đó có Việt Nam (Hội nghị Gây mê hồi sức toàn thế giới, Hongkong,
tháng 8/2016).
N
H
À
XU
ẤT
Tại Việt Nam trước năm 1957 phẫu thuật được tiến hành chủ yếu dưới gây tê và
gây mê bằng thuốc mê bốc hơi (ether). Từ năm 1957 gây mê tĩnh mạch với thiopental
bắt đầu được thực hiện. Năm 1959 khóa đào tạo một năm về GMHS lần đầu tiên được
các chuyên gia Bungari thực hiện cho các bác sỹ Việt Nam. Việt Nam gia nhập Hội
GMHS thế giới vào năm 1979. Những người thầy có cơng lao to lớn cho sự hình thành
và phát triển ngành GMHS của nước nhà là: GS. Tôn Đức Lang nguyên Trưởng khoa
GMHS, Bệnh viện Việt Đức, Chủ tịch đầu tiên của Hội GMHS Việt Nam (1979-1990);
GS. Nguyễn Thụ nguyên Trưởng Bộ môn GMHS, nguyên Hiệu trưởng Đại học y Hà
Nội, nguyên Trưởng khoa GMHS Bệnh viện Việt Đức, Chủ tịch Hội GMHS Việt Nam
(1991-2011). Những người GMHS Việt Nam cũng sẽ không bao giờ quên bác sĩ người
Hà Lan J. L. Beiboer, nguyên Chủ tịch Hội GMHS Hà Lan, với tình cảm yêu mến đặc
biệt đất nước và con người Việt Nam, đã vượt qua mọi cản trở khó khăn vào những năm
1980 của thế kỷ trước, hết lòng giúp đỡ, đào tạo nên những người thầy của ngành
GMHS Việt Nam; ơng cũng chính là người giới thiệu và đưa GMHS Việt Nam gia nhập
Hội Gây mê thế giới.
Cùng với lịch sử vẻ vang của nền y học Việt Nam, trong những thập kỷ qua ngành
Gây mê hồi sức của Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh với nhiều tiến bộ vượt bậc và
hội nhập mạnh mẽ cùng khu vực và thế giới.
15
Ngày nay, bốn nhiệm vụ quan trọng của người bác sỹ gây mê hồi sức đã được
khẳng định trong mục tiêu của Hội Gây mê hồi sức Thế giới (World Federation of
Societies of Anaesthesiologists - WFSA) là: gây mê, chống đau, cấp cứu chấn thương
và hồi sức tích cực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ọ
1. Miller’s Anesthesia. Anesthesia history. Elsevier Health, 2005.
C
Có thể nói cuộc hành trình của Gây mê hồi sức chưa bao giờ kết thúc; trong y học
Gây mê hồi sức là một trong những ngành được coi là của cả khoa học và nghệ thuật.
Khoa học sẽ không bao giờ có điểm dừng và nghệ thuật cũng khơng ngừng sáng tạo...
Cùng với Ngoại khoa nói chung và các ngành khoa học y học khác, Gây mê hồi sức sẽ
còn làm nên nhiều điều kỳ diệu trong y học, thậm chí có thể chưa có trong suy nghĩ của
chúng ta hơm nay.
H
2. Jan Davies & Rod Westhorpe. All about anesthesia. Oxford University Press, 2000.
N
H
À
XU
ẤT
BẢ
N
Y
3. Edmond I.E, Lawrence Saidman, Rod Westhorpe. The Wondrous Story of
Anesthesia. Springer, 2014.
16