NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNGĐIỀU TRA NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI CÁC
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Contents
Cơ sở lý luận
Trong một tổ chức, công việc quản lí đóng vai trị quan trọng trong việc duy
trì hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả, bao gồm hệ thống các hoạt động, cấu trúc
và quy trình. Ngồi ra, nó cịn nhằm để doanh nghiệp có thể đạt được mục tiêu đã
đặt ra và giảm thiểu tối đa các rủi ro tiềm tàng. Trong một tổ chức, ban quản lý
thường nắm giữ vai trò này trên cương vị là cổ đông của công ty và được giám sát
bởi các bộ phận cấp cao hơn như hội đồng quản trị hay hội đồng kiểm toán.
Định nghĩa kiểm toán nội bộ
Kiểm tốn nội bộ là một phần khơng thể thiếu trong cấu trúc cơng ty nói
chung và trong vấn đề quản lí rủi ro của cơng ty và xác định những lĩnh vực cần
đến quản lí rủi ro nói riêng. Thơng qua các kiến nghị và ý kiến mang tính xây
dựng, kiểm tốn nội bộ mang đến những lợi ích thiết thực đến mức độ hiệu quả
trong hoạt động và kinh doanh của cơng ty.
Thơng qua vai trị của các kiểm tốn viên nội bộ, quản trị cơng ty đã dần xây
dựng một hệ thống kiểm soát thiết yếu bên cạnh các kiểm tốn viên khác. Với mục
đích kể trên, kiểm toán viên nội bộ thực hiện những hoạt động mang tính tư vấn
hay đảm bảo. Ví dụ, họ có thể đưa ra các bằng chứng rằng hệ thống kiểm soát của
công ty đã được thiết kế phù hợp và hiệu quả. Hoặc, kiểm tốn viên nội bộ có thể
chỉ ra những sai sót để nâng cao cơng việc quản lí rủi ro và sai phạm của cơng ty,
qua đó giảm thiểu các lỗi trong các báo cáo, đặc biệt là báo cáo tài chính. Nói tóm
lại, kiểm sốt nội bộ là một cột trụ quan trọng của quản trị công ty, có vai trị mật
thiết tới hiệu năng và hiệu quả làm việc của cơng ty đó.
Chất lượng của kiểm toán nội bộ
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và mức độ phức tạp của thị trường,
kiểm toán nội bộ cũng đã trở nên kỹ lưỡng hơn với sự xuất hiện của thuật ngữ
“chất lượng kiểm toán nội bộ”. Quả thực, để giữ vững vai trị là cột trụ trong quản
trị cơng ty, kiểm tốn nội bộ phải mang tính chất lượng và hiệu quả.
Hiện nay trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng, những mơ hình
và cấu trúc đánh giá mức hiệu quả của kiểm tốn nội bộ cịn có nhiều hạn chế và
chưa được nghiên cứu sâu rộng. Mục tiêu của đề án này là nhằm phân tích những
yếu tố tác động đáng kể tới chất lượng của kiểm tốn nội bộ, và từ đó đưa ra các đề
nghị để doanh nghiệp hay tổ chức có thể cải thiện cho bộ phận kiểm tốn của mình.
Thực trạng kiểm toán nội bộ tại Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam đã và đang dần xây dựng bộ máy kiểm tốn nội bộ phù
hợp với thơng lệ quốc tế, và đặc biệt sự phát triển này đã bùng nổ với quyết định số
832 – TC/QĐ – CĐKT tháng 10/1997. Và đến nay, khảo sát cho thấy rằng các đơn
vị doanh nghiệp đã nắm bắt được tầm quan trọng cũng như lợi ích đến từ hệ thống
kiểm tốn nội bộ. Họ đã hiểu được điều này một phần nhờ vào kinh nghiệm thực
tiễn xuất phát từ nhu cầu quản trị cơng ty hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng
đã có nhiều doanh nghiệp chưa định hình được kiểm tốn nội bộ một cách chắc
chắn và cách thức áp dụng chưa được phổ biến rộng rãi.
Đề án theo đó được cấu trúc thành ba phần: phần 1, những giả thuyết liên
quan đến các yếu tố có ảnh hưởng được nêu ra; phần 2, những giả thuyết này sẽ
được kiểm chứng dựa trên những nghiên cứu có sẵn ở một số cơ sở trên các tỉnh
thành ở Việt Nam, và cuối cùng là phần 3 nêu ra các giải pháp để nâng cao tính
chất lượng của kiểm tốn nội bộ tại Việt Nam.
Xây dựng giả thuyết
Trong phạm vi của đề án này, 6 yếu tố được cho là có ảnh hưởng đến chất
lượng của kiểm tốn nội bộ sẽ được phân tích và đánh giá.
1. Hiệu quả của kiểm toán nội bộ
Đây là một khái niệm khá mơ hồ trong các lí thuyết kiểm tốn, và cũng chưa
có nhiều tài liệu cũng như nghiên cứu về vấn đề này. Theo như Dittenhofer (2001),
hiệu quả của kiểm toán nội bộ được đo lường bằng mức hoàn thành chỉ tiêu và mục
tiêu của bộ phận kiểm toán. Lại theo một số cách định nghĩa khác, hiệu quả của
kiểm toán nội bộ được đo lường bằng những giá trị nó tạo ra cho doanh nghiệp. Vì
những ý kiến khác nhau trong phạm trù này, chúng ta sẽ sử dụng định nghĩa về
hiệu quả kiểm toán nội bộ thông thường nhất được sử dụng bởi đa số nhà nghiên
cứu như Roth (2003), Mihret (2010) hay Gros (2010): kiểm toán nội bộ được coi
như là hiệu quả nếu nó thực sự mang lại những lợi ích về giá trị cho doanh nghiệp.
Đi sâu hơn, kiểm toán nội bộ hiệu quả giúp cho ban quản lý và giám đốc
đánh giá và cải thiện hệ thống quản lí rủi ro, quản lí nội bộ và quản trị cơng ty.
Thơng qua việc đưa ra những kiến nghị kiểm toán nội bộ, công ty đã nắm bắt được
nhiều cơ hội hơn để đạt được những mục tiêu kinh tế, qua đó tăng cường giá trị của
doanh nghiệp. Chức năng này của kiểm toán nội bộ đã phát huy tác dụng tại ngân
hàng Công Thương Việt Nam khi mà chất lượng hoạt động khi có kiểm tốn nội bộ
đã tăng rõ rệt so với giai đoạn trước đó.
Ngồi ra, khơng chỉ thiên về quản lí rủi ro, kiểm tốn nội bộ cịn xác định
được tính hữu dụng của các quy trình và cách thức làm việc tại những ban ngành
được kiểm toán, và qua đó tăng cường hiệu quả hoạt động của toàn doanh nghiệp.
Một số nghiên cứu đã xác nhận rằng kiểm toán nội bộ đã cải thiện ROCE của
doanh nghiệp, làm tăng giá trị của doanh nghiệp trong mắt nhà đầu tư và thị
trường. Những nghiên cứu của Radu (2012) cũng cho thấy rằng kiểm tốn nội bộ
hiệu quả cịn giúp cho doanh nghiệp đảm bảo hồn thành những trách nhiệm của
cơng ty đối với nền kinh tế và xã hội, từ đó, công cuộc quản trị tốt chắc chắn rằng
quyền lợi của nhà đầu tư và các đối tượng hữu quan không bị xâm hại.
2. Trình độ của người làm kiểm tốn
Tất nhiên rằng trình độ của người làm kiểm tốn có liên hệ mật thiết tới chất
lượng cũng như là hiệu quả của hoạt động kiểm tốn. Đó cũng là lý do tại sao các
chứng chỉ kiểm toán quốc tế như ACCA hay ISPPIA rất được coi trọng vì các
chứng chỉ này đề cao tầm quan trọng của kiến thức, kĩ năng và các điểm nổi trội
khác của đội ngũ kiểm tốn viên trong q trình hoạt động. Điều này cũng đã được
thể hiện qua các nghiên cứu về kiểm toán nội bộ nước ngồi như ở ()…. Thêm vào
đó, kiểm tốn viên nội bộ cũng cần phải có những kỹ năng mềm trong giao tiếp,
thuyết phục, hợp tác và suy nghĩ logic để có thể hồn thành nhiệm vụ với hiệu quả
cao.
Những nghiên cứu trước đây cũng đã xếp trình độ kiểm tốn vào những
nhân tố trọng yếu có ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán. Tại các quốc gia Ả rập,
Saudi, đội ngũ kiểm tốn viên với trình độ và đã trải qua đào tạo, có kinh nghiệm
và kiến thức đã mang lại những hiệu ứng tích cực trên chất lượng kiểm toán nội bộ.
Kết luận này cũng đã lặp lại tại nhiều quốc gia khác như Malaysia, Iran hay Nam
Phi. Ngược lại, những nghiên cứu tại các doanh nghiệp ở các nước Tây Á thiếu đi
bộ phận kiểm tốn nội bộ có trình độ đã làm cản trở tiến độ thực hiện kiểm toán
nội bộ và làm suy giảm những giá trị nó tạo ra cho doanh nghiệp.
Do đó, chúng ta có thể đề ra giả thuyết nghiên cứu đầu tiên cho đề án này:
GT1: Chất lượng của kiểm tốn nội bộ có mối quan hệ cùng chiều với trình
độ của đội ngũ kiểm tốn.
3. Tính độc lập và khách quan của kiểm tốn viên nội bộ
Những năm qua, giới chuyên môn và những nhà nghiên cứu đã hết sức nhấn
mạnh tầm quan trọng của tính độc lập và khách quan của kiểm tốn viên nội bộ ở
mọi cấp trong việc đảm bảo chất lượng kiểm tốn. Thâm chí, một số nghiên cứu
cịn cho rằng tính độc lập và khách quan là yếu tốt then chốt trong chất lượng của
kiểm toán nội bộ. Hơn nữa, điều này còn được phản ánh trong các chứng chỉ kiểm
tốn tồn cầu: ISPPIA điều 1100 đã u cầu bộ phận kiểm toán nội bộ phải thi
hành độc lập và các kiểm tốn viên khơng được thiên vị trong quá trình tác nghiệp
để đảm bảo rằng doanh nghiệp nhận được những giá trị thiết thực đến từ việc kiểm
toán.
Một vài nghiên cứu gia đã nghiên cứu yếu tố này và đã đưa ra giả thiết rằng
chất lượng của kiểm tốn nội bộ có mối quan hệ cùng chiều với tính độc lập và
khách quan của kiểm tốn viên. Cụ thể rằng, trong một khảo sát năm 2011, tính
độc lập là một trong năm yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới q trình kiểm tốn ở
các cơng ty Iran, và kết quả này được giải thích sâu hơn rằng tính độc lập có ảnh
hưởng tới chất lượng kiểm tốn và đánh giá của kiểm toán viên. Chức vụ trong
doanh nghiệp của kiểm toán trưởng cũng được coi là một yếu tố mật thiết tới tính
độc lập và khách quan của bộ phận kiểm tốn đó. Nghiên cứu của Harrel (1989) và
Arena và Azzone (2009) chỉ ra rằng nếu kiểm toán trưởng có liên quan tới hiệp hội
kiểm tốn, hiệu quả của kiểm toán nội bộ thường tăng lên. Sở dĩ họ đi tới được kết
luận này vì nhân viên của hiệp hội kiểm tốn có tính khách quan, và vì họ đứng
ngồi doanh nghiệp nên họ có thể hịa hợp được đồng thời những yêu cầu chuyên
môn và những yêu cầu đến từ doanh nghiệp.
Từ đó, chúng ta có giả thiết nghiên cứu thứ 2:
GT2: Chất lượng kiểm tốn nội bộ có mối quan hệ cùng chiều với tính độc
lập và khách quan của kiểm toán nội bộ.
4. Kiểm toán viên nội bộ thuê ngồi
Khơng phải lúc nào kiểm tốn viên nội bộ cũng là một bộ phận của cơng ty;
doanh nghiệp hồn tồn có thể th các cơng ty thứ ba để thực hiện cơng việc kiểm
tốn nội bộ. Ngồi những lợi ích mà loại hình này mang lại, tất nhiên cũng vẫn sẽ
có những mặt hại.
Thứ nhất, sử dụng nhân viên thuê ngồi cho phép cơng ty tạo ra một đội ngũ
kiểm tốn viên trình độ cao và có kinh nghiệm trong lĩnh vực tương ứng. Ngồi ra,
nó cịn giúp tăng cường tính độc lập và khách quan của kiểm tốn viên do họ ít có
tương tác lâu dài với ban quản lý và các nhân viên và điều này giúp giảm thiểu chi
phí thuê và đào tạo nhân viên. Tuy nhiên, chính việc này cũng có mặt hại của nó.
Những kiểm tốn viên th ngồi khơng thơng thạo mơi trường và văn hóa của
cơng ty, và trên hết họ khó nhận được sự hợp tác toàn diện từ bộ phận kiểm tốn,
và phần nào giới hạn những thơng tin có liên quan hay làm gián đoạn cơng cuộc
điều tra.
Bên cạnh đó, những nghiên cứu trước đây cũng nhận ra rằng việc sắp xếp
th nhân viên kiểm tốn nội bộ ngồi cũng có 2 mặt tương ứng. Ahlawat (2004)
và Davidson (2013) nhận thấy rằng kết quả làm việc của kiểm toán viên th ngồi
thường có độ tin cậy cao hơn kết quả của kiểm tốn viên nội bộ của cơng ty. Họ
giải thích rằng kiểm tốn viên th ngồi có trình độ và tính độc lập cao hơn bộ
phận kiểm tốn bên trong cơng ty. Tuy nhiên, tính tin cậy của báo cáo kiểm tốn
viên th ngồi suy giảm khi các nhân viên kiểm tốn nội bộ th ngồi cũng cung
cấp các dịch vụ khác như thuế và tư vấn.
Từ đó, chúng ta có giả thiết thứ 3:
GT3: Chất lượng kiểm tốn nội bộ có liên quan tới việc th kiểm tốn viên
nội bộ từ bên ngồi.
5. Sự hợp tác và hỗ trợ của ban quản lý
Sự hỗ trợ đến từ ban quản lý là một phần thiết yếu đến sự chấp thuận và tôn
trọng chức năng kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp. Theo chứng chỉ ISPPIA,
kiểm toán viên nội bộ được quyền nhận hỗ trợ từ hội đồng quản trị và ban Giám
đốc để hoàn thành nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Quả thực, bộ phận kiểm
tốn nội bộ nên có đầy đủ các nguồn tài nguyên để tối đa hóa hiệu năng của hoạt
động kiểm tốn. Bên cạnh đó, hai tác giả Hung và Han (1998) trong các nghiên
cứu các công ty ở Đài Loan nhận thấy rằng thái độ hợp tác của ban quản lý với bộ
phận kiểm tốn nội bộ góp phần làm cho kế hoạch kiểm toán thường niên diễn ra
trơi chảy và tăng cường tính hiệu quả của hoạt động này.
Trong các báo cáo về các doanh nghiệp Malaysia, Ahmad và một vài tác giả
khác chỉ ra rằng hỗ trợ đến từ ban quản lý có ảnh hưởng đáng kể đến việc các kiến
nghị của kiểm toán nội bộ có được thực hiện và áp dụng hay khơng, và hơn nữa bộ
phận kiểm toán được hỗ trợ đầy đủ về mặt nhân lực và tài nguyên. Quay về với các
doanh nghiệp ở Israel, khi xét đến ba khía cạnh của kiểm tốn hiệu quả đó là chất
lượng kiểm tốn, đánh giá kiểm tốn và đóng góp của kiểm tốn nội bộ, nghiên
cứu nhận thấy rằng hỗ trợ từ phía quản lý đều là một nhân tố trọng yếu. Kết luận
tương tự cũng được quan sát thấy ở các doanh nghiệp Saudi Arabia; q trình quản
trị nhân lực kiểm tốn nội bộ cho thấy rằng hiệu quả kiểm toán nội bộ sẽ được
nâng cao bằng cách thuê nhân lực giàu kinh nghiệm và cung cấp cho họ đầy đủ
thông tin.
Từ đó, chúng ta có được giả thiết nghiên cứu thứ 5:
GT4: Chất lượng kiểm tốn nội bộ có mối quan hệ cùng chiều với mức độ
hỗ trợ từ ban quản lý.
6. Đào tạo kiểm tốn viên nội bộ cho cơng việc quản lý
Ở các nước Tây Âu, công việc kiểm tốn nội bộ cịn được coi là đặt nền tảng
cho các nhà quản lý. Thông thường, các công ty sử dụng kiểm tốn nội bộ với mục
đích này theo hai hướng: một là tuyển dụng các nhân viên mới trực tiếp vào bộ
phận kiểm tốn nội bộ với mục đích là sử dụng họ cho bộ máy quản lí; hai là đưa
các nhân viên của bộ phận khác vào kiểm toán nội bộ để làm dự bị cho cấp quản lí
sau này. Một số học giả nghiên cứu rằng cách tiếp cận này nâng cao khả năng cho
các nhà quản lí bởi lẽ bộ phận kiểm tốn hoạt động hiểu rõ hệ thống kiểm soát nội
bộ cũng như là nhiều thơng tin khác về cơng ty. Hơn nữa, chương trình đào tạo
quản lí này trở thành một điểm nhấn về công ty và thu hút nhân tài. Các tác giả
Cohen, Sayag cũng nhận định rằng những kiểm toán viên này sẽ tập trung nâng cao
khả năng chuyên môn trong doanh nghiệp, và qua đó đầu tư cơng sức vào cơng
việc của mình để tăng cường khả năng thăng tiến.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác lại cho rằng điều này sẽ làm tổn hại đến
tính độc lập và khách quan của kiểm toán viên nội bộ bởi lẽ những kiểm tốn viên
mà có cơ hội trở thành quản lý sẽ thường tạo mối quan hệ thân thiết với lãnh đạo
cấp cao và ít có khả năng họ sẽ làm trái ý. Một số học giả cũng khơng đồng tình
với ý kiến của Cohen và Sayag; họ nói rằng kiểm tốn viên nội bộ tạm thời sẽ
khơng có động lực để nâng cao chất lượng hoạt động của bộ phận kiểm tốn. Hơn
nữa, từ phương diện của kiểm tốn bên ngồi, kết quả hoạt động của bộ phận kiểm
tốn mà có chương trình đào tạo quản lí thường khơng đáng tin cây.
Từ những mâu thuẫn trên, chúng ta đi tới giả thiết cuối cùng:
GT5: Chất lượng của kiểm tốn nội bộ có liên quan đến việc áp dụng
chương trình đào tạo quản lí.
Phương pháp nghiên cứu
1. Thu thập dữ liệu
Trong phạm vi đề án này, dữ liệu sử dụng cho việc phân tích được thu thập
từ nguồn thứ cấp, đó là các nghiên cứu về đề tài này trước đây tại các doanh
nghiệp Việt Nam. Cụ thể, đề án này sử dụng nghiên cứu tại ngân hàng thương mại
Đại Dương (Vũ Thị Nụ, 2017), ngân hàng thương mai Sài Gòn (Nguyễn Ngọc Hải,
2015), và ngân hàng TMCP công thương Việt Nam (Trần Văn Tùng, 2012).
Từ những dữ liệu có trong các nghiên cứu này, chúng ta có thể đo lường sức
ảnh hưởng của các yếu tố trên về mặt con số. Từ đó, sử dụng mơ hình hồi quy OLS
để xác định mức độ ảnh hưởng của mỗi yếu tố lên chất lượng của kiểm toán nội bộ.
2. Đo lường dữ liệu
a. Đo lường biến phụ thuộc.
Chất lượng của kiểm toán nội bộ (IAE) như ta đã đề cập ở trên là một yếu tố
phức tạp với nhiều định nghĩa còn gây tranh cãi. Vì vậy, có nhiều nghiên cứu đã
tập trung vào những cách thức để đo lường yếu tố này.
Cách tiếp cận thứ nhất là đánh giá quá trình hoạt động kiểm toán nội bộ như
là mức độ tuân thủ các chuẩn mực của ISPPIA hay khả năng thực hiện kế hoạch
kiểm toán. Tuy nhiên, cách thức đo lường này đã bỏ qua những yêu cầu thiết thực
đến từ phía doanh nghiệp và cổ đông mà chỉ tập trung vào việc đánh giá xem kiểm
toán viên đã thực hiện đúng nguyên tắc hay chưa. Một cách đo lường khác là đánh
giá dựa trên kết quả. Chất lượng của kiểm toán nội bộ được đo lường dựa trên chức
năng làm thỏa mãn nhu cầu của khách hang như ban quản lí hay hội đồng kiểm
toán. Dù phương pháp này được đánh giá cao hơn vì nó có thể được số hóa dễ dàng
hơn, việc đánh giá như vậy phụ thuộc ít nhiều vào ban quản lí và khó có thể mang
ra so sánh vì tình hình ở mỗi doanh nghiệp là khác nhau. Một cách thức đo lường
khác cũng thường được thấy là đo lường mức ảnh hưởng của công việc kiểm tốn
đến các q trình và hiệu quả làm việc. Với phương pháp này, để đánh giá được
chất lượng kiểm toán, chúng ta phải xác định được mức độ hoàn thành mục tiêu
của bộ phận. Phương pháp này mặc dù là khả thi nhất trong ba phương án về mặt lí
thuyết, tuy nhiên rất phức tạp và khó khan để đo lường được các biến số cho
phương pháp này.
Vì tính chất phức tạp như vậy, chúng ta sẽ khơng đi sâu vào việc tạo ra một
cách thức chi tiết để đo lường chất lượng kiểm toán nội bộ. Dữ liệu sẽ được thu
thập từ các nghiên cứu và từ đó sắp xếp vào các thang điểm tương ứng từ 1 đến 5:
với 1 là “hoàn toàn kém” và 5 là “xuất sắc”.
b) Đo lường biến độc lập.
Trong bài này chúng ta sẽ cố gắng khảo sát nhiều yếu tố nhất có thể.
- Trình độ của kiểm tốn viên (TĐ). Biến số này đơn giản được đo lường
bằng số năm người làm kiểm toán nội bộ được huấn luyện. Chúng ta chỉ đo lường
biến số này từ cấp bậc đại học trở lên vì nó có ảnh hưởng lớn hơn đến chun mơn
cơng việc hơn là các năm trước đó.
- Tính độc lập và khách quan của người làm kiểm tốn (ĐL). Với tính chất là
một biến số cảm tính, chúng ta khó có thể lượng hóa hồn tồn tính độc lập và
khách quan này. Do đó, từ những dữ liệu trong các nghiên cứu, tính độc lập sẽ
được đánh giá hoặc là 0 (không độc lập) hoặc 1 (độc lập với các cấp quản lý).
- Kiểm toán viên thuê ngoài (OUT): Câu hỏi đối với biến số này là doanh
nghiệp có đang sử dụng kiểm tốn viên th ngồi cho hoạt động quản trị nội bộ
hay khơng. Do đó, biến số này có giá trị là 0 nếu doanh nghiệp khơng th ngồi,
và có giá trị bằng 1 nếu doanh nghiệp thuê ngoài.
- Sự hỗ trợ của các cấp quản lí (SUP): Do có nhiều yếu tố lên quan đến biến
số hỗ trợ như mức độ hỗ trợ tài chính, nhân lực, biến số này rất phức tạp để có thể
hồn tồn lượng hóa. Đề án này sẽ đánh giá các biến số này theo thang từ 1 đến 5,
với 1 là “hồn tồn khơng được hỗ trợ” và 5 là “được hỗ trợ nhiệt tình”.
- Chương trình đào tạo quản lí (TRA): Tương tự như chương trình th kiểm
tốn viên bên ngoài, doanh nghiệp được đánh giá là 0 nếu họ khơng áp dụng
chương trình này, và 1 nếu họ áp dụng chương trình này trong bộ máy quản lí.
3. Xây dựng mơ hình
Từ những biến số nói trên, ta có mơ hình hồi quy:
IAE = B0 + B1 * TĐ + B2* ĐL + B3* OUT + B4* SUP + B5* TRA + u.
Thực tiễn
Case study 1: Khảo sát tại ngân hàng TCMP OceanBank
Kết quả tính tốn
Thống kê và tính tốn hồi quy các biến số tại ngân hang OceanBank được
cung cấp ở phụ lục 1.
Đối với kết quả tính tốn, ta có thể rút ra được 1 số kết luận như sau về
OceanBank:
- Chỉ sổ R^2 của mơ hình đạt 0.33, điều này có ý nghĩa rằng các thay đổi của
chất lượng kiểm toán tại OceanBank diễn ra là do các yếu tố độc lập như trình độ
kiểm tốn viên, tính khách quan, hỗ trợ từ phía quản lý,…
- Đối với giả thuyết 1, chúng ta cho rằng trình độ của người làm kiểm tốn
nội bộ sẽ có tác động tích cực tới chất lượng kiểm toán. Tuy nhiên, kết quả nghiên
cứu lại cho thấy rằng thực sự tác động này rất yếu ớt và hầu như khơng đáng kể.
Điều này có thể xảy ra do hoặc là giả thuyết trên đã sai, hoặc là do dữ liệu thu thập
được chưa đầy đủ để có thể đưa ra kết luận do việc áp dụng kiểm tốn nội bộ ở
Việt Nam cịn nhiều thiếu sót và chưa rộng rãi.
- Giả thuyết 2 về mối quan hệ giữa tính độc lập và khách quan của kiểm toán
nội bộ và chất lượng báo cáo. Theo kết quả tính tốn, chúng ta có thể nhận thấy
rằng mối liên hệ này là tích cực; khi kiểm tốn viên ở OceanBank hoạt động độc
lập với ban quản lý và hội đồng kiểm toán, chất lượng của hoạt động đã gia tăng
0.155 đơn vị. Kết quả này cũng tương tự như kết quả của nhiều nghiên cứu đi trước
đó.
- Giả thuyết 3 là về cơng tác th kiểm tốn viên từ bên ngoài. Tương tự như
giả thuyết 1, kết quả hồi quy cho biến số OUT không cho ra kết quả đáng kể; việc
th kiểm tốn viên bên ngồi ở OceanBank khơng có tác động lớn đến chất lượng
của báo cáo kiểm toán. Điều này cũng có thể được giải thích rằng việc th kiểm
tốn nội bộ từ bên ngồi ở Việt Nam chưa thực sự phát triển, mặc dù việc thue
kiểm toán tài chính đã trở nên phổ biến.
- Đối với giả thuyết về sự hỗ trợ đến từ ban quản lý, khơng nằm ngồi mong
đợi, kết quả hồi quy cho thấy ban quản lý có tác động tích cực đến chất lượng kiểm
tốn theo chiều hướng tương tự như tính độc lập và khách quan. Kết luận này cũng
đã được thể hiện trong nhiều nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa ban quản
lý và bộ phận kiểm toán nội bộ.
- Ở giả thuyết cuối cùng, chúng ta khảo sát tác động của chương trình đào
tạo quản lí. Khá bất ngờ là yếu tố này là yếu tố tác động tích cực mạnh mẽ nhất
trong các yếu tố đến chất lượng kiểm toán; khi OceanBank áp dụng hay mở rộng
mục tiêu đào tạo quản lý thông qua bộ phận kiểm tốn nội bộ, kiểm tốn viên được
khuyến khích đầu tư vào công việc để chứng tỏ bản thân cho các cấp trên. Những
mặt trái của yếu tố này như chúng ta đề cập ở trên hiện chưa thể hiện.
Bàn luận
Nhìn chung, kết quả tính tốn và thống kê của ta đã thể hiện rằng chất lượng
kiểm toán ở OceanBank chủ yếu được tác động bởi 3 yếu tố: tính độc lập và khách
quan của kiểm toán viên, sự hỗ trợ từ ban quản lý trong q trình kiểm tốn và sự
áp dụng các chương trình đào tạo quản lý.
Kết quả này cũng có thể được xem là hợp lý và thống nhất với nhiều nghiên
cứu ở các doanh nghiệp nước ngoài. Trong các tác phẩm của Albrecht, Altwaiji,
Cohen,…, sự hỗ trợ đến từ ban quản lý là một trong các yếu tố trọng yếu quyết
định chất lượng kiểm toán. Nếu thiếu đi sự hỗ trợ này, kiểm toán nội bộ khơng thể
hồn tồn khách quan và độc lập, cũng như khơng có đủ tài lực và nhân lực để
hồn thành cơng việc một cách hiệu quả. Và trên hết, nếu khơng có sự hỗ trợ, kiểm
tốn viên sẽ không thể thăng tiến và phát triển sự nghiệp.
Case study 2: Khảo sát tại ngân hàng TMCP Sài Gòn.
Kết quả hồi quy
Tương tự như case study 1, kết quả hồi quy và thống kê các yếu tố tại ngân
hàng TMCP Sài Gòn sẽ được thể hiện trong phụ lục 2.
Từ kết quả tính tồn, chúng ta có thể rút ra nhận xét về ảnh hưởng của các
nhân tố lên chất lượng của kiểm toán nội bộ tại ngân hàng Sài Gịn như sau:
- Mơ hình có ý nghĩa thống kê với hệ số p < 0.01, do đó chúng ta có thể sử
dụng các kết quả thống kê từ phép tính hồi quy.
- Chỉ số R^2 = 0.63, cao hơn hẳn so với ngân hàng OceanBank. Điều này
cho thấy rằng ở ngân hàng Sài Gòn, vai trò của các yếu tố độc lập đã tác động
mạnh hơn tới chất lượng kiểm toán; khi chất lượng kiểm toán thay đổi, 63% sự
thay đổi đó diễn ra do ảnh hưởng từ các yếu tố độc lập.
- Về mối quan hệ giữa chất lượng kiểm tốn và trình độ của kiểm tốn viên,
khác với OceanBank, ngân hàng Sài Gòn cho thấy mối quan hệ cùng chiều rõ rệt
giữa 2 yếu tố này. Khi kiểm tốn viên tại ngân hàng Sài Gịn được trải qua nhiều
đào tạo và huấn luyện hơn, cũng như thu thập được nhiều kinh nghiệm hơn, chất
lượng của công việc của họ tiến triển rõ rệt.
- Giả thuyết 2 về tính độc lập và khách quan cũng được xác nhận ở trong mơ
hình. Tính độc lập và khách quan của kiểm tốn viên có tác động tích cực tới chất
lượng của kiểm toán nội bộ.
- Tuy nhiên, giả thuyết 3 lại không được nghiên cứu riêng biệt trong case
study này vì dữ liệu liên quan đến th kiểm tốn nội bộ từ bên ngồi khơng được
đề cập rõ rệt. Tuy nhiên, báo cáo có thảo luận vấn đề kích cỡ của bộ máy kiểm tốn
cũng như là mối quan hệ giữa kiểm toán bên trong và ngồi doanh nghiệp. Kết quả
tính tốn cho thấy rằng, khi bộ phận kiểm tốn càng có nhiều nhân lực, chất lượng
của họ cũng tương ứng gia tăng; tương tự, khi kiểm tốn bên trong và bên ngồi có
mối quan hệ tốt, chất lượng của cơng tác kiểm tốn cũng tương ứng phản ánh. Dựa
theo các lý thuyết chúng ta đã bàn luận ở giả thiết 3, chúng ta có thể khẳng định
rằng việc th thêm kiểm tốn bên ngồi rất có thể sẽ giúp ngân hàng Sài Gịn gia
tăng giá trị từ hoạt động này.
- Kết quả tính tốn ở ngân hàng Sài Gòn một lần nữa đồng ý với kết quả tính
tốn ở OceanBank về mối quan hệ giữa hỗ trợ từ nhà quản lý và chất lượng kiểm
tốn. Sự hỗ trợ từ phía quản lý cũng là yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả kiểm
tốn rõ rệt nhất trong tất cả các yếu tố.
- Chúng ta bỏ qua việc xác minh giả thuyết cuối cùng do dữ liệu khơng đủ.
Bàn luận
Nhìn chung, các kết quả từ ngân hàng Sài Gòn đều hầu hết thống nhất với
ngân hàng OceanBank. Hai ngân hàng đều đồng ý rằng nếu khơng có sự hỗ trợ từ
phía quản lý, kiểm tốn nội bộ khơng thể hồn tồn hoạt động độc lập và họ sẽ ở
trong thế khó khăn về mặt tài lực và nhân lực. Tại ngân hàng Sài Gòn, sự hỗ trợ từ
quản lý cũng là nhân tố đóng góp lớn nhất, và có thể được coi là nền tảng của kiểm
tốn nội bộ hiệu quả.
Mặc dù khơng khảo sát các yếu tố trên diện rộng như ngân hàng OceanBank,
kết quả thống kê tại ngân hàng Sài Gòn đã cho thấy một nghiên cứu tập trung hơn
vào các yếu tố trọng điểm như trình độ của người làm kiểm tốn, sự hỗ trợ từ quản
lý và tính độc lập và khách quan. Nhờ đó, ta có căn cứ để khẳng định chắc chắn
rằng các giả thiết có liên quan đến 3 yếu tố này được xác minh chính xác.
Case study 3: Khảo sát tại ngân hàng Công thương Việt Nam
Kết quả hồi quy
Kết quả hồi quy và thống kê tại ngân hàng Công Thương Việt Nam được
cung cấp tại phụ lục 3.
Từ kết quả tính tốn, chúng ta có thể rút ra các kết luận về các giả thiết nêu
trên.
- Mơ hình cho thấy rằng tại ngân hàng Cơng Thương Việt Nam, yếu tố chất
lượng kiểm tốn bị ảnh hưởng đáng kể bởi các yếu tố độc lập tương tự như ngân
hàng Sài Gòn. Ảnh hưởng của các yếu tố độc lập chiếm tới 62.5% sự thay đổi
trong chất lượng kiểm tốn.
- Kết quả tính tốn ở ngân hàng Cơng Thương đồng tình với ngân hàng Sài
Gịn về vấn đề chất lượng và trình độ của người làm kiểm tốn. Điều này chứng tỏ
rằng, chất lượng của cơng tác kiểm tốn có liên hệ mật thiết với trình độ của người
kiểm tốn thi hành cơng tác đó. Giả thuyết 1 một lần nữa được chứng minh.
- Ở giả thiết 2, mặc dù đã thể hiện rằng mối liên hệ giữa tính độc lập và chất
lượng kiểm tốn là cùng chiều, ngân hàng Công Thương cho thấy đây là mối quan
hệ có ảnh hưởng nhất tới chất lượng kiểm toán.
- Với giả thiết giữa sự hỗ trợ từ ban quản lý và chất lượng kiểm tốn, kết quả
tính tốn lại phủ nhận mối quan hệ này. Vai trò của hỗ trợ trong mơ hình hồi quy
khơng mang ý nghĩa thống kê, ý nghĩa rằng chất lượng kiểm toán nội bộ khơng liên
quan đến việc ban quản lý có hỗ trợ kiểm tốn viên hay khơng. Kết quả này khá
hiếm gặp kể cả trong các nghiên cứu đi trước, duy chỉ có Rahadhitya (2015) và
một số tác giả khác giải thích cho vấn đề này rằng ban quản lý khơng áp dụng các
kiến nghị kiểm tốn, do đó vai trị của họ cũng mờ nhạt trong báo cáo sau này.
Tương tự, kết quả xảy ra do có thể rằng vai trị của kiểm tốn nội bộ trong ngân
hàng Cơng Thương chưa được thực sự coi trọng và đề cao.
- Nghiên cứu tại ngân hàng Công Thương, khác với ngân hàng OceanBank
và Sài Gòn, chỉ khảo sát mối quan hệ giữa kiểm tốn bên trong và bên ngồi doanh
nghiệp. Khảo sát cho thấy mối quan hệ giữa hai kiểm toán này vào hiệu quả kiểm
toán nội bộ là cùng chiều. Như giả thiết 3 đã đề cập, nếu 2 kiểm tốn này có mối
quan hệ tốt, kiểm tốn viên từ bên ngồi sẽ có khả năng tiếp cận được nhiều thơng
tin thiết thực hơn, và từ đó nâng cao chất lượng cơng việc của họ nhờ vào tính độc
lập và trình độ có sẵn. Tương tự, những kiểm tốn viên bên trong cũng có them cơ
hội học hỏi và nâng cao chun mơn của chính mình. Về một khía cạnh nào đó,
chúng ta có thể nói rằng ngân hàng nên th kiểm tốn viên bên ngồi nếu họ có
mối quan hệ tốt với kiểm tốn bên trong cơng ty.
Bàn luận
Nhìn chung, các kết quả từ ngân hàng Công Thương đồng nhất hầu hết với
các ngân hàng khác. Tính độc lập và trình độ của người kiểm tốn đều là các yếu tố
quan trọng trong việc quyết định chất lượng kiểm toán.
Tuy nhiên, khác với các ngân hàng khác, ngân hàng Công Thương lại không
chứng minh rõ rệt được ảnh hưởng của sự hỗ trợ của quản lý tới chất lượng kiểm
toán. Nếu như ở các ngân hàng trên, sự hỗ trợ này là yếu tố chủ chốt trong công tác
hoạt động của bộ phận kiểm tốn, ở ngân hàng Cơng Thương, yếu tố chủ chốt lại là
tính độc lập khách quan của kiểm toán viên.
Nhìn ra thế giới
Chúng ta phải thừa nhận rằng nguồn thơng tin từ tồn thế giới là rất lớn, và
học từ nghiên cứu trên đất nước ta đơn thuần là không đủ. Bên cạnh nghiên cứu ở
các ngân hàng trên, chúng ta cũng nên nhìn vào các kết luận rút ra dựa trên dữ liệu
ở các quốc gia khác. Đề án này sẽ đề cập đến kết luận từ Malaysia và Campuchia.
Malaysia
- Tương tự như Việt Nam, Malaysia đồng ý rằng sự thiếu hụt kiểm tốn viên
có trình độ và có kinh nghiệm đã tạo ra những quãng trễ trong cơng tác kiểm tốn.
Tuy nhiên kết quả này có khác biệt với Việt Nam vì tại Malaysia, trình độ kiểm
tốn viên là yếu tố trọng yếu.
- Bên cạnh trình độ, các nghiên cứu ở Malaysia cũng đặt vấn đề với các yếu
tố khác như tính độc lập, khách quan và hỗ trợ của quản lý. Trong những yếu tố
này, nhiều học giả đã đồng ý rằng hỗ trợ của quản lý là yếu tố quan trọng nhất.
- Một điểm khác so với báo cáo của Việt Nam là Malaysia tính tốn cả
những yếu tố khơng nằm trong tầm kiểm sốt của kiểm toán viên. Tuy nhiên,
những kết luận về yếu tố này chỉ dừng ở mức phỏng đoán chứ chưa thực sự có kết
quả tính tốn.
Campuchia
- Các nghiên cứu ở Campuchia đã sử dụng cả dữ liệu thứ cấp và sơ cấp, do
đó kết luận của họ sẽ có phần đa dạng hơn.
- Những yếu tố trong nghiên cứu ở Campuchia có phần khác biệt do vấn đề
về tổ chức bộ máy, nhưng nhìn chung, họ cũng nhận ra được những kết luận tương
tự.
- Campuchia khẳng định rằng để đạt được kiểm toán nội bộ hiệu quả, một hệ thống
kiểm soát hiệu quả phải được lập nên. Trong hệ thống này, những yếu tố như thơng
tin, liên lạc, và kiểm sốt là những yếu tố quan trọng. Từ kết luận này, chúng ta có
thể suy ra rằng ban quản lý và bộ phận kiểm tốn phải có liên lạc rõ rang và thơng
tin cần thiết để kiểm toán phải được cung cấp đầy đủ.
- Campuchia đồng ý rằng trình độ của người làm kiểm toán là rất quan trọng
đối với chất lượng kiểm tốn, và điều này có tác động trực tiếp đến những giá trị
mà doanh nghiệp có thể nhận được. Nghiên cứu của họ đã chứng minh rằng hiệu
năng làm việc của kiểm toán viên phải được cẩn trọng kiểm tra và đánh giá để có
thể nâng cao hiệu năng kiểm toán nội bộ.
- Yếu tố cuối cùng được nêu ra đó là tính độc lập và khách quan. Tại các
doanh nghiệp Campuchia, yếu tố này có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả kiểm
toán nội bộ, và hơn thế nữa, họ đề đạt rằng tính độc lập này phải được đo lường kĩ
càng từ hai phía, từ phía quản lý và trong cơng tác kiểm tốn. Tại Campuchia,
những người nhận lời khun kiểm tốn cũng thường coi trọng tính độc lập để
đánh giá được độ tin cậy của ý kiến.
Đánh giá chung
Đề án với dữ liệu đến từ 3 ngân hàng ở Việt Nam đã khảo sát và phân tích sự
ảnh hưởng của trình độ kiểm tốn viên, tính độc lập và khách quan, hỗ trợ từ quản
lý, chương trình th kiểm tồn viên bên ngồi và chương trình đào tạo quản lý
thơng qua kiểm tốn nội bộ lên chất lượng kiểm tốn nội bộ của cơ sở đó. Qua các
kết quả, ta có thể thấy rằng trong hầu hết các trường hợp, tính độc lập và khách
quan là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng kiểm toán nội bộ.
Hai nhân tố khác quan trọng khơng kém đó là trình độ của kiểm tốn viên và
sự hỗ trợ đến từ ban quản lý. Mặc dù những yếu tố này không đạt được sự thống
nhất trên tất cả các nghiên cứu, sức ảnh hưởng của chúng được chứng tỏ ở phần
lớn mơ hình. Ngồi ra, ví dụ như tại OceanBank, trình độ của kiểm tốn viên
khơng đóng vai trị đáng kể có thể là do tình trạng áp dụng chưa được rộng rãi
cũng như hiểu rõ, điều tương tự có thể xảy ra ở ngân hàng Công Thương và dẫn
đến sức ảnh hưởng yếu của sự hỗ trợ của quản lý.
Đối với những nhân tố ít được chú ý đến như chương trình đào tạo quản lý
qua kiểm tốn nội bộ, chỉ có duy nhất số liệu ở OceanBank là đủ để phân tích các
yếu tố này. Dù số lượng dữ liệu hạn chế, chúng ta có thể cho rằng những yếu tố đó
có ảnh hưởng tới một mức độ nào đó. Doanh nghiệp cần phải hiểu rõ mơ hình cũng
như tính chất hoạt động của mình để có thể lựa chọn nhân tố phù hợp.
Kiến nghị
Thông qua đánh giá chung cũng như nghiên cứu xuyên suốt các ngân hàng,
chúng ta có thể đưa ra một số kiến nghị nhằm giúp tăng cường chất lượng kiểm
toán tại các cơ sở này.
1. Tập trung vào các chương trình đào tạo kiểm tốn nội bộ để làm tăng chất
lượng kiểm toán. Điều này nên được chú trọng ở các cơng ty và nó có thể được thể
hiện ở khâu tuyển dụng đầu vào hoặc các chương trình phụ đạo cho các nhân viên
có sẵn trong cơng ty. Trình độ của người làm kiểm tốn có thể được phản ánh qua
chuyên môn ngành học, số năm kinh nghiệm, thông thạo các chuẩn mực, sở hữu
các chứng chỉ chuyên nghiệp như ACCA, CPA.
2. Bộ phận quản lý nên chú trọng và tơn trọng bộ phận kiểm tốn nội bộ. Họ
cần tập trung hơn nữa vào các kiểm toán viên trung thực và chăm chỉ, những người
mà có thể đưa ra ý kiến thiết thực có lợi cho doanh nghiệp. Ban quản lý cũng cần
phải tạo điều kiện cũng như cung cấp nguồn lực cần thiết để kiểm toán viên có thể
tác nghiệp một cách hiệu quả nhất.
3. Bên cạnh việc cung cấp những hỗ trợ cần thiết, ban quản lý cũng nên đưa
ra mức thưởng và chi phí hợp lý để thu hút kiểm tốn viên bên ngồi cũng như là
khích lệ nhân viên của cơng ty. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng mối quan hệ hợp tác tốt
giữa kiểm tốn nội bộ và kiểm tốn ở bên ngồi sẽ làm tăng hiệu quả của cơng tác
kiểm tốn. Việc đưa ra mức thưởng hợp lý sẽ giúp giữ nhân viên lại với công ty và
làm họ thỏa mãn với cơng việc. Một lựa chọn khác để khích lệ nhân viên là chương
trình thăng tiến dành riêng cho nhân viên ở bộ phận kiểm toán. Nếu đạt được kết
quả tốt, nhân viên đó sẽ được thăng chức thành quản lý hoặc kiểm toán cấp cao
hơn. Tuy nhiên, yếu tố này chưa được chứng tỏ rộng rãi ở các doanh nghiệp, biện
pháp này nên được áp dụng cẩn thận.