Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

NGHIÊN CỨU TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.41 KB, 36 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN
□&□

ĐỀ ÁN KIỂM TOÁN
Đề tài: NGHIÊN CỨU TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ
TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

Giáo viên hướng
dẫn
Sinh viên thực
hiện

: TS. Bùi Thị Minh Hải
: Bùi Diệu Linh

Chun ngành

: Kiểm tốn

Lớp

: Quản lý đơ thị 58

Mã số sinh viên

: 11162762


Hà Nội, tháng 4 năm 2020



LỜI NÓI ĐẦU
Trải qua các giai đoạn phát triển của xã hội, hoạt động của các tổ chức, các đơn
vị, các doanh nghiệp ngày càng được mở rộng phong phú. Khối lượng và tính phức tạp
của các nghiệp vụ khơng ngừng tăng lên. Do đó, sức ép đối với nhà quản lý cũng ngày
càng lớn hơn. Nhà quản lý lúc này cần tìm kiếm những phương sách quản lý mới cho
đơn vị của mình và đã tìm tới kiểm tốn nội bộ ( KTNB).
Đặc biệt trong cCác ngân hàng thương mại, nắmăm giữu vị trí là một trung gian
tài chính cực kỳ quan trọng trong tất cả các nền kinh tế, làm việc trong lĩnh vực vô
cùng nhạy cảm là về tiền và các dịch vụ liên quan tiền, quản lý vòng xoay tiền tệ tạo
nên một lượng lớn các nghiệp vụ và các tài sản phát sinh khác nhau chính vì vậy việc
hạch tốn có sai sót, các rủi ro lớn nhỏ khác nhau trong quá trình vận hành ngân hàng
thương mại là điều khó có thể tránh khỏi, để ngăn ngừa các sai sót và rủi ro này việc
gắt gao và hồn thiện từ khâu kiểm sốt nội bộ là vô cùng cần thiết, một nhân tố không
hề nhỏ góp phần vào sự ổn định và phát triển của các ngân hàng thương mại hiện nay.
Trong quá trình hoạt động, KTNB tại Việt Nam đã có những bước phát triển
nhất định mang lại những thành cơng và đóng góp tích cực trong hoạt động quản lý và
kiểm sốt nội bộ đặc biệt là tại các ngân hàng, doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, bên
cạnh đó, trong tổ chức và hoạt động của KTNB vẫn còn những hạn chế nhất định. Để
ngày càng phát triển và thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình, cũng giống
như bất cứ đơn vị nào khác, KTNB cần phải liên tục hồn thiện tổ chức và cải tiến
hoạt động của mình để phù hợp với tình hình mới và đáp ứng được những yêu cầu
mới. Đặc biệt là trong các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, hệ thống ngân hàng sau
thời kỳ phát triển nhanh cả về quy mô và số lượng đã bộc lộ ra rất nhiều vấn đề về
tăng trưởng nóng, mức độ rủi ro cao trong khi tính minh bạch về hoạt động kinh doanh
và các vấn đề sở hữu đã và đang gây ra những tác động tiêu cực không nhỏ đến sự ổn
định và tăng trưởng của nền kinh tế đất nước. Một trong những ngun nhân cơ bản là
do cơng tác kiểm tốn nội bộ tại các ngân hàng chưa được tổ chức một cách có hiệu
quả chưa đảm bảo những nguyên tắc và yêu cầu chung trong quá trình vận hành


P a g e 1 | 37


Nhận thấy đây là một vấn đề mang tính thời sự nên em đã lựa chọn đề tài:
“Nghiên cứu tổ chức kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng thương mại Việt Nam”.
Đề tài gồm có 3 chương chính:
Chương 1: Lý luận chung về tổ chức bộ máy Kiểm toán nội bộ trong ngân
hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng tổ chức bộ máy Kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam.
Chương 3: Đánh giá và đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy
Kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng thương mại tại Việt Nam.

P a g e 2 | 37


CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY KIỂM TOÁN NỘI
BỘ TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng
thương mại
1.1.1.
Khái niệm về kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng
thương mại
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tín dụng chuyên
kinh doanh tiền tệ và các hoạt động ngân hàng vì mục tiêu lợi
nhuận
Ngân hàng thương mại có đặc điểm:
- Là một định chế tài chính trung gian
- Hoạt động đa dạng và tổng hợp nhiều nghiệp vụ, dịch

vụ.
- Thu hút nguồn vốn trước hết bằng huy động tiền gửi,
phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, sau đó dưt dụng nguồn
vốn này thực hiện cho vay sản xuất kinh doanh, cho vay
tiêu dung. Ngồi ra cịn có các dịch vụ khác như thanh
tốn, chuyển tiền, bảo lãnh, ủy thác,..
- Thông qua hoạt động cho vay và thanh toán, hệ thống
các ngân hàng thương mại có thể tạo ra lượng bút tệ, là
bộ phận quan trọng trong khối cung tiền tệ của nền kinh
tế, có ảnh hưởng lớn đến chính sách tiền tệ của ngân
hàng trung ương.
- Ngoài ra, tổng tài sản của ngân hàng thương mại luôn là
khối tài sản lớn nhất trong tòa hệ thống ngân hàng thương
mại.

P a g e 3 | 37


Bắt nguồn từ thế kỷ 13, nghề kiểm toán nội bộ (KTNB) ban
đầu chỉ chịu trách nhiệm kiểm toán báo cáo tài chính và tập trung
vào cơng tác kiểm tra kế tốn, thơng tin tài chính của cơng ty. Tuy
nhiên, vai trò của KTNB hiện đại đã được mở rộng, bao gồm cơng
tác kiểm tốn tính hiệu quả và tính tuân thủ của mọi hoạt động
cũng như tư vấn hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong doanh
nghiệp.

Hiện nay, kiểm tốn nội bộ đang chiếm lĩnh một vị trí rất
quan trọng trong bộ máy hoạt động kinh doanh của các ngân
hàng thương mại và trong cả các doanh nghiệp từ doanh nghiệp
trong và ngoài nước, doanh nghiệp tư nhân cũng như doanh

nghiệp nhà nước và trong các ngân hàng thương mại, KTNB là
một bộ phận bắt buộc và không thể thiếu trong quá trình tổ
chức bộ máy hoạt động tại đơn vị, giúp cho nhà quản lý có thể
kiểm soát hoạt động ổn định và quản lý rủi ro tốt hơn, giúp đạt
được mục tiêu kinh doanh.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về kiểm toán nội bộ.
Lần đầu tiên The IIA (Viện kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ) đưa ra định
nghĩa về KTNB là vào năm 1978. Theo đó: “KTNB là một chức
năng thẩm định độc lập được thiết lập bên trong một tổ chức để
xem xét và đánh giá các hoạt động của tổ chức đó, với tư cách
là một sự trợ giúp đối với tổ chức đó”. Theo quan điểm này,
KTNB là một hoạt động do chính đơn vị hay nhân viên của đơn
vị thực hiện mà ở đó KTV làm việc một cách độc lập không bị
ràng buộc bởi các yếu tố ảnh hưởng đến phạm vi và hiệu quả
của công việc. Quan điểm này cũng thể hiện rõ vai trò hoạt
động của KTV nội bộ là điều tra phát hiện sự việc, nhận định và
đánh giá các hoạt động của tổ chức để giúp đỡ, hỗ trợ cho tổ
P a g e 4 | 37


chức. Đến năm 1988, The IIA đã bổ sung thêm vào định nghĩa
này một số nội dung và giải thích rõ hơn về KTNB: “Mục tiêu của
KTNB là giúp đỡ cho thành viên của tổ chức thực hiện một cách
hiệu quả nhiệm vụ; Kết thúc kiểm toán KTNB phải thực hiện
việc phân tích, đánh giá, đưa ra đề xuất, tư vấn và cung cấp
thông tin về hoạt động đã kiểm tra”. Qua đây, có thể thấy định
nghĩa này đã phần nào trình bày được tương đối tồn diện quan
điểm về KTNB.
“ KTNB là việc thiết lập tổ chức thực hiện trong nội bộ đơn
vị kế tốn các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ phù

hợp với quy định của pháp luật nhằm đảm bảo phòng ngừa và
phát hiện, xử lý kịp thời rủi ro và đạt được u cầu đề ra” Trích
điều 39 Luật kế tốn số 88/2015/QH13, có hiệu lực từu
01/01/2017.
Tóm lại, từ những phân tích trên chúng ta có thể khái quát
một định nghĩa về KTNB như sau: KTNB là một bộ máy thực hiện
chức năng xem xét, đánh giá độc lập, có hệ thống về các hoạt
động khác nhau trong phạm vi đơn vị, phục vụ nhu cầu quản lý
nội bộ đơn vị.Về nội dung kiểm tốn bao gồm cả kiểm tra chất
lượng thơng tin kế tốn, tài chính và nhiều lĩnh vực khác của
quản lý. KTNB ngày càng trở thành phương sách quản lý có hiệu
quả phục vụ đắc lực cho q trình quản lý điều hành tổ chức
hướng tới hiệu quả của hoạt động, hiệu năng của quản lý và
hiệu lực của quản trị nội bộ.
Từ việc phân tích để khái quát lên định nghĩa về KTNB
trong khu vực ngân hàng thương mại Hệ thống KSNB tại ngân
hàng thương mại là tổng thể các cơ chế, chính sách, quy trình, quy
định nội bộ, cơ cấu tổ chức của đơn vị thuộc Ngân hàng thương mại
P a g e 5 | 37


được thiết lập phù hợp với các quy định của pháp luật và được tổ
chức thực hiện nhằm đảm bảo các nguồn lực được quản lý và sử
dụng đúng pháp luật, đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả; ngăn ngừa
rủi ro, phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi gian lận, sai sót; cung cấp
thơng tin trung thực, phục vụ kịp thời cho việc ra các quyết định
quản lý; đảm bảo thực hiện được các mục tiêu đã đề ra.
Hoạt động KTNB của các NHTM thông thường được thiết lập
dựa trên 2 cơ sở pháp lý cụ thể như sau:
(i)


Khn khổ kiểm tra, kiểm sốt của Ủy ban kiểm toán nội

(ii)

bộ (IIA)
Các chuẩn mực xem xét kiểm soát nội bộ trong thực hiện
kiểm tốn báo cáo tài chính của AICPA

Nguyên tắc hoạt động trong kiểm toán nội bộ tại ngân hàng thương
mại cũng tương tự như các bộ máy kiểm soát nội bộ của các đơn vị
doanh nghiệp khác đều tuần thủ các nguyên tắc thiết kế KTNB. Hệ
thống KTNB cần được xây dựng dựa trên năm nguyên tắc chỉ đạo
chung có hiệu quả đó là:
(i)

Tập trung dân chủ

(ii)

Phân công, phân nhiệm

(iii)

Bất kiêm nhiệm

(iv)

Độc lập trong hoạt động


(v)

Phê chuẩn, ủy quyền.

1.1.2.

Vai trị, chức năng của kiểm tốn nội bộ trong các

ngân hàng thương mại
 Vai trị của kiểm tốn nội bộ trong ngân hàng
thương mại
Xã hội ngày càng phát triển, kéo theo những thách thức
trong quá trình hội nhập kinh tế càng làm gia tăng rủi ro cho
hoạt động của các ngân hàng thương mại. Càng nhiều biến
P a g e 6 | 37


động thị trường, càng nhiều yếu tố không chắc chắn, mối đe
dọa lại càng lớn. Sự thành công hay thất bại chịu ảnh hưởng
trực tiếp từ các rủi ro liên quan và việc các rủi ro đó được kiểm
sốt như thế nào. Do đó, cần làm tốt cơng tác quản trị rủi ro
thông qua việc sử dụng một cách đơn lẻ hoặc kết hợp các cơng
cụ kiểm sốt và quản lý rủi ro và KTNB là một trong số những
công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc đó. KTNB ngày càng có vai trị
quan trọng đặc biệt trong các đơn vị, tổ chức nói chung và ngân
hàng thương mại nói riêng, tham gia vào nhiều lĩnh vực khác
nhau với quy mô rộng và địa bàn hoạt động phân tán. Cụ thể:


Thứ nhất, KTNB thể hiện vai trò giám sát nhằm đảm

bảo các hoạt động của ngân hàng tuân thủ theo các quy
định pháp lý, bảo vệ tài sản, phòng tránh và phát hiện
kịp thời các gian lận và sai sót có thể xảy ra trong tổ



chức
Thứ hai, KTNB góp phần nâng cao hiệu quả, năng lực
trong quản lý. Thông qua việc giám sát, theo dõi sự tuân
thủ thực hiện các quy định đã đề ra trong từng hoạt
động, KTNB không chỉ củng cố nền nếp hoạt động mà
còn chỉ ra những thiếu sót, những bất ổn trong chuỗi
hoạt động của ngân hàng thương mại, các yếu kém
trong quy định đề ra của nội bộ, từ đó giúp cho cấp
quản lý có những điều chỉnh trong hoạt động hay
nguyên tắc, nhằm nâng cao năng lực quản lý, hiệu quả



kinh doanh của ngân hàng.
Ngồi ra, KTNB cịn đóng vai trị tư vấn cho nhà quản lý
ở nhiều khía cạnh như tăng cường tính hiệu lực của kiểm
sốt nội bộ, đảm bảo tính hữu hiệu quả hệ thống quản
P a g e 7 | 37


trị rủi ro,... nhằm góp phần tại nên giá trị gia tăng cho
các cơ quan và tổ chức.
Có thể thấy, KTNB nói chung và KTNB tại ngân hàng
thương mại nói riêng đóng vai trị là người bảo vệ giá trị cho tổ

chức, là một quan sát viên độc lập, nhằm đảm bảo hoạt động
của tổ chức tuân thủ các quy định pháp luật quốc gia, đạo đức
kinh doanh và quy chế hoạt động của tổ chức. KTNB chịu trách
nhiệm phát hiện ra những sai sót trong hoạt động của tổ chức,
giữ vai trò là người tư vấn và định hướng cho ban quản lý về
kiểm soát rủi ro nhằm mục đích đạt được mục tiêu hoạt động
kinh doanh.
 Chức năng của kiểm toán nội bộ trong ngân hàng
thương mại
Trong quá trình hoạt động với các nghiệp vụ chuyên về
tiền và dịch vụ ngân hàng, KTNB ngân hàng thương mại cần ba
chức năng cơ bản, đó là chức năng đánh giá tính hữu hiệu và
tính hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp, chức năng
tuân thủ nhằm giám sát việc tuân thủ pháp luật và các quy tắc
nội bộ của tổ chức tín dụng dành cho các đối tượng chịu sự kiểm
toán và cuối cùng là chức năng kiểm toán hoạt động tài chính
xác nhận tính trung thực, hợp lý, hợp pháp của các báo cáo tài
chính của đơn vị tín dụng.
Bên cạnh đó, cịn có chức năng tư vấn bao gồm việc đánh
giá và khuyến nghị cho ban lãnh đạo và người đứng đầu tổ chức
về quan điểm, nhận thức cũng như văn hóa quản lý rủi ro trong
tổ chức để nâng cao tính hiểu quả của các chính sách quản lý
rủi ro. Tại đây, KTNB không chỉ hướng đến đánh giá thông tin
P a g e 8 | 37


trong q khứ mà cịn hướng đến đánh giá thơng tin trong
tương lai thông qua các dự báo và dự tốn, khơng chỉ tập trung
vào thơng tin tài chính mà cịn hướng đến các thơng tin phi tài
chính. Như các quan điểm trước đây cho rằng kiểm toán nội bộ

chịu trách nhiệm trong việc kiểm tốn báo cáo tài chính và tập
trung vào cơng tác kiểm tra kế tốn, thơng tin tài chính của
cơng ty. Tuy nhiên quan điểm của kiểm toán nội bộ hiện đại đã
được mở rộng chức năng của KTNB cũng khơng cịn giới hạn ở
cơng tác kiểm tra báo cáo tài chính nữa mà thêm vào đó là
cơng tác giám sát và đánh giá tính hiệu quả của hoạt động,
hiệu năng quản lý cũng như tư vấn cho nhà quản lý hồn thiện
hệ thống kiểm sốt nội bộ
Chức năng tiếp theo của kiểm toán nội bộ là giúp ngân
hàng cải tiến những điểm yếu từ hệ thống quản lý và quản trị
doanh nghiệp. Bằng cách phân tích, kiểm tra, giám sát quy
trình hoạt động của các phịng ban trong bộ máy kinh doanh,
kiểm tốn nội bộ sẽ đưa ra những lời tư vấn giúp ngân hàng
hoạt động năng suất và hiệu quả hơn. Thực tế trên thế giới, các
ngân hàng có bộ phận kiểm tốn nội bộ hoạt động hiệu quả thì
khả năng gian lận thấp và hiệu quả kinh doanh cao hơn.
Nói tóm lại, KTNB có thể đem lại cho đơn vị, tổ chức rất
nhiều lợi ích. Đây là cơng cụ giúp phát hiện và cải tiến những
điểm yếu trong hệ thống quản lý của đơn vị. Thơng qua cơng cụ
này, nhà quản lý có thể kiểm soát hoạt động tốt hơn, quản lý rủi
ro tốt hơn, tăng khả năng đạt được các mục tiêu kinh doanh.
Một tổ chức có kiểm tốn nội bộ sẽ làm gia tăng niềm tin của
các cổ đông, các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán về hệ
thống quản trị ở đây. Các thống kê trên thế giới cho thấy những
P a g e 9 | 37


đơn vị có phịng kiểm tốn nội bộ thường có báo cáo đúng hạn,
báo cáo tài chính có mức độ minh bạch và chính xác cao, khả
năng gian lận thấp và cuối cùng là hiệu quả sản xuất kinh

doanh cao hơn so với các đơn vị khơng có phịng kiểm toán nội
bộ.
1.2. Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong ngân hàng
thương mại
1.2.1.
Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ
Khác với các doanh nghiệp bình thường, ngân hàng thương
mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, thanh tốn, liên quan đến
tồn bộ nền kinh tế, chính vì vậy tổ chức bộ máy kiểm toán nội
bọ trong các ngân hàng thương mại cũng có những đặc thù đặc
biệt để tối ưu hóa cho khả năng kiểm sốt.
Bộ máy kiểm tốn phải tổ chức sao cho có khả năng hoạt
động hiệu quả, có tính kinh tế và sự hợp lý, áp dụng vào thực
tiễn phải hiệu quả, dễ dàng tính tốn rủi ro, minh bạch trong
chế độ thơng tin báo cáo, hệ thống thơng tin và chế độ tài chính
kế toán
 Thứ nhất, xét theo phạm vi hoạt động của KTNB:
Xét theo phạm vi hoạt động của KTNB , có hai mơ hình cơ bản
để tổ chức kiểm tốn nội bộ: tập trung và phân tán.


Tổ chức kiểm toán theo mơ hình tập trung: thường được
hiểu là chỉ tổ chức KTNB tại bộ máy hoạt động cấp cao
như công ty mẹ, tổng cơng ty mà khơng tổ chức kiểm
tốn tại nội bộ các đơn vị thành viên cấp dưới. Bộ phận
KTNB được tổ chức dưới hình thức một phịng ban riêng
P a g e 10 | 37



biệt trực thuộc Tổng giám đốc. Bộ phận KTNB trung tâm
sẽ thực hiện tồn bộ cơng tác kiểm tốn tại trụ sở chính
và tại các đơn vị thành viên. Khi đó tại tổng cơng ty sẽ
có một bộ phận KTNB riêng, đứng đầu là Kiểm toán
trưởng. Làm việc dưới quyền Kiểm toán trưởng sẽ là Trợ
lý kiểm toán và các KTV. Mơ hình tổ chức này có ưu điểm
là đảm bảo tính khách quan, độc lập của hoạt động
kiểm tốn đối với các đơn vị thành viên; tổ chức bộ máy
KTNB gọn nhẹ và chỉ chịu sự chỉ huy trực tiếp của người
đứng đầu, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc
nâng cao tính chuyên nghiệp của KTNB. Đây cũng là mơ
hình phù hợp với hoạt động mang tính tập trung, bộ
máy gọn nhẹ của các công ty tài chính. Tuy nhiên hạn
chế của mơ hình này là tại các đơn vị trực thuộc không
phát huy đầy đủ vai trị của KTNB. Mơ hình tổ chức KTNB
theo hình thức tập trung được khái quát theo sơ đồ 1.2.
dưới đây:
Sơ đồ 1.1. Tổ chức bộ máy KTNB trong đơn vị

P a g e 11 | 37


Hội đồng quản trị
Sơ đồ 1.2. Tổ chức bộ máy KTNB theo mơ hình tập trung
Trưởng phịng KTNB
Tổng giám đốc

Phịng KTNB

Phó

Các phịng KTNB
ban

Các
đơn vịbộ
Các
đơn
vịbộ
Các
đơn
Các đơn
vịbộ
KTV
KTV
nội
KTV
nộivịhình
bộ
 nội
Tổ chức bộ máy
kiểm
tốn theo

phânKTV
tán:nội
theo
hạch tốn độc
hạch tốn độc
hạch tốn độc
hạch tốn độc

lậpmơ hình này, KTNB
lập được thành lập
lập ở cả đơn vị hoạt
lập động
cấp cao và các đơn vị thành viên khác. Tại đơn vị hoạt
động cấp cao bộ phận KTNB được tổ chức thành ban
KTNB và đặt phòng KTNB tại các trụ sở quản lý và có
trách nghiệm tổng hợp báo cáo ra trụ sở chính. Ưu điểm
của mơ hình này là đảm bảo tính năng động nhưng chưa
phù hợp với qui mơ tương đối nhỏ của các cơng ty tài
chính. Giới hạn của mơ hình này nằm bởi chi phí kiểm
tốn, số lượng KTV, kiểm soát hoạt động kiểm toán,...

P a g e 12 | 37


Sơ đồ 1.3. Tổ chức bộ máy kiểm toán theo mơ hình phân
tán
Tại đơn vị cấp
cao:

Trưởng phịng KTNB tại
đơn vị cấp cao

Phó phịng KTNB tại đơn
vị cấp cao

KTV nội bộ

KTV nội bộ


KTV nội bộ

KTV nội bộ

Tại đơn vị trực thuộc:

Trưởng phòng KTNB
tại đơn vị trực thuộc
A

KTV nội bộ

KTV nội bộ

Trưởng phòng KTNB
tại đơn vị trực thuộc
B

KTV nội bộ

KTV nội bộ

 Thứ hai, xét theo lĩnh vực kiểm toán:

P a g e 13 | 37


Tổ chức theo cách này bộ máy KTNB sẽ thực hiện chun
mơn hóa theo loại nghiệp vụ cụ thể khi kiểm tốn. Với những

cơng ty có quy mơ lớn, hoạt động đa ngành nghề và có nhiều
đơn vị thành viên thì tại mỗi đơn vị thành viên khác nhau sẽ có
những hoạt động tương tự nhau. Vì vậy, để KTV đạt được hiệu
quả cao trong công việc và bộ máy KTNB đạt được hiệu năng
quản lý thì đơn vị sẽ tổ chức các nhóm KTV nội bộ kiểm tốn
theo từng nhóm nghiệp vụ. Cụ thể như mơ hình dưới đây:
Sơ đồ 1.4. Tổ chức bộ máy KTNB theo lĩnh vực kiểm tốn

Trưởng phịng KTNB

Phó phịng KTNB

KTV phụ
trách loại
nghiệp vụ A

KTV phụ
trách loại
nghiệp vụ B

KTV phụ trách
loại nghiệp vụ
C

KTV phụ
trách loại
nghiệp vụ ...

Với cách tiếp cận tổ chức bộ máy KTNB này có nhược điểm
là khơng thể tránh được sự trùng lắp trong thực hành kiểm toán

ở các đơn vị khác nhau gây tốn kém chi phí, lãng phí thời gian,
cơng sức,.... Ngồi ra, tổ chức theo hình thức này khi tiến hành
kiểm tốn theo loại nghiệp vụ sẽ khơng đem lại hiệu quả cao
như khi kết hợp kiểm toán các loại nghiệp vụ khác nhau.
P a g e 14 | 37


 Ngồi ra, cịn một số mơ hình tổ chức bộ máy KTNB
khác:
 Tổ chức bộ máy KTNB theo mô hình song song: Theo mơ
hình này, bộ máy KTNB có thể có những KTV nội bộ cá
biệt hay nhóm KTV nội bộ giao cho ngành nghề hoạt
động đặc thù và sắp xếp nhân sự cho các bộ phận trong
công ty. Ưu điểm của mơ hình này là các KTV ở từng
ngành có thể đạt được những ưu thế đặc biệt về lĩnh vực
chuyên môn kể cả các hoạt động nghiệp vụ riêng biệt,
các KTV nội bộ có thể phát triển mối quan hệ cộng tác
với những nhà quản lý tốt hơn, đặc biệt là ở ngành hoạt
động mà KTV phụ trách. Tuy nhiên tổ chức theo mơ hình
này dễ ảnh hưởng tới tính độc lập và khách quan của
KTNV trong đơn vị được kiểm toán.
Sơ đồ 1.5. Tổ chức bộ máy kiểm tốn theo mơ hình song
song
Trưởng phịng KTNB

Phó phịng KTNB

KTV phụ
trách ngành
A


KTV phụ
trách ngành A

KTV phụ trách
ngành A

KTV phụ
trách ngành A

P a g e 15 | 37


 Bên cạnh đó, dựa theo quy mơ của bộ phận kiểm tốn, có
thể lựa chọn hai mơ hình tổ chức sau: Bộ phận kiểm toán
nội bộ, hoặc giám định viên kế tốn.
 Bộ phận KTNB: bộ phận có thể gọi là ban (phịng) KTNB
có số lượng lớn các KTV nội bộ. Để tổ chức và quản lý
hoạt động KTNB trong bộ máy lãnh đạo cao nhất của
đơn vị phải cử ra người phụ trách công việc này. Theo
yêu cầu đó, thơng thường một Ủy ban kiểm tốn được
lập ra do một tập thể thường bao gồm 3 thành viên hội
đồng quản trị phụ trách. Ủy ban kiểm toán vừa có trách
nhiệm trong tổ chức hoạt động kiểm tốn nội bộ, vừa có
trách nhiệm tạo lập mối quan hệ với chủ thể kiểm tốn


tài chính từ bên ngồi.
Giám định viên kế toán (giám sát viên nhà nước): là các
KTV chuyên nghiệp có các chứng chỉ, đăng ký hành

nghề và được th làm KTNB tại doanh nghiệp. Với mơ
hình này chỉ cần một KTV nội bộ để thực hiện nhiệm vụ
kiểm toán trong các doanh nghiệp

Hầu hết các NHTM được đều tra đều tổ chức bộ máy KTNB theo mơ hình tập
trung. Tại các NHTM lớn, các chi nhánh ở nước ngồi có thể có phịng KTNB riêng,
nhưng phịng này chịu sự quản lí của KTNB ở hội sở chính. Tại các NHTM nhỏ, là
một phần của các tập đoàn, hoạt động KTNB có thể do bộ phận KTNB của tập đoàn
thực hiện.
Tại các NHTM lớn hơn, KTNB được tổ chức theo mảng hoạt động kinh doanh.
Người đứng đầu các bộ phận KTNB của các mảng hoạt động kinh doanh báo cáo lên
người đứng đầu bộ phận KTNB của tập đoàn.

1.2.2.

Tổ chức cơng tác kiểm tốn nội bộ

Trước hết về loại hình kiểm tốn thường được áp dụng, theo
nghiên cứu hầu hết các ngân hàng khơng có thống kê cụ thể cũng
như chưa có sự phân định rạch rịi về các loại hình kiểm tốn nội bộ.
P a g e 16 | 37


Trong tổng số cán bộ nhân viên ngân hàng được hỏi bất kì cho
biết, 66,7% cho rằng cơng việc chủ yếu là kiểm tốn báo cáo tài
chính, tức là đánh giá, xác nhận tính trung thực, hợp lý của các
thơng tin trên báo cáo tài chính; Tiếp đến là kiểm toán tuân thủ
63,6%, tức là kiểm tra việc thực hiện theo các quy định của pháp
luật, cũng như các quy định nội bộ của ngân hàng; Đứng thứ ba là
kiểm toán hoạt động hiện đã bước đầu nhận được sự quan tâm của

kiểm toán nội bộ, mặc dù về mặt bản chất thì đây mới là nội dung
chính yếu, trọng tâm cần hướng đến của kiểm toán nội bộ. Trong
kiểm tốn hoạt động này, nếu có thì mới chỉ dừng ở chức năng kiểm
tra tính hiệu lực, tức là thực hiện xác nhận hệ thống chứ chưa tiến
hành phân tích được hiệu quả hay tính kinh tế của quy trình hoạt
động.
Cụ thể hơn, phạm vi chủ yếu của kiểm toán nội bộ là tín dụng
(chiếm 70,2%) tiếp đến là nghiệp vụ huy động vốn 69,7%. Thu hút
sự quan tâm thứ ba là mảng kế tốn 51,6%. Các mảng cịn lại như
kiểm tốn mua sắm tài sản, nhân sự thì rất hiếm khi được thực hiện,
đặc biệt, các ngân hàng chưa từng kiểm tốn mảng cơng nghệ thơng
tin và kinh doanh vốn. Ngồi ra, bộ phận kiểm tốn nội bộ cũng chưa
thực hiện rà sốt độc lập tính hiệu quả của khung quản trị rủi ro hoặc
yêu cầu về vốn tối thiểu theo Basel II. Điều này xảy ra ngay cả với
ngân hàng lớn như Agribank theo kết quả công bố Kiểm tốn Nhà
nước.
Quy trình kiểm tốn theo các giai đoạn của cuộc kiểm toán
 Bước 1: Lập kế hoạch kiểm toán
Việc lập kế hoạch tiến hành 60% dựa vào đánh giá rủi ro nhưng
việc đánh giá rủi ro này chưa được quy định thành văn bản cụ
thể.Việc đánh giá rủi ro chủ yếu xuất phát từ xét đoán chủ quan của
bản thân bộ phận kiểm toán (95,5%) và thường xuyên hơn cả là việc
kế thừa kết quả khảo sát, đánh giá của bộ phận ALCO (Ủy ban quản
P a g e 17 | 37


lý rủi ro, từ đó có những điều chỉnh, xét đoán cụ thể của bộ phận.
Đồng thời chưa tiếp cận với đánh giá rủi ro một cách khoa học, hệ
thống mà là kết hợp cả định tính và định lượng.
 Bước 2: Thực hiện kiểm toán

Việc thực hiện kiểm toán nội bộ còn nhiều điểm chưa được các
ngân hàng chú trọng.
Thứ nhất, hiện nay, ngân hàng cũng chưa có phần mềm chuyên
dụng phục vụ việc quản lý chu trình làm việc hoặc phân tích dữ liệu
dành riêng cho kiểm tốn nội bộ, mọi thông tin muốn thu thập sẽ
được chiết xuất từ phần mềm của ngân hàng.
Thứ hai, việc sử dụng sổ tay kiểm toán nội bộ theo quy định
vẫn tồn tại có ngân hàng triển khai, có ngân hàng không triển khai.
Các ngân hàng lớn chủ yếu đã áp dụng nhưng tại các ngân hàng nhỏ
thì cịn thiếu. Điều này khiến kiểm tốn viên thiếu cơng cụ làm việc.
Thứ ba, đa phần kiểm toán viên nội bộ vẫn thực hiện kiểm toán
riêng lẻ, tức là kiểm toán cụ thể từng hợp đồng, từng giao dịch để
kết luận xem số liệu kế tốn có trung thực khơng hoặc có kiểm tốn
hệ thống thì cũng ở mức độ rà sốt từng hồ sơ xem có tn thủ đúng
quy trình hay khơng chứ khá hạn chế khi thực hiện phân tích hệ
thống để đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội
bộ. Bởi vậy, kết quả làm việc của hai bộ phận kiểm toán và kiểm tra
kiểm soát nội bộ có nhiều nét tương đồng, đơi khi cịn bị gộp chung
vào nhau, không thấy được sự khác biệt rõ rệt.
Thứ tư, các khám phá, phát hiện của kiểm tốn nội bộ thơng
qua các thử nghiệm kiểm sốt và thử nghiệm căn bản mới chỉ ra các
sự kiện mang tính chất bề nổi và khá rời rạc, thường tập trung vào
tín dụng, kế tốn và nhân sự. Bản thân ngân hàng khi báo cáo cũng
gộp kết quả làm việc của hai bộ phận kiểm toán kiểm soát nội bộ
(KTKSNB) và kiểm tốn nội bộ (KTNB) với nhau vì khơng thấy rõ sự
khác biệt.
 Bước 3: Lập báo cáo kiểm toán
Lập báo cáo kiểm toán là khâu rất quan trọng trong quy trình
kiểm tốn. Nhưng theo nghiên cứu, kiểm tốn viên chỉ dùng ở việc
đưa ra kết luận mà chỉ có 9% xem xét nguyên nhân những sai phạm

và rủi ro có thể xảy ra.
Đồng thời, trong báo cáo kiểm toán đang tập trung nêu ra các sai
phạm cụ thể, đánh giá tính trung thực của thơng tin 100% hoặc chỉ
ra các sai phạm liên quan đến tuân thủ các quy định của pháp luật
82%. Phần rất quan trọng là đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ, hệ
thống quản lý rủi ro, khung quản trị của ngân hàng còn khá hạn chế
(51%).
P a g e 18 | 37


 Bước 4: Giám sát sau kiểm toán
Bộ phận kiểm tốn có thường xun giám sát các kiến nghị của
mình từ năm trước đối với đơn vị để thấy được tiến độ thực hiện xử
lý, sửa chữa các sai phạm. Việc thực hiện các khuyến nghị của đơn vị
không phải là ngay lập tức, nhưng cũng không quá trễ, thường diễn
ra trong khoảng 1 năm kể từ ngày báo cáo kiểm tốn được ký chấp
nhận. Ngồi ra, bộ phận kiểm tốn nội bộ cũng chưa thực hiện cơng
tác “xác nhận sự hài lịng khi thực hiện cơng việc” với các đối tượng
có liên quan để đảm bảo chất lượng hoạt động kiểm tốn nội bộ.
Phương pháp, cơng nghệ kiểm tốn áp dụng:
Các ngân hàng chủ yếu sử dụng phương pháp định hướng theo rủi
ro tương ứng với quy định của pháp luật hiện hành. Trước khi tiến
hành kiểm toán, kiểm toán nội bộ đánh giá và phân loại các rủi ro, từ
đó định hướng kiểm tốn theo mức độ rủi ro: những nghiệp vụ và các
đơn vị, bộ phận điều hành, tác nghiệp có rủi ro cao, phải được kiểm
tốn trước và ít nhất mỗi năm một lần; trong một giai đoạn nhất định
từ 3 đến 5 năm, phải đảm bảo tính tồn diện, sao cho tất cả các quy
trình nghiệp vụ, các đơn vị, bộ phận phải được kiểm tốn; các quy
trình, đơn vị, bộ phận được đánh giá là có rủi ro trung bình ít nhất 2
năm kiểm tốn một lần, rủi ro thấp ít nhất 5 năm kiểm tốn một lần.

Căn cứ vào kết quả phân tích và đánh giá rủi ro, Trưởng kiểm toán
nội bộ làm việc với Ban kiểm soát, Tổng giám đốc và Hội đồng thành
viên trong q trình lập kế hoạch kiểm tốn hàng năm.
Nhưng trên thực tế cách mà các kiểm toán viên thường tiếp cận
kiểm toán là phương pháp “truyền thống”, tức là coi việc phát hiện
sai phạm, kiểm tra tính tuân thủ của đối tượng được kiểm toán là
mục tiêu số một, trong đó thước đo là các quy định, văn bản, quy
chế, thông tư, hướng dẫn của Ngân hàngNhà nước và nội bộ ngân
hàng… Cách tiếp cận hiện đại, coi rủi ro để đạt được mục tiêu là
điểm xuất phát, từ đó phân tích các chính sách, thủ tục, quy trình có
hiệu quả, hiệu lực hay khơng, tìm hiểu gốc rễ của vấn đề… thì ít
được áp dụng. Điều này thể hiện khi gần như 100% số cho rằng hiện
nay mục đích của kiểm tốn nội bộ chỉ tập trung vào phát hiện các
sai phạm, 100% coi các quy định và thủ tục là tiêu chuẩn, xem xét
tính đầy đủ trong thực hiện nghiệp vụ. 100% cũng đồng ý rằng cách
làm việc của kiểm toán là chưa nhận xét về tính hợp lý, hiệu quả của
quy trình.

1.3. Kinh nghiệm quốc tế về tổ chức kiểm toán nội bộ
trong các ngân hàng thương mại

P a g e 19 | 37


Trong các NHTM, kiểm tốn nội bộ (KTNB) có vai trò quan trọng trong thực
hiện nhiệm vụ đánh giá về tính thích hợp, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm soát
nội bộ (HTKSNB) nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động của NHTM. Do vậy, kinh
nghiệm tổ chức KTNB của các NHTM trên thế giới có thể coi là những bài học tốt cho
tổ chức KTNB của các NHTM Việt Nam.


Tại mỗi quốc gia khác nhau mơ hình KTNB trong các ngân
hàng thương mại được tổ chức với mơ hình và hoạt động mang
những nét đặc trưng riêng biệt. Ở các nước phát triển, bộ phận
KTBN thường được tổ chức dưới hình thức bộ phận hoặc một
phịng ban trực thuộc Ban Giám đốc với tính độc lập cao.
Ở Mỹ, Chính phủ không đưa ra một yêu cầu pháp lý nào
đối với KTNB tại các doanh nghiệp hay tại các NHTM mà hội
đồng quản trị hoặc ban Giám đốc doanh nghiệp dựa vào các
chuẩn mực KTNB của Viện KTNB Mỹ ban hành, để thiết lập và
vận hành bộ máy KTNB của họ. Tương tự như ở Hoa kỳ, hoạt
động KTNB ở Hoa kỳ được phát triển sớm nhất và được xem là
hoạt động KTNB có kinh nghiệm trên thế giới. Bộ máy KTNB ở
Hoa Kỳ được tổ chức ở hầu hết các công ty lớn, các công ty
xuyên quốc gia, ngân hàng thương mại và đặc biệt là trong các
thể chế tài chính. Chính phù Hoa Kỳ khơng đưa ra bất cứ một
yêu cầu pháp lý nào đối với KTV nội bộ. Tuy nhiên các tổ chức
hành nghề lại ban hành các tiêu chuẩn kể cả cấp chứng chỉ
hành nghề cho KTV nội bộ.
Ở Pháp, KTNB chính thức được cơng nhận năm 1960 và
phát triển rất nhanh ngay sau đó. Bộ máy KTNB tại ngân hàng
cũng được ra đời ra sau đó, bộ máy ở Pháp được tổ chức với
những đặc điểm sau:

P a g e 20 | 37




Thứ nhất, KTNB trực thuộc Ban Giám đốc của doanh
nghiệp mà cụ thể là chịu sự điều hành và quản lý trực




tiếp của tổng giám đốc, giám đốc.
Thứ hai, Nhà nước thường khơng có bất cứ sự can thiệp
nào vào quá trình hình thành cũng như hoạt động cua
bộ phận KTNB.

Hoạt động KTNB xuất hiện khá muộn tại Châu á nhưng
khơng vì thế mà KTNB ở châu lục này kém phát triển. Phần lớn
các nước Châu á đều tổ chức KTNB theo hướng dẫn của The IIA
như tại Nhật, Singapore, Malaysia. Đặc biệt, tại Singapore và
Malaysia tính chuyên nghiệp trong thực hiện kiểm toán được thể
hiện rất tốt. Tại các quốc gia này bộ phận KTNB ở những ngân
hàng thương mại có đặc thù tương tự như bộ máy KTNB ở Hoa
Kỳ kể cả về mơ hình và cách thức thực hiện.
Từ phân tích kinh nghiệm tổ chức KTNB ngân hàng thương
mại ở một số nước trên thế giới, có thể thấy được đặc trưng
chung trong tổ chức KTNB như sau:
Một là, KTNB hình thành và phát triển từ yêu cầu quản lý
và phục vụ cho yêu cầu này. Ngân hàng thương mại có mơ hình
hoạt động càng phức tạp thì địi hỏi tổ chức KTNB càng cấp
thiết.
Hai là, Cách thức tổ chức và nội dung thực hiện của KTNB
tùy thuộc vào quy mô mỗi ngân hàng, yêu cầu quản lý của mỗi
thời kỳ.
Ba là, KTNB thường trực thuộc cấp lãnh đạo cao nhất và
độc lập với các bộ phận được kiểm tra trong công ty. KTNB độc
lập với các bộ phận khác và với hoạt động được kiểm toán.
P a g e 21 | 37



Bốn là, KTNB thực hiện kiểm toán đều dựa trên các chuẩn
mực thực hành nghề nghiệp.

P a g e 22 | 37


CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ tại
ngân hàng SHB
Đặc trưng hoạt động hoạt động của các ngân hàng thương mại
(NHTM) là, cấu trúc tổ chức thường có quy mơ lớn, nhiều chi nhánh,
phòng giao dịch hoạt động trên diện rộng, nhiều nghiệp vụ kinh
doanh tài chính phức tạp và khơng ngừng biến động, thì hoạt động
kiểm tốn nội bộ với NHTM trở nên vơ cùng cần thiết.
Một ví dụ điển hình cho tổ chức bộ máy kiểm tốn nội bộ tại ngân
hàng SHB
Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) được thành lập từ năm
1993. Trải qua hơn 25 năm xây dựng và phát triển, ngân SHB hiện
đang là 1 trong 5 Ngân hàng TMCP lớn nhất Việt Nam. Đứng trong
top 10 Ngân hàng Thương mại uy tín nhất Việt Nam, và trong top
500 Ngân hàng mạnh nhất ở Châu Á.
Ước tính đến hết ngày 31/3/2018, ngân hàng TMCP Sài Gịn –
Hà Nội (SHB) có tổng số tài sản đạt 286.904 tỷ đồng. Với mức vốn
điều lệ hơn 12.036 tỷ đồng. Với gần 7000 cán bộ, nhân viên và có
hơn 500 điểm giao dịch ở Việt Nam, Lào và Campuchia.
Với số lượng khách hàng mà ngân hàng SHB đang phục vụ lên

tới con số gần 4 triệu quý khách hàng (Bao gồm cả cá nhân và
doanh nghiệp). Đây cũng là một trong những con số khá ấn tượng
đối với một ngân hàng có hơn 25 năm xây dựng và phát triển.
Tại SHB ngân hàng tổ chức kiểm toán nội bộ theo mơ hình tập trung
tại cơng ty mẹ, còn các chi nhánh nằm rải rác khác được chỉ đạo từ
tổng công ty. Bộ phận KTNB tại SHB được tổ chức dưới hình thức một
P a g e 23 | 37


×