Biên tập: Khởi Nguyên
MỐI LIÊN HỆ GIỮA PHẬT HỌC VÀ KHOA HỌC VŨ TRỤ
Thượng tuần tháng 06/2012, nhà vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận đã từ Mỹ đến Paris nhận
Giải thưởng Prix Mondial Cino Del Duca do giới Hàn lâm Pháp trao tặng. Trước đó, ơng đã ghé
Làng Mai - miền tây nam nước Pháp - thuyết trình về Khoa học và Phật giáo, đồng thời đối thoại
với Thiền sư Nhất Hạnh về cái nhìn của đạo Phật đối với khoa học. Được sự đồng ý của tác giả,
RFI xin đăng lại bài tường thuật của nhà nghiên cứu Đỗ Q Tồn, có mặt tại Làng Mai nhân
buổi thuyết trình của giáo sư Trịnh Xuân Thuận
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã thuyết trình trong khóa tu tại Làng Mai về Khoa học và Phật giáo vào
đầu tháng Sáu năm 2012; và sau đó, với tư cách một nhà khoa học ông đã đặt một số câu hỏi với Thiền
sư Nhất Hạnh về cách nhìn của đạo Phật đối với một số vấn đề căn bản trong khoa học hiện đại.
Khóa tu tại Làng Mai, ở vùng tây nam nước Pháp gần thành phố Bordeaux, diễn ra trong 21 ngày, kể
từ ngày 1 tháng Sáu năm 2012, quy tụ hơn 900 thiền sinh đến từ gần 30 quốc gia khác nhau. Ngơn ngữ
chính được sử dụng là tiếng Anh, với tám nhóm thơng dịch đồng thời sang tiếng Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha, tiếng Ý, tiếng Thái, tiếng Nhật; tiếng Trung Hoa dịch cho nhiều người đến từ Singapore,
Hồng Kong, Mã Lai, Đài Loan...; nhóm đơng nhất là những người nghe tiếng Việt và tiếng Pháp.
Trong bài thuyết trình vào ngày Chủ Nhật 3 tháng Sáu 2012 tại Xóm Hạ, Làng Mai, ông Trịnh Xuân
Thuận đã nêu lên một số lý thuyết trong môn vật lý học hiện tại để so sánh với những quan điểm trong
truyền thống Phật giáo. Là một nhà chuyên khảo về vũ trụ học, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cho biết
Vật lý học đã nhận thấy một số điểm tương đồng giữa Phật giáo và khoa học.
Những điểm “hội tụ” (convergence) mà ơng nhìn ra là tính tương quan và tùy thuộc vào nhau của mọi
hiện tượng vật lý (interdependence); tính trống rỗng (vacuity, emptiness) của vạn pháp; và tính vơ
thường (impermanence). Nhiều khám phá trong khoa học trong một thế kỷ gần đây đã đưa tới những
cách nhìn giống như quan điểm của đạo Phật từ nhiều ngàn năm qua. Thí dụ, tính bất khả phân (nonseperability) của mọi vật; mối liên quan không thể tránh giữa chủ thể quan sát và đối tượng được khảo
sát (tương tức, tương nhập); vân vân.
Trong khi các bộ mơn khoa học sử dụng lý trí với các phương pháp phân tích tốn học và thí nghiệm
để gia tăng hiểu biết có tính chất khách quan và định lượng của con người về vũ trụ chung quanh
mình, thì Phật giáo là một truyền thống tu tập với cách nhìn tồn diện theo đuổi mục tiêu trị liệu, đưa
tới giác ngộ tồn diện (enlightenment) chứ khơng nhằm hiểu biết thuần túy. Phật giáo khơng nhìn thế
giới theo lối lưỡng nguyên (tâm và vật) nhưng cũng không cố chấp vào cách nhìn phi lưỡng ngun.
Từ nhận định về tính tương lập (interdependence) của mọi vật và mọi người, Phật giáo đã dẫn tới đức
từ bi như là một cách biểu hiện khác của trí tuệ.
Một ngày sau cuộc thuyết trình trên, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã đặt với Thiền sư Thích Nhất Hạnh
một số thắc mắc của một nhà khoa học để tìm hiểu cách giải đáp của Phật Giáo. Thứ nhất là Phật giáo
yêu cầu phải vượt qua những chướng ngại do sự hiểu biết gây ra, một điều khác với khảo hướng của
khoa học là luôn luôn dựa trên những hiểu biết đã có để đi tìm các hiểu biết mới. Thứ hai là quan điểm
Phật giáo về trình độ ý thức (consciousness) của lồi người so sánh với các sinh vật khác, với vật chất
vô sinh, cho tới các hạt nhân. Khoa học, kể từ Einstein, đã nhìn ra thời gian chỉ là một kích thước mới
của không gian, điều này tư tưởng đạo Phật đã nhận định ra sao. Điểm sau cùng là theo quan điểm
Phật giáo, mọi vật đều là do biểu hiện của tâm thức, thì như vậy có một thế giới hồn tồn vật chất ở
ngồi tâm thức hay khơng?
Biên tập: Khởi Nguyên
Thiền sư Nhất Hạnh đã trình bầy cách nhìn của Phật giáo trước các vấn đề trên, dựa trên sự phân biệt
“sự thật tương đối” (tục đế) và “sự thật tuyệt đối” (chân đế) trong truyền thống Phật giáo. Các độc giả
quan tâm có thể tìm trong website của Làng Mai (langmai.org hoặc plumvillage.org). Những lời trình
bầy của Hịa thượng Nhất Hạnh trong các khóa tu chỉ nhắm hướng dẫn các các thiền sinh trong việc tu
học hơn là chú trọng đến những kiến thức mà các nhà nghiên cứu quan tâm.
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận là tác giả nhiều cuốn sách được phổ biến rất rộng khắp thế giới về đề tài vũ
trụ học. Ông cũng viết chung với Matthieu Ricard, một tăng sĩ người Pháp tu theo truyền thống Tây
Tạng, cuốn L'Infini dans la paume de la main (Vũ trụ trong lòng bàn tay), về tương quan giữa khoa
học và đạo Phật. Matthieu Ricard vốn là một nhà nghiên cứu về thần kinh học tại Trung Tâm Quốc gia
Nghiên cứu Khoa học nước Pháp (CNRS, Centre National de Recherches Scientifiques) trước khi đi
tu.
Hội tụ giữa Khoa học và Đạo Phật
Tựa đề cuốn sách trên, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cho biết, là do câu thơ thứ ba trong đoạn đầu bài
thơ Auguries of Innocence của William Blake:
To see a world in a grain of sand,
And a heaven in a wild flower,
Hold infinity in the palm of your hand,
And eternity in an hour.
(Nhìn thấy cả thế giới trong một hạt cát - Và thiên đường trong một đóa hoa dại – Nắm vơ cực trong
bàn tay của anh – Và vĩnh cửu trong một giờ khắc)
Khi cuốn sách này được dịch sang tiếng Anh, ấn hành năm 2001, nhà xuất bản đã đề nghị đổi
tựa: Lượng Tử và Hoa Sen, The Quantum and the Lotus cho dễ phổ biến hơn.
Bài thuyết trình của Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đối chiếu giữa quan điểm Phật Giáo về vũ trụ và nhân
sinh với các hiểu biết khoa học để nêu ra những tương đồng giữa hai bên; ông đặt tựa là, Science and
Buddhism: A Meeting of the Mind (Khoa học và Phật Giáo: Cuộc Gặp gỡ tại Tâm). Sau đây là một số
điểm chính trong bài thuyết trình của ông.
Tương Tức
Một điểm được nêu lên đầu tiên là tính chất tương tức, tương lập (interdependence) của “vạn pháp,”
tức là sự liên quan chằng chịt giữa mọi hiện tượng vật lý và tâm lý, theo lối nhìn của Phật Giáo. Trong
khoa học, Trịnh Xuân Thuận nhắc đến một hiện tượng được nêu lên trong một bài do Boris Podolsky
viết được in năm 1935 ký tên Einstein-Podolsky-Rosen (EPR), để thách thức Vật lý học Lượng tử
(Quantum Physics). Vấn đề được nêu lên liên hệ tới hiện tượng vật lý trong phạm vi cực nhỏ bên trong
các nguyên tử, gọi là những “hạt dính líu” (entangled particles).
Nhiều nguyên tử bị kích thích phát ra hai hạt pho ton (photons) đi về hai phía khác nhau. Những pho
ton này có đặc tính nếu một cái bị kích thích để xoay thì cái thứ hai cũng xoay theo một chiều thẳng
góc với cái thứ nhất, dù ở cách xa hàng ngàn dặm cũng vậy. Một cách giải thích hiện tượng này theo
Cơ học Lượng tử, coi như hai hạt pho ton đã “thông tin” được với nhau, sẽ trái nghịch với Thuyết
Tương Đối của Einstein vì khơng có thơng tin nào có thể đi nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Do đó
Biên tập: Khởi Nguyên
Einstein kết luận Cơ học Lượng tử khơng giải thích được đầy đủ các hiện tượng vật lý và đề nghị một
lối giải thích khác. Các cuộc nghiên cứu và thí nghiệm sau này cho thấy lối giải thích của EPR cũng
khơng đứng vững; thí dụ, cuộc thí nghiệm của Alain Aspect năm 1982 về những cặp pho ton cho thấy
Einstein khơng đúng. Hiệu ứng “Hạt Dính Líu” đã được dùng trong kỹ thuật thơng tin và trong máy vi
tính dựa trên hiện tượng này, khi kích thích một pho ton có thể gây phản ứng của một pho ton khác dù
cách nhau vạn dậm, giúp cho máy vi tính lượng tử chạy nhanh hơn các máy vi tính bình thường.
Khám phá “mọi hiện tượng dính líu với nhau” như trên tương đồng với quan niệm Phật Giáo trong các
kinh điển Đại Thừa, như kinh Hoa Nghiêm đã diễn tả tính tương tức, tương nhập của vạn pháp. Một
đoạn trong Đệ Nhất Nghĩa Không Kinh (The Discourse on the Emptiness in its Ultimate Meaning)
được thuyết giảng trong khóa tu tại Làng Mai lần này, viết: “thử hữu cố bỉ hữu; thử khởi cố bỉ khởi,
…” (có cái này nên mới có cái kia, cái này dấy lên nên cái kia dấy lên).
Theo Phật Giáo thì mỗi sự vật, hiện tượng đều do các “nhân duyên” khác tạo thành, tất cả mọi vật, mọi
hiện tượng là nhân duyên lẫn của nhau (mutual causation). Hệ luận của quan niệm này là tính tương
lập của “vạn pháp,” khơng có cái gì tự làm ngun nhân duy nhất của chính nó. Một hệ luận khác là
thực tại (reality) trong vũ trụ có tính tồn thể khơng thể phân chia được. Vật lý học hiện đại cũng tiến
tới một quan điểm tương tự. Như ơng Trịnh Xn Thuận nói một cách văn vẻ: Vũ trụ Vật lý học hiện
đại (Astrophysics) cho thấy là tất cả chúng ta chỉ là những hạt bụi của các vì sao; chúng ta có cùng
một lịch sử trong vũ trụ giống như các loài hoa cỏ, các sinh vật khác. Trong thời gian và không gian,
tất cả chúng ta tương lập với nhau. Thơng điệp chính yếu của khoa học, đặc biệt của cơ học lượng tử,
là có một thực tại sâu xa hơn những gì mà giác quan của chúng ta nhận thấy, một thực tại ẩn tàng.
Khoa học đã gặp Phật Giáo trong lối nhìn này; nhưng sử dụng các khảo hướng khác nhau. Khoa học
dùng “ngơn ngữ” tốn học và dùng thí nghiệm thực tế để kiểm chứng. Phật Giáo dùng trực giác và
kinh nghiệm tâm linh. Nếu khơng có khoa học thì Phật Giáo vẫn tồn tại; mà nếu khơng có Phật Giáo
thì khoa học vẫn được phát triển. Người ta không cần phải ràng buộc cả hai lại bằng bất cứ giá nào.
Điều chúng ta muốn hiểu là thấy được tính tương đồng nhất quán của hai bên. Cả hai đều nói về một
đối tượng là thực tại, và mỗi bên đều có tính chất nhất qn (coherent) trong phạm vi của mình; thế
nào cũng có thể so sánh để thấy những điểm hội tụ giữa khoa học và Phật Giáo.
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cũng phân biệt: Mục đích của Phật Giáo có tính chất trị liệu (therapeutic):
Làm sao để sống tốt đẹp hơn, mục tiêu sau cùng là giác ngộ. Trong khi đó khoa học nhằm tìm hiểu thế
giới, khám phá các định luật chi phối cả vũ trụ, những luật coi là bất biến trong vũ trụ, khiến người ta
thấy vũ trụ có một thứ trật tự, một hịa điệu và vẻ đẹp trong vũ trụ; chứ không phải chỉ là một mớ hỗn
độn (chaos). Trịnh Xuân Thuận là tác giả các cuốn sách mang tên Giai điệu huyền bí (La Mélodie
Secrète), Hỗn mang và Hịa điệu (Le Chaos et l'Harmonie).
Einstein, cũng như nhiều nhà khoa học khác, trong đó có những người khám phá cơ học lượng tử, đều
nói rằng Phật Giáo là một tơn giáo có khả năng phù hợp nhất với hiểu biết khoa học. Thí dụ, trong
khoa học người ta biết là ánh sáng vừa là những hạt nhân, vừa là sóng. Làm sao một thứ có thể là hai
dạng hồn tồn khác nhau như vậy ? Trong truyền thống tư tưởng Tây phương, lối nhìn này khơng thể
nào hiểu được. Nhưng Phật Giáo có thể chấp nhận lối nhìn đó; bởi vì theo Phật Giáo thì mọi vật đều
khơng có tự tánh, cho nên có thể là một cái này mà cũng là cái khác hẳn.
Tính Khơng
Vật lý học hiện đại cũng chia sẻ với Phật Giáo trong cách nhìn thấy tính chất trỗng rỗng của vạn vật,
gọi là Tính Khơng. Vật chất do các nguyên tử tạo thành, mà trong các nguyên tử có thể nói là trống
rỗng, với những hạt vận chuyển. Thuyết Cơ học Lượng tử cho biết: Những hạt này, căn bản của mọi
Biên tập: Khởi Ngun
vật chất, có hai đặc tính; một là hạt và hai là sóng. Trước khi đem các dụng cụ để quan sát, mỗi hạt chỉ
có thể được mô tả bằng một xác suất. Điều duy nhất mà chúng ta có thể biết và nói về một hạt là nó có
một xác suất sẽ hiện ra ở một chỗ này hay chỗ khác. Khi chúng ta dùng khí cụ để đo lường, sẽ thấy
mỗi hạt có một vị trí và một tốc độ, nhưng bị giới hạn bởi Nguyên lý Bất định của Heisenberg: Không
thể thấy cả hai đặc tính đó cùng một lúc một cách chắc chắn. Trong phạm vi nghiên cứu nhỏ bên trong
các nguyên tử, hành động của người quan sát sẽ ảnh hưởng ngay đến vật được quan sát.
Khoa học hiện đại còn chưa biết thật sự vật chất trong vũ trụ này nó thế nào, chúng ta chỉ biết được
khoảng 4% về vũ trụ, cịn 96% khơng hề biết gì cả. Những gì chúng ta nhìn thấy trên các giải ngân hà
sáng trong bầu trời chỉ là nửa phần trăm của vũ trụ. Tất cả cịn là một “giai điệu huyền bí.” Các nhà
vật lý học đã nói đến giả thuyết có một “năng lượng tối” gây ra sự thành hình của vũ trụ, trong đó một
phần là vật chất có trọng lực rất mạnh nhưng không phát ra một “ánh sáng” nào có thể trơng thấy
được, mà người ta gọi là “vật chất tối.” Chúng ta chưa biết gì về vật chất đen (hay tối) cũng như năng
lượng đen (hay tối); chỉ biết là nếu khơng có chúng thì khó giải thích sự phát sinh và tồn tại của vũ trụ.
Các nhà khoa học chưa biết đâu là biên giới nơi vũ trụ lớn gặp vũ trụ vi tiểu trong đó các hạt và sóng
lượng tử do nguyên lý bất định ngự trị, mà ra đến vũ trụ vĩ đại thì nguyên lý đó khơng cịn hiệu lực.
Mỗi ngày các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục đẩy biên giới của thế giới lượng tử ra xa hơn, mở ra những
chân trời mới.
Ông Trịnh Xuân Thuận nhắc lại: Tất cả vật chất như trong chính cơ thể chúng ta đều bắt đầu được tạo
nên từ khi các vì sao phát sinh trong vũ trụ. Từ gần 4 tỷ năm trước, những hạt bụi tinh cầu đó đã biến
chuyển tạo ra những nguyên tố đầu tiên của sự sống, rồi tiến hóa dần đến loài người. Tổ tiên của tất cả
chúng ta và các sinh vật khác là các vì sao; lịch sử vũ trụ cũng chính là tiểu sử của chúng ta. Tất cả bắt
đầu trước đây 14 tỷ năm, dần dần đưa tới sự xuất hiện của loài người và ý thức. Tìm hiểu vũ trụ chính
là đi tìm lại gia phả của chúng ta; quán sát các thiên hà cũng là nhìn vào chính bản thân mình.
Chúng ta có thể quan sát được hàng trăm tỷ thiên hà như giải Ngân Hà, mỗi thiên hà chứa hàng trăm
tỷ các vì sao giống như mặt trời. Nếu mỗi vì sao đó có chừng mươi hành tinh giống như trái đất; thì
chúng ta thấy ngay là không thể nghĩ rằng trái đất nơi ta sống là hành tinh duy nhất có sự sống. Chắc
phải có cuộc sống với trí thơng minh ở ngồi trái đất, họ cũng đang quán sát vũ trụ như chúng ta.
Einstein, một thần tượng của tôi, Trịnh Xuân Thuận, phải lấy làm ngạc nhiên tại sao con người lại có
khả năng tìm hiểu cả vũ trụ; ơng coi đó là “một điều khó hiểu nhất!”
Vơ Thường
Một quan niệm căn bản trong truyền thống Phật Giáo là tính Vơ Thường (impermanence) của vạn
pháp, mọi sự vật, mọi hiện tượng. Trước đây, khoa học Tây phương đã bị ràng buộc trong nhiều thế kỷ
với khái niệm từ thời cổ Hy Lạp về tính bất biến của các hiện tượng thiên văn; vì Aristote nói rằng cái
gì thuộc về lồi người thì thay đổi, phù du; còn thế giới các thần linh, như các vì sao trên bầu trời thì
vĩnh cửu và khơng bao giờ thay đổi, bởi vì các vị thần linh đều hồn hảo tuyệt đối. Vì vậy, vào ngày 4
tháng Bẩy năm 1054, ban đêm trên bầu trời xuất hiện một thiên thể hồn tồn mới sáng rực, nó sáng
như Kim Tinh, Vénus, ngay cả ban ngày mắt thường cũng nhìn thấy, và kéo dài hàng mấy tuần lễ liền;
nhưng các nhà thiên văn tài giỏi ở Âu Châu thời đó khơng hề ghi nhận họ thấy “ngơi sao” mới này
trong niên biểu thiên văn học đương thời. Bởi vì theo quan niệm của họ thì bầu trời của các vị thần
linh là bất biến. Thiên thể trên, có nguồn gốc là phần còn lại của một vụ nổ sao mà ngày nay chúng ta
gọi là "Tinh vân Cua."
Trong thời gian đó thì ở Trung Hoa người ta đã ghi nhận sự xuất hiện của “ngôi sao” này, và họ đặt
tên là “Sao Khách.” Di tích khảo cổ cho thấy người Maya ở Mỹ châu cũng ghi nhận hiện tượng thiên
Biên tập: Khởi Nguyên
văn này. Các nhà khoa học Âu Châu thời Trung Cổ tin tưởng ở lý thuyết vũ trụ bất biến của Aristote
hơn là tin vào chính mắt của họ. Mãi đến thời Copernic, năm 1543, mới thuyết phục được các nhà
khoa học là vũ trụ có tính vô thường. Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cười: “Các nhà thiên văn Âu châu
thời Trung Cổ tin vào lý thuyết vũ trụ bất biến của Aristote hơn là tin ở chính con mắt họ.”
Vũ trụ ln biến chuyển, khơng bao giờ ngưng. Các vì sao cũng sinh ra, tàn lụi, rồi chết đi như tất cả
chúng ta, nhưng cuộc đời của một vì sao dài tính bằng hàng tỷ năm chứ không ngắn như đời chúng ta.
Phật Giáo theo quan điểm vô thường. Như chúng ta nghĩ đang “ngồi yên” trong thiền đường này thì
thực ra chúng ta đang vận chuyển theo trái đất chung quanh mặt trời với vận tốc 30 km một giây đồng
hồ; mà mặt trời cũng đang vận chuyển 220 km một giây quanh trung tâm của Ngân Hà; và chính thiên
hà này cũng đang tự quay với tốc độ 90 km mỗi giây ở nơi chúng ta đang sống. Tất cả đều vận chuyển,
tất cả đều thay đổi, đó cũng là quan niệm vơ thường trong Phật Giáo.
Tơn giáo của tương lai
Ơng Trịnh Xn Thuận nhận xét, khoa học chỉ là một cửa sổ để chúng ta nhìn thế giới. Muốn hiểu biết
thực tại chúng ta phải nhìn qua nhiều cửa khác. Phật Giáo phân biệt hai loại sự thật, tục đế là những sự
thật tương đối, chân đế là sự thật tuyệt đối. Khoa học vẫn cố tìm đến sự thật tuyệt đối nhưng chưa tới
được. Mỗi lần nhà khoa học giải đáp được một câu hỏi thì hàng ngàn câu hỏi khác hiện lên. Nếu dùng
kinh nghiệm tâm linh đạt tới “giác ngộ,” chúng ta có hy vọng nhìn thấy sự thật. Nếu khơng, vẫn là một
“giai điệu huyền bí.” Ơng nghĩ rằng khoa học không thôi không thể mô tả đầy đủ sự thật; khoa học
không quá tự cao như vậy. Kinh nghiệm tâm linh là con đường khác bổ túc cho khoa học. Dù theo hai
hệ thống lý luận khác nhau, Phật Giáo và Khoa học Vũ trụ đã gặp gỡ trên nhiều điểm. Những nguyên
lý Phật Giáo như tính tương lập (interdépendance) của mọi sự vật, tất cả đều liên hệ với nhau và có
duyên nhân quả với nhau (mutual causality), về tính khơng (vacuity) và tính vơ thường
(impermanence) của vạn pháp, đều tương đồng với kết luận của các nhà nghiên cứu khoa học vũ trụ.
Tính tương lập của mọi vật trong vũ trụ giúp chúng ta suy nghĩ để thấy hạnh phúc của mỗi người tùy
thuộc vào mọi người khác và cả vạn vật chung quanh. Từ đó, chúng ta phát khởi lòng từ bi và ý thức
phải bảo vệ các sinh vật cũng như những vật vô sinh trong môi trường sống. Mỗi người không thể
hạnh phúc nếu người chung quanh khơng hạnh phúc. Đó là điều mà các tôn giáo đều dậy chúng ta.
Cuối bài thuyết trình, Giáo sư Trịnh Xn Thuận đã đọc cho thính chúng nghe một câu của Albert
Einstein nói về tơn giáo thường được trích dẫn, “Tơn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Phải
là một tôn giáo dựa trên thực chứng (based on experience) và từ bỏ tính cách giáo điều (refuses
dogmatic). Nếu có một tơn giáo đáp ứng được nhu cầu khoa học hiện đại, thì đó là Phật Giáo (If there
is any religion that would cope with modern scientific needs it would be Buddhism).
Giới thiệu
Trước buổi thuyết trình, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã được một vị tăng sĩ tại Làng Mai giới thiệu với
đại chúng. Ông sinh năm 1948 tại Hà Nội, đậu Tú tài năm 1966, rồi học một năm tại l’Ecole
Polytechnique de Lausanne, Thụy Sĩ. Sau đó ơng đã theo học các đại học có tiếng tại Hoa Kỳ,
California Institute of Technology (Caltech), và Đại học Princeton, nơi đã trao bằng Ph.D. cho ông
vào năm 1974, về môn Vật lý học Vũ trụ (astrophysics), dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Lyman
Spitzer, người sáng chế viễn vọng kính Hubble. Từ năm 1996 ông là giáo sư Vật lý Vũ trụ tại Đại học
University of Virginia tại Charlottesville. Ông cũng là giáo sư Đại học Paris 7, làm việc tại Thiên văn
đài Meudon, tại IAP (Institut d’astrophysique de Paris) và Trung tâm Nghiên cứu Khoa học (CNRS)
của nước Pháp. Ông đã viết trên 230 bài tường trình khảo cứu trên đề tài chuyên khảo là sự hình thành
và tiến hóa của các thiên hà (galaxies); về sự tạo lập vũ trụ theo lý thuyết “Vụ Nổ Lớn” (Big Bang).
Biên tập: Khởi Ngun
Một đóng góp của ơng được giới khoa học thảo luận với lòng thán phục là việc ông khám phá thiên hà
“trẻ nhất” trong vũ trụ, mang ký hiệu I Zwicky 18. Ông là một trong số người sáng lập Hội Quốc tế
Khoa học và Tôn giáo (International Society for Science and Religion).
Là một người viết rất nhiều sách phổ thông về Vật lý học Vũ trụ; tại Đại học Virginia ông Trịnh Xuân
Thuận cũng dậy một lớp mang tên là “Vật lý học Vũ trụ cho các Thi sĩ.” Ông đã xuất bản các tác
phẩm phổ biến khoa học cho đại chúng, viết bằng tiếng Pháp với một lối văn nhuần nhã, điêu luyện,
đầy thi vị, chính xác và trong sáng dễ hiểu. Các tác phẩm của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên
thế giới, được các tổ chức văn hóa quốc tế vinh danh.
Năm 2007 ông xuất bản cuốn Les voies de la lumière, được trao Giải Moron của cựu Tổng thống
Jacques Chirac. Năm 2009, tại Hội nghị Khoa học Ấn Độ (Indian Science Congress) kỳ thứ 99 tại
Bhubaneswar, ông được UNESCO trao tặng Giải Kalinga Năm 2012, ông được Học Viện Pháp Quốc
(Institut de France) trao Giải Hoàn Cầu (Prix Mondial) Cino Del Duca. Đây là một giải hưởng văn
chương rất uy tín, khi chúng ta biết trong số những người được trao giải gần đây có các nhà văn Mario
Vargas Llosa (2008), Milan Kundera (2009) và Patrick Modiano (2010).
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã xuất bản các sách bằng tiếng Pháp sau đây: La Mélodie secrète (Fayard,
1988); Un astrophysicien (Beauchesne-Fayard, 1992), tự thuật; Le Destin de l'Univers – Le Big Bang
et après (Découvertes Gallimard, 1992); Le Chaos et l'Harmonie (Fayard, 1998); L'Infini dans la
paume de la main (Nil/Fayard 2000, cùng với Matthieu Ricard); Origines, (Fayard, 2003); Les voies
de la lumière (Fayard, 2007).
Chân Văn (Đ. Q. Toàn) tường thuật
Link bài báo: />