BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TĨM TẮT BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP CƠ SỞ
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ SỰ PHỐI HỢP GIỮA NHÀ TRƯỜNG VÀ
GIA ĐÌNH TRONG CƠNG TÁC GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO
HỌC SINH TIỂU HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
MÃ SỐ: CS.2014.19.20
Chủ nhiệm đề tài: TS. Huỳnh Lâm Anh Chương
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2015
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1 Về mặt lý luận
Giáo dục kỹ năng sống là một nội dung giáo dục quan trọng và cần thiết trong
chương trình giáo dục của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Trong văn bản “Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011-2020”, giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh là nội dung được xác định trong chương trình giáo dục ở tất cả
các cấp học và các bậc học.
Giáo dục kỹ năng sống được bắt đầu từ khi trẻ bắt đầu đến trường kéo dài trong
suốt cuộc đời. Mỗi giai đoạn lứa tuổi có những nội dung giáo dục cụ thể. Giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ em ở trường tiểu học là giai đoạn đầu của q trình giáo dục và có ý
nghĩa quan trọng nhằm đặt cơ sở, nền tảng cho quá trình giáo dục ở những giai đoạn sau.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở lứa tuổi tiểu học là nền tảng cho việc giáo dục ở
những giai đoạn tiếp theo.
Để thực hiện yêu cầu của giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nói chung và học
sinh tiểu học nói riêng, cần xác định mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp và điều
kiện thực hiện hoạt động này. Ngồi ra, cần nhấn mạnh vai trị của các nhà quản lý giáo
dục mà cụ thể là hiệu trưởng các trường học. Họ không chỉ hoạch định công việc này sao
cho thật khoa học mà còn phải tổ chức và chỉ đạo các lực lượng giáo dục cùng tham gia
giáo dục học sinh một cách nhịp nhàng để phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của các lực
lượng giáo dục nhằm thực hiện tốt nhất yêu cầu của công tác này.
1.2 Về mặt thực tiễn
Công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống (HĐGDKNS) cho học sinh
(HS) tại các trường tiểu học Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay đã đạt được những kết quả
nhất định. Các lực lượng giáo dục nhận thức đúng vị trí, vai trò của HĐGDKNS cho HS.
Hiệu trưởng các trường tiểu học đã phân công nhiệm vụ cho các lực lượng giáo dục, theo
dõi, đôn đốc, kiểm tra và động viên các lực lượng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình; đã tận
dụng hết các điều kiện cơ sở vật chất hiện có của nhà trường để phục vụ cho HĐGDKNS.
Nhiều hiệu trưởng đã tranh thủ sự ủng hộ của Phòng và Sở, phối hợp với các tổ chức
chính trị, các đồn thể trong trường, các tổ chức kinh tế tại địa phương, các các chuyên
gia và nhà nghiên cứu.
1
Mặc dù vậy, công tác quản lý HĐGDKNS cho HS tại các trường tiểu học tại Thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay vẫn cịn khơng ít hạn chế như: việc xây dựng kế hoạch
HĐGDKNS cho HS chưa được quan tâm đúng mức nên nội dung giáo dục còn mờ nhạt,
việc tổ chức và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ GDKNS cho HS chưa bài bản và thiếu đồng
bộ, việc kiểm tra và đánh giá thực hiện nhiệm vụ này gần như không thực hiện,…Trong
những hạn chế ấy, nổi bật hơn là công tác quản lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia
đình trong HĐGDKNS cho HS chưa được chú trọng nên kết quả GDKNS cho HS chưa
được đảm bảo và học sinh còn nhiều lúng túng khi xử lý các tình huống trong cuộc sống
hàng ngày.
Từ những phân tích về lý luận và thực tiễn nói trên cho thấy việc nghiên cứu:
“Biện pháp quản lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong hoạt động giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh tiểu học thành phố Hồ Chí Minh” là cần thiết.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Xác định các biện pháp quản lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong
cơng tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học Thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất
những biện pháp mới.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1 Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường tiểu học.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong hoạt động
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học thành phố Hồ Chí Minh
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Mặc dù các lực lượng giáo dục đã nhận thức được sự cần thiết và tính khả thi
nhưng việc áp dụng các biện pháp quản lý sự phối hợp giữa giáo viên và cha mẹ học
sinh trong hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học tại Thành phố Hồ
Chí Minh chưa được thực hiện thường xun. Có thể áp dụng một số biện pháp quản
lý sự phối hợp giữa giáo viên và cha mẹ học sinh với hình thức giáo dục kỹ năng sống
theo chủ đề.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia
đình trong hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học.
2
5.2. Xác định các biện pháp quản lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình
trong hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học tại TP. HCM hiện nay.
5.3. Đề xuất những biện pháp mới trong công tác quản lý sự phối hợp giữa nhà
trường và gia đình trong hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học tại TP.
HCM
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Về nội dung nghiên cứu:
Khi phân tích sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong HĐGDKNS cho HS,
có thể nhận thấy có nhiều sự phối hợp bộ phận hợp thành; và nghiên cứu này tập trung
vào sự phối hợp giữa giáo viên và cha mẹ học sinh. Vì vậy, việc nghiên cứu biện pháp
quản lý sự phối hợp cũng sẽ tập trung vào việc nghiên cứu biện pháp quản lý sự phối
hợp giữa giáo viên và cha mẹ học sinh.
- Về đối tượng khảo sát: Các đối tượng khảo sát có liên quan đến đề tài là: cán bộ
quản lý (CBQL), giáo viên (GV), cha mẹ học sinh (CMHS), học sinh (HS).
- Thời gian: Từ năm 2013-2015
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Phương pháp luận
7.1.1. Tiếp cận lịch sử-logic
Tiếp cận lịch sử-logic thể hiện như sau:
- Nghiên cứu biện pháp quản lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong
HĐGDKNS cho HS tại các trường tiểu học TP. HCM trên cơ sở tiếp cận các nghiên
cứu có liên quan từ trước đến nay.
- Nghiên cứu theo trình tự: Từ việc xác định các biện pháp quản lý đang được thực
hiện sẽ đề xuất các biện pháp mới.
7.1.2. Tiếp cận hệ thống - cấu trúc
Tiếp cận hệ thống - cấu trúc thể hiện như sau:
- Quản lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong HĐGDKNS cho HS được
xem như quản lý một hệ thống có cấu trúc gồm: mục đích phối hợp, nội dung phối
hợp, chủ thể phối hợp, hình thức và phương pháp phối hợp, các điều kiện phối hợp.
- Nghiên cứu hệ thống các biện pháp quản lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia
đình trong HĐGDKNS cho HS, các biện pháp này có mối quan hệ biện chứng với
nhau.
3
7.1.3. Tiếp cận thực tiễn
Tiếp cận thực tiễn thể hiện như sau:
- Khảo sát thực trạng sử dụng các biện pháp quản lý sự phối hợp giữa nhà trường
và gia đình trong HĐGDKNS cho HS ở các trường tiểu học TP. HCM.
- Đề xuất những biện pháp quản lý mới dựa trên cơ sở kết quả khảo sát thực trạng
nói trên và đặc điểm, điều kiện đặc thù của giáo dục tiểu học TP. HCM.
7.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các nội dung có liên quan đến
đề tài được thể hiện trong các tài liệu của Đảng, chính phủ, Bộ GD-ĐT, Sở, Phịng
nhằm xây dựng hệ thống cơ sở lý luận về quản lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia
đình trong cơng tác GDKNS cho HS tiểu học.
7.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Trong các phương pháp sau đây, phương pháp phỏng vấn là pp phụ, các
phương pháp khác còn lại là phương pháp chính
7.2.2.1. Phương pháp điều tra giáo dục
- Mục đích: Phương pháp này được sử dụng nhằm mục đích thu thập thơng tin
về thực trạng sử dụng các biện pháp quản lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình
trong HĐGDKNS cho HS ở các trường tiểu học TP. HCM.
- Nội dung, công cụ và mẫu:
Nội dung điều tra tập trung vào 2 khía cạnh: mức độ thực hiện thường xuyên
các biện pháp quản lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong HĐGDKNS, và
sự cần thiết và tính khả thi của các biện pháp quản lý sự phối hợp nhà trường và gia
đình trong HĐGDKNS cho HS.
Công cụ là Phiếu hỏi số 1, nội dung được trình bày trong phần Phụ lục.
Mẫu nghiên cứu gồm 238 CBQL, GV, NV và cha mẹ HS của 06 trường tiểu
học: Trường tiểu học Nguyễn Sơn Hà Quận 3, Trường tiểu học Phan Đình Phùng
Quận 3, Trường tiểu học Nguyễn Trường Tộ Quận 4, Trường tiểu học Lý Thái Tổ và
Trường tiểu học Đinh Công Tráng Quận 8, Trường tiểu học Trần Văn Kiểu Quận 10.
7.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn
4
- Mục đích: Phương pháp này được sử dụng nhằm mục đích thu thập thêm một
số thơng tin về mức độ thực hiện thường xuyên, sự cần thiết và tính khả thi của các
biện pháp quản lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong HĐGDKNS cho HS.
- Nội dung, công cụ và mẫu:
Sử dụng Phiếu hỏi số 2, nội dung các câu hỏi phỏng vấn tập trung vào mức độ
thực hiện thường xuyên, sự cần thiết và tính khả thi của các biện pháp quản lý sự phối
hợp giữa nhà trường và gia đình trong HĐGDKNS cho HS.
Mẫu phỏng vấn gồm 45 người: 10 CBQL, 15 GV và 20 CMHS của 6 trường nói
trên.
Cách xử lý kết quả: Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp nội dung trả lời
phỏng vấn theo 3 nhóm đối tượng: CBQL, GV, CMHS và tổng hợp chung cho cả 3
nhóm đối tượng.
7.2.2.3. Phương pháp thực nghiệm
- Mục đích: Khẳng định tính khả thi và hiệu quả của một số biện pháp quản lý
cụ thể trong quản lý sự phối hợp giữa GV và CMHS trong công tác GDKNS cho HS.
- Nội dung: Thực nghiệm ba biện pháp cụ thể về quản lý sự phối hợp giữa GV
và CMHS trong GDKN cho HS bao gồm: biện pháp chính là: Chỉ đạo GV phối hợp
với CMHS thực hiện đúng tiến độ kế hoạch GDKNS, và 2 biện pháp hỗ trợ là: Mời
Ban đại diện cha mẹ HS cùng tham gia xây dựng kế hoạch chung về GDKNS cho HS
và Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cho GV và CMHS về GDKNS.
- Công cụ: Sử dụng 5 công cụ như sau:
Phiếu đánh giá mức độ phối hợp giữa GV và CMHS trong GDKNS cho HS
(Phụ lục 3). Phiếu này dùng để đo mức độ phối hợp giữa GV và CMHS trong GDKNS
cho HS; dùng trước và sau thực nghiệm. Đây là công cụ quan trọng làm cơ sở cho việc
đánh giá kết quả của biện pháp quản lý được thực nghiệm.
Phiếu đánh giá kỹ năng giao tiếp với cha mẹ của học sinh (Phụ lục 4). Phiếu
này dùng để đo kỹ năng giao tiếp của HS với cha mẹ của các em; dùng trước và sau
thực nghiệm.
Phiếu phỏng vấn về tính khả thi và hiệu quả của biện pháp quản lý sự phối hợp
giữa GV và CMHS trong GDKNS (Phụ lục 5). Phiếu này dùng để thu thập thông tin từ
CBQL, GV, CMHS tham gia thực nghiệm về tính khả thi và hiệu quả của biện pháp
quản lý sự phối hợp giữa GV và CMHS trong GDKNS.
5
Phiếu thăm dị ý kiến học sinh về Chương trình giáo dục kỹ năng giao tiếp với
cha mẹ (Phụ lục 6). Phiếu này dùng để thu thập thông tin từ HS về nhận thức và thái
độ của các em khi tham gia chương trình này.
Vở ghi (Phụ lục 7). Vở này dùng cho HS khi tham gia chương trình để ghi lại
nội dung học tập và dùng chung cho GV và CMHS để theo dõi và ghi ý kiến trong suốt
thời gian tham gia chương trình này.
- Chọn mẫu và tiến trình: Chọn 1 trường thực nghiệm và 1 trường đối chứng.
Thực nghiệm được thực hiện theo trình tự gồm 7 bước, được trình bày cụ thể hơn
trong Chương 3.
7.2.3. Nhóm các phương pháp thống kê tốn học
Sử dụng phần mềm SPSS 17.0 để phân tích số liệu có liên quan với nhiệm vụ
nghiên cứu.
8. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Mở đầu: Lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu, khách thể nghiên cứu, đối tượng
nghiên cứu, giả thuyết khoa học, nhiệm vụ nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, phương
pháp nghiên cứu.
Nội dung:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý sự phối hợp giữa giữa giáo viên và cha mẹ học
sinh trong HĐGDKNS cho HS tiểu học.
Chương 2: Thực trạng sử dụng các biện pháp quản lý sự phối hợp giữa giáo viên và
cha mẹ học sinh trong HĐGDKNS cho HS ở một số trường tiểu học tại Thành phố Hồ
Chí Minh.
Chương 3: Đề xuất một số biện pháp quản lý sự phối hợp giữa giáo viên và cha mẹ
học sinh trong HĐGDKNS cho HS tiểu học Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết luận và kiến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
6
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ SỰ PHỐI HỢP GIỮA GIÁO
VIÊN VÀ CHA MẸ HỌC SINH TRONG HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG
SỐNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
1.1.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1.1. Tổng quan nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1.1.
Về sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong cơng tác GDKNS cho
học sinh
Từ lâu, trên thế giới, giáo dục kỹ năng sống cho thế hệ trẻ là nội dung được
nhiều nước đưa vào chương trình giáo dục cho thế hệ trẻ nhằm hình thành ở thế hệ trẻ
năng lực thích ứng và làm chủ các tình huống trong cuộc sống. Để thực hiện nhiệm vụ
GDKNS cho thế hệ trẻ, thầy cô giáo và cha mẹ học sinh là hai lực lượng giáo dục
chính và sự phối hợp giữa họ là rất cần thiết, mang tính quyết định kết quả GDKNS.
Từ những năm 1960, khái niệm kỹ năng sống (KNS) và giáo dục kỹ năng sống
(GDKNS) đã được khơng chỉ nhiều nhà quản lý mà cịn nhiều GV và CMHS quan tâm
tìm hiểu và nghiên cứu. Sự quan tâm thường tập trung nhiều về các khía cạnh: khái
niệm, nội dung và hình thức GDKNS.
Từ những năm 1990, thuật ngữ “Kỹ năng sống” đã xuất hiện trong một số
chương trình hành động của các tổ chức lớn trên thế giới và trong nhiều chương trình
giáo dục của nhiều nước trên thế giới. Các nghiên cứu trên thế giới đều hướng đến tìm
một quan niệm chung về KNS và GDKNS và từ đó đưa ra mục tiêu, nội dung giáo dục
kỹ năng sống. UNESCO, UNICEF, WHO là những tổ chức đi tiên phong trong việc
khuyến khích tất cả các quốc gia trên thế giới đưa GDKNS vào chương trình giáo dục
của mình. Mục tiêu của GDKNS cho thế hệ trẻ toàn cầu được các tổ chức này thống
nhất là nâng cao tiềm năng của con người, đặc biệt là thế hệ trẻ để họ có được những
hành động nhằm thích ứng và làm chủ cuộc sống và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Theo quan niệm của tổ chức UNICEF, những thử thách mà trẻ em và thanh
niên phải đối mặt là rất nhiều và đòi hỏi cao hơn là kỹ năng đọc, viết, tính tốn;
GDKNS là tạo ra sự thay đổi hành vi, là khả năng chuyển đổi kiến thức và thái độ
thành hành động [5]. UNICEF đề nghị hệ thống KNS gồm 3 nhóm kỹ năng được nhìn
nhận dưới góc độ tồn tại và phát triển cá nhân bao gồm: 1) Nhóm kỹ năng tự nhận thức
và sống với chính mình: kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân, kỹ năng xây dựng
mục tiêu cuộc sống, kỹ năng bảo vệ bản thân,…2) Nhóm kỹ năng tự nhận thức và sống
7
với người khác: kỹ năng thiết lập quan hệ, kỹ năng hợp tác, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
làm việc nhóm, …3) Nhóm kỹ năng ra quyết định và làm việc hiệu quả: kỹ năng phân
tích vấn đề, kỹ năng nhận thức thực tế, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng ứng xử, kỹ
năng giải quyết vấn đề,…
Theo quan niệm của tổ chức UNESCO, hệ thống KNS gồm 2 nhóm kỹ năng: 1)
Những KNS chung gồm: kỹ năng nhận thức, kỹ năng đương đầu với cảm xúc, kỹ năng
xã hội hay kỹ năng tương tác. 2) Những kỹ năng trong từng vấn đề cụ thể như: các vấn
đề về giới, phịng chống bạo lực, gia đình và cộng đồng, bảo vệ thiên nhiên và môi
trường,… [6].
Theo quan niệm của tổ chức WHO, KNS là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng
và đối phó với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày. Cụ thể hơn, nó
là khả năng ứng phó một cách hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc
sống, đó cũng là khả năng một cá nhân duy trì trạng thái khỏe mạnh về tinh thần biểu
hiện qua các hành vi tích cực và phù hợp khi tương tác với người khác, với nền văn
hóa và mơi trường xung quanh; năng lực tâm lý xã hội có vai trị phát huy sức khỏe về
thể chất, tinh thần và xã hội. WHO đưa ra hệ thống các KNS cần được giáo dục cho
người học là: 1) Nhóm kỹ năng nhận thức: Kỹ năng tự nhận thức bản thân, nhận thức
hậu quả, xác định mục tiêu, xác định giá trị, tư duy sáng tạo, tư duy phê phán, ra quyết
định, giải quyết vấn đề,…2) Nhóm kỹ năng xã hội hay kỹ năng tương tác: kỹ năng
giao tiếp, kỹ năng quyết đoán, thương thuyết, kỹ năng hợp tác, kỹ năng từ chối, kỹ
năng cảm thông và chia sẻ, khả năng nhận thấy thiện cảm của người khác,…3) Nhóm
kỹ năng đương đầu với cảm xúc: ý thức trách nhiệm, cam kết, kỹ năng kiềm chế căng
thẳng, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng tự quản lý, tự giám sát, tự điều chỉnh,…
[7].
Từ những năm 2000, các quốc gia trên thế giới khi xây dựng chương trình
GDKNS cho HS đã nhấn mạnh vai trị quan trọng của nhà trường, gia đình và sự phối
hợp giữa hai lực lượng này trong công tác GDKNS cho HS. Theo tài liệu của Quỹ cứu
trợ nhi đồng liên hiệp quốc (UNICEF), đã có hơn 155 nước trên thế giới đưa GDKNS
vào nhà trường bằng nhiều hình thức giáo dục khác nhau [2, 12, 13, 30].
Trong những năm gần đây, đã có khá nhiều nghiên cứu và ấn phẩm về
GDKNS xuất hiện nhằm giới thiệu các vấn đề lý luận và thực tiễn của GDKNS dành
8
cho các nhà quản lý, nhà giáo dục, cha mẹ học sinh và những người làm công tác huấn
luyện, giáo dục trẻ em.
Về ấn phẩm, có thể dẫn ra một số ví dụ điển hình như: Life Skill Education and
Curriculum của Gracious Thomas (2006) nhấn mạnh vai trò của giáo viên và huấn
luyện viên trong việc trang bị các KNS cho trẻ em, The Indispensable - Book of
Practical Life Skills (2009) của Nic Compton cung cấp phương thức giải quyết những
vấn đề làm bối rối trước những thách thức của cuộc sống cho mọi lứa tuổi thông qua
hướng dẫn xử lý những tình huống cụ thể, Teaching Your Children Life Skills của
Deborah Carroll đề cập đến mười lưu ý khi dạy con trẻ để biến những cuộc đi mua
sắm, kỳ nghỉ và các tình huống khác trong sinh hoạt hàng ngày trở thành những cơ hội
học tập những KNS; chỉ ra cách thức ngắn gọn giúp trẻ em đối xử tử tế và phát triển
lòng tự trọng, Early Years Play and Learning: Developing social skills and
Cooperation của Pat Broadhead (2004) hướng dẫn giáo viên dạy trẻ về kỹ năng liên
quan đến ngơn ngữ, trí tuệ và cảm xúc và hướng dẫn học sinh tham gia và đánh giá khi
tham gia các trò chơi học tập liên quan đến KNS [53].
Về nghiên cứu, có rất nhiều nghiên cứu về GDKNS trong đó tập trung nhiều
vào khía cạnh ảnh hưởng của GDKNS đối với các phẩm chất của đối tượng giáo dục.
-Các nghiên cứu về vai trò của GDKNS đối với học sinh trước khi vào trường
tiểu học.
Khalid Rashid (2013) đã tiến hành các nghiên cứu của mình về GDKNS tại
Pakistan và chỉ ra rằng: trẻ em được chuẩn bị trước về KNS khi vào tiểu học sẽ tốt hơn
trẻ không được chuẩn bị trước về kết quả học các môn học: Khoa học, Toán và Tiếng
Anh, về kỹ năng xã hội và kiến thức giao tiếp. kết quả nghiên cứu cũng đã nhấn mạnh
rằng: thành tích của trẻ có cha mẹ có trình độ đại học, là cơng chức, nhân viên văn
phòng cũng tốt hơn những trẻ khác; và càng đầu tư nhiều vào việc giáo dục trẻ em
trước khi đến trường, càng thuận lợi hơn trong việc phát triển thái độ tích cực và hạn
chế những điều khơng mong muốn ở trường tiểu học và một nền tảng vững chắc là
điều kiện của chất lượng giáo dục. Nhiều nhà nghiên cứu khác cũng đồng quan điểm,
trong đó có thể nhắc đến Berlinski và những cộng sự nghiên cứu.
-Các nghiên cứu về hiệu quả tác động của các chương trình GDKNS phát triển
mạnh về số lượng và chất lượng.
9
Tại Mỹ, Jane Tuttle, Nancy Campbell-Heider, Tamala M. David (2006) đã
thành cơng với chương trình giáo dục kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng tư duy tích
cực của trẻ em từ 12-16 tuổi. Tại Thổ Nhĩ Kì, Müge Yukay Yüksel (2013) đã thực hiện
nghiên cứu về GDKNS cho học sinh tiểu học, với mục đích phát triển kỹ năng suy
luận cho học sinh tiểu học thông qua các chương trình giáo dục kỹ năng xã hội. Kết
quả nghiên cứu cho thấy hành vi xã hội ở trường của của học sinh không phụ thuộc
vào khả năng học tập, tuy nhiên trình độ thơng minh của học sinh có ảnh hưởng tích
cực đến hiểu biết xã hội, kỹ năng học thuật và hành vi chống đối xã hội. Khi so sánh
về giới tính, kết quả cho thấy trình độ xã hội của các học sinh nữ 7-9 tuổi cao hơn học
sinh nam, trong khi đó hành vi khơng mang tính tích cực xã hội của các học sinh nam
cao hơn học sinh nữ.
Tại Canada, Marios Goudas, Georgios Giannoudis (2007) với Chương trình
giáo dục kỹ năng sống dựa trên thể thao đồng đội được thực nghiệm trên 165 học sinh
lớp 6 và lớp 8. Kết quả đánh giá cho thấy nhóm thực nghiệm chương trình này có
thành tích cao hơn nhóm đối chứng về thành tích thể thao, kỹ năng xây dựng mục tiêu,
kỹ năng tư duy tích cực và giải quyết vấn đề. Shauna Kingsnorth, Helen Healy, Colin
Macarthur (2007) đã xây dựng chương trình giáo dục kỹ năng sống giúp phát triển kỹ
năng tự lập cho thanh thiếu niên có vấn đề về thiểu năng trong suốt thời gian từ 1985
đến 2006.
Tại Iran, Fariba Bashardoost Tajalli, Zahra Zandi (2010) đã quan sát và phát
biểu rằng ở nhiều nước trên thế giới, giáo dục kỹ năng sống được thực hiện ở tiểu học,
trung học và nó là chương trình nền tảng để phát triển khả năng tâm lý và xã hội. Họ
đã tổ chức nghiên cứu và đã chỉ ra sự khác biệt về kỹ năng tư duy sáng tạo của học
sinh tại Tehran, những em tham gia chương trình huấn luyện KNS so với những em
không tham gia. Esmaeilinasab Maryam, Malek Mohamadi Davuod, Ghiasvand Zahra,
Bahrami Somayeh (2011), Việc huấn luyện kỹ năng sống có thể gia tăng kỹ năng tôn
trọng ( sử dụng thang đo của Cooper Smith về lòng tự trọng, phiên bản 58 câu) và kỷ
luật học đường cũng như các khía cạnh khác của giáo dục nhân cách của sinh viên ở
thành phố Karaj, Iran.
Tại các nước khác, các nghiên cứu về hiệu quả của chương trình GDKNS cho
HS cũng phát triển mạnh.
10
Bita Rahmati, Nastaran Adibrad, Karineh Tahmasian, Bahram Saleh Sedghpour
(2010) đã nghiên cứu thành cơng tác dụng của chương trình GDKNS đối với sự thích
ứng xã hội của trẻ em học sinh lớp 4 trường tiểu học dựa trên thang đo kỹ năng xã hội
của Mattson. Họ xem chương trình kỹ năng sống là một tiếp cận thay đổi hành vi có
hiểu biết có liên quan với sự phát triển các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống như tự
nhận thức, giao tiếp, ra quyết định, quản lý cảm xúc, quyết đoán, xây dựng mối quan
hệ. Akbar Mohammadi (2011) nghiên cứu việc làm gia tăng sự hài lòng của nữ sinh
trường trung học Tabriz, Iran về cuộc sống thông qua một chương trình GDKNS, với
cơng cụ đánh giá trước và sau chương trình là một bảng hỏi về sự hài lịng đối với
cuộc sống. Kết quả nghiên cứu đã chứng minh rằng chương trình huấn luyện GDKNS
này đã làm gia tăng sự hài lòng của nữ sinh.
Emel Arslan, Neslihan Durmus, Og ˘lu-Saltali và Hasan Yilmaz đã xem KNS
như là những kỹ năng xã hội và thực hiện nghiên cứu trên 224 trẻ em 6 tuổi, sử dụng
Thang đánh giá kỹ năng xã hội (Avcıoğlu, 2003) và Thang đo cảm xúc và hành vi xã
hội (Epstein, Synhorst, Cress, & Allen, 2009). Kết quả nghiên cứu cho thấy có một sự
liên hệ tích cực giữa các kỹ năng xã hội với những phẩm chất nhân cách của học sinh
tiểu học như: hiểu biết các quy tắc cảm xúc, hiểu biết học đường, sự tự tin và sự gắn
kết với gia đình. Nghiên cứu cũng đã chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa cảm xúc và
hành vi của trẻ với kỹ năng xã hội.
Mansoureh Moghtadaie (2012) đã thực nghiệm một chương trình giáo dục kỹ
năng xã hội tại Iran và đã đánh giá hiệu quả của chương trình này dựa trên chỉ số đánh
giá hành vi xã hội của nam sinh tiểu học thành phố Esfahan bằng việc sử dụng thang
đo của Rigby and Slee. Kết quả cũng cho thấy huấn luyện kỹ năng xã hội có thể phát
triển mối quan hệ giữa trẻ em với các trẻ em khác cùng độ tuổi. Không thể không nhắc
đến Sevil Momeni, Manoucher Barak, Reza Kazemi, Abbas Abolghasemi, Masoud
Babaei và Frahnaz Ezati với những kết quả nghiên cứu về chương trình huấn luyện
KNS đã có kết quả cải thiện hiểu biết xã hội và trình độ cảm xúc của học sinh.
Nhìn chung, GDKNS là được quan tâm ngày càng nhiều từ hơn 50 năm qua.
KNS được hiểu là khả năng hành động mà con người cần rèn luyện để thích ứng và
làm chủ cuộc sống hiện tại cũng như tương lai của mình. Các nghiên cứu trên thế giới
đã tập trung nhiều đến vai trò và tác động của giáo viên hoặc người huấn luyện mà
chưa nghiên cứu nhiều về vai trò và tác động của cha mẹ học sinh đối với quá trình
11
hình thành KNS cho HS cũng như sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong cơng
tác này.
1.1.1.2.
Về Quản lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong công tác
GDKNS cho học sinh HĐGDKNS
Từ những năm 1990, HĐGDKNS phát triển mạnh trên toàn thế giới đã đặt ra
một vấn đề lớn cho các nhà quản lý giáo dục của các nước một câu hỏi: “Tổ chức và
quản lý hoạt động này như thế nào để đạt được mục tiêu HĐGDKNS?” Theo xu thế
phát triển HĐGDKNS cho thế hệ trẻ, việc quản lý hoạt động này ở các nước đều do
chính phủ quản lý, cụ thể là các Bộ có liên quan về giáo dục, huấn luyện phụ trách.
Mỗi quốc gia xây dựng chương trình giáo dục riêng cho mình, tùy theo đặc điểm và
điều kiện phát triển riêng.
Có 4 hướng nghiên cứu chính như sau: 1) Nghiên cứu cơng tác quản lý
HĐGDKNS cho học sinh có quan hệ mật thiết với quản lý việc huấn luyện kỹ năng cho
người lao động; 2) Nghiên cứu mơ hình quản lý nhà trường gắn với mục tiêu GDKNS cho
học sinh; 3) Nghiên cứu công tác quản lý HĐGDKNS ở các khía cạnh cụ thể: quản lý nội
dung, hình thức, phương pháp, điều kiện HĐGDKNS; 4) Nghiên cứu về quản lý sự phối
hợp giữa các lực lượng giáo dục trong công tác GDKNS cho HS.
Hướng nghiên cứu về quản lý sự phối hợp giữa các lực lượng giáo dục trong công
tác GDKNS cho HS gần như chưa được thực hiện nhiều, tuy nhiên cũng có những nghiên
cứu đáng chú ý như sau:
Hawkings, Lishner, Catalano, Howard (1986); Osgood, Johnston, Bachman (1988)
cho rằng những trẻ em được gia đình quan tâm và tạo cơ hội để có hiểu biết về xã hội thì
có thể tránh được việc bỏ học, lơ là trong học tập, phạm pháp, nghiện rượu và thuốc lá,
ma túy, tình dục trước tuổi thành niên, Theo các tác giả này, cha mẹ đóng vai trị quan
trọng trong việc dạy trẻ các kỹ năng xã hội, ngay cả những trẻ có thể tự giáo dục thì cũng
cần giúp đỡ của cha mẹ và cần phải dạy chúng chứ không để chúng phát triển tự phát.
Kube, Ratigan (1991); Morrison, Oloivos, Lena, Domingeuz (1993) nhấn mạnh vai
trò của cha mẹ và các tổ chức xã hội, giáo viên và tất cả nhân viên nhà trường trong việc
xây dựng chương trình phát triển hành vi xã hội cho trẻ em và cho rằng cần phải tận dụng
tất cả mọi nguồn lực của tất cả các đối tượng người lớn để giáo dục trẻ.
Bàn về vai trò của nhà trường, Levine (1998) khẳng định trường học là nơi trẻ em
sinh sống với bạn cùng tuổi trong thời gian nhiều năm. Đó là mơi trường tự nhiên và hoàn
12
hảo để thể hiện các kỹ năng sống; và có thể dạy trẻ ở mỗi tình huống trong nhà trường
chứ khơng chỉ trong lớp học.
Tóm lại, tuy có chưa nhiều nghiên cứu về sự phối hợp và quản lý sự phối hợp trong
GDKNS cho HS nhưng có thể nói rằng: bên cạnh việc đề cao vai trò tiên phong của các
nhà quản lý giáo dục trong hoạch định, tổ chức và đánh giá HĐGDKNS cho HS, người ta
đã nhận thấy tầm quan trọng của sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình và tầm quan
trọng của cơng tác quản lý sự phối hợp này trong quá trình GDKNS cho thế hệ trẻ.
1.1.2. Tổng quan nghiên cứu trong nước
1.1.2.1.
Về sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong cơng tác GDKNS cho
học sinh
Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, việc giáo dục con người biết cách đối nhân,
xử thế đã được các nhà giáo dục coi trọng trong quá trình giáo dục thế hệ trẻ. Nội dung
giáo dục cụ thể là: giáo dục cách ăn nói, cách đi đứng, cách chào hỏi, cách cư xử, cách
làm việc,…trong gia đình, nhà trường và ngoài xã hội. Phương pháp giáo dục được
thực hiện rất phong phú: kể chuyện, quan sát, phân tích, làm gương, thực hành,.. Hình
thức giáo dục được khuyến khích thực hiện khơng chỉ trong những giờ học ở trường
mà có thể thực hiện trong cuộc sống ở gia đình, ở những nơi cơng cộng. Khơng chỉ có
giáo viên mà cha mẹ học sinh và các thành phần khác trong xã hội đều tham gia giáo
dục. Quá trình giáo dục và tự giáo dục về kỹ năng sống ở mỗi người gần như phải
được thực hiện suốt đời, từ khi sinh ra cho đến tuổi về già. Như vậy, xét ở khía cạnh
chủ thể của q trình giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức, lối sống nói riêng, người
ta đã nhận thấy vai trị của khơng chỉ nhà trường mà cịn gia đình và các lực lượng xã
hội cũng như sự phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng này.
Từ những năm 1990, theo xu thế phát triển giáo dục chung của thế giới, thuật
ngữ KNS và GDKNS bắt đầu được quan tâm nhiều tại Việt nam bởi chính phủ và các
bộ, ngành có liên quan. Các chủ trương, chính sách về giáo dục có liên quan GDKNS
cho học sinh được ban hành. Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản chỉ đạo số
1363/TTg về việc “Đưa nội dung giáo dục môi trường vào hệ thống giáo dục quốc
dân” nhằm đề cập đến việc trang bị cho người học những kỹ năng ứng xử với môi
trường; Bộ GD&ĐT ban hành Chỉ thị số 10/CT-GD&ĐT năm 1995 và Chỉ thị số
24/CT-GD&ĐT năm 1996 về cơng tác phịng chống HIV/AIDS và tăng cường cơng
tác phịng chống ma túy tại trường học, đã đề cập đến những kỹ năng sống cần giáo
13
dục cho HS nhằm tránh xa hiểm họa ma túy và bệnh AIDS như: kỹ năng từ chối, kỹ
năng bảo vệ bản thân, kỹ năng ứng xử, kỹ năng chia sẻ. Theo đó, các chương trình và
dự án liên quan với GDKNS đã bắt đầu được triển khai. Ví dụ, các chương trình
GDKNS của các dự án do UNICEF tài trợ đã đem lại những kết quả đáng kể. Năm
1996, chương trình: “Giáo dục kỹ năng sống để bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/
AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường” đã giáo dục cho thanh thiếu
niên các kỹ năng: tự nhận thức, giao tiếp, kiên định, xác định giá trị.
Từ năm 2000, chủ đề GDKNS cho học sinh được bàn thảo và nghiên cứu ngày
càng nhiều. Bộ GD&ĐT xác định GDKNS cho học sinh là một trong những nội dung
chính thức của giáo dục phổ thông. Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo cho nhiều tỉnh thành trong
cả nước thực hiện GDKNS cho học sinh phổ thông thông qua dự án “Giáo dục sống
khỏe mạnh, kỹ năng sống cho trẻ vị thành niên” với sự hỗ trợ của UNICEF với những
nội dung: phòng chống HIV/AIDS, ma túy, sức khỏe sinh sản, vấn đề quan hệ tình dục
sớm nhằm mục đích hình thành thái độ tích cực của HS đối với việc xây dựng cuộc
sống khỏe về thể chất, mạnh về tinh thần, hiểu biết về xã hội, nâng cao nhận thức của
cha mẹ các em về KNS để họ chủ động trong việc trang bị kiến thức, những KNS cho
con em mình [2, 65]. Bên cạnh đó, các chương trình GDKNS được tài trợ cũng được
xuất hiện ngày càng nhiều, ví dụ như chương trình GDKNS cho HS qua ngoại khóa
theo Dự án VIE 01/2010 do UNFPA tài trợ với nhiều tài liệu hướng dẫn các hoạt động
ngoại khóa về giáo dục rất bổ ích. Các hội thảo và hội nghị ở phạm vi quốc gia đã
được tổ chức để bàn về GDKNS cho HS. Năm 2003 tại Hà Nội, với sự tài trợ của
UNESCO, Bộ GD&ĐT đã tổ chức hội thảo quốc gia: “Chất lượng giáo dục và kỹ năng
sống”. Tham gia hội thảo này, các nhà giáo dục và các đại biểu đã cùng nhau bàn luận
các vấn đề về KNS, đánh giá chất lượng GDKNS trong những năm qua, giới thiệu một
số mơ hình GDKNS tiêu biểu. Hội thảo đã hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về lý
luận và thực tiễn của GDKNS cho HS Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Xét ở khía
cạnh chủ thể giáo dục, có thể nhận thấy rằng các dự án này khi triển khai đều chú
trọng đến công tác huấn luyện, tập huấn không chỉ cho GV mà còn cho cả cha mẹ học
sinh cùng tham gia để cùng nhau nhận thức và có hành động phối hợp thống nhất.
Từ năm học 2007 – 2008, Bộ GD&ĐT đã chính thức phát động phong trào thi
đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” và xác định GDKNS cho HS
là một trong năm nội dung của phong trào này trong các trường phổ thông giai đoạn
14
2008 - 2013 trong hầu hết các trường học từ mầm non đến đại học trên phạm vi cả
nước. Phong trào được bắt đầu triển khai mạnh mẽ. Theo phong trào đó, các nghiên
cứu và ấn phẩm về GDKNS cho học sinh được thực hiện ngày càng nhiều bởi không
chỉ các trung tâm nghiên cứu mà cịn các nhóm, các cá nhân. Về nghiên cứu, Trung
tâm nghiên cứu giáo dục học, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội đã thực hiện nhiều nghiên
cứu về những KNS cần thiết cho học sinh trên phạm vi quốc gia. Nguyễn Thanh Bình
và cộng sự đã nghiên cứu cơ sở lý luận của GDKNS và thực trạng GDKNS cho học
sinh ở nhiều cấp học khác nhau, đã chỉ ra nội dung cần giáo dục cho trẻ em từng độ
tuổi. Trẻ mầm non cần học những kỹ năng tự phục vụ, giao tiếp ứng xử, phát triển thể
chất, phát triển nhận thức và ngôn ngữ, phát triển tình cảm, kỹ năng trình diễn nghệ
thuật. Học sinh tiểu học cần tập trung vào các kỹ năng chính như: nghe, nói, đọc, viết,
tính tốn, kỹ năng sống trong cộng đồng, tư duy sáng tạo, tư duy phê phán, giải quyết
vấn đề, ra quyết định. Học sinh trung học cơ sở cần rèn luyện năng lực thích nghi,
năng lực hành động, ứng xử và học tập suốt đời. Các tác giả đã nhấn mạnh GDKNS
cho HS cần được thực hiện chủ yếu thơng qua chương trình các mơn học, các hoạt
động giáo dục của nhà trường và có thể cùng với các chương trình của các dự án do
nước ngoài tài trợ. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu khác của các cá nhân về GDKNS cũng
đã được thực hiện. Có thể kể thêm như nghiên cứu của Lê Thị Xuân Thu (2011) về kỹ
năng sống của trẻ mẫu giáo, tìm hiểu về thực trạng KNS của trẻ mẫu giáo và đề xuất
một số biện pháp nhằm phát triển KNS cho trẻ; Nguyễn Hữu Long (2010) đã tổng hợp
các vấn đề lý luận về KNS, khái quát thực trạng và biện pháp rèn luyện và tác động về
mặt tâm lý nhằm hình thành và phát triển KNS cho HS trung học cơ sở; Phan Thanh
Vân (2010) nghiên cứu GDKNS cho học sinh trung học phổ thơng qua hoạt động giáo
dục ngồi giờ lên lớp với mục đích nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả GDKNS
cho học sinh. Nhiều ấn phẩm về GDKNS cho HS đã được xuất bản như sách “Giáo dục
kỹ năng sống trong các môn học ở tiểu học” của Bộ GD-ĐT (2010) đã nêu lên những
vấn đề chung về KNS và GDKNS như: quan niệm về KNS và GDKNS, phân loại, tầm
quan trọng của KNS và GDKNS cho HS, các hình thức và phương pháp GDKNS cho
HS, hướng dẫn giáo viên lồng ghép GDKNS vào các bài học cụ thể, các môn học cụ
thể. Tài liệu “Hướng dẫn tích hợp các KNS trong một số mơn học” của Bộ GD&ĐT
(2010) đưa ra danh mục các KNS gồm có 21 kỹ năng cần thiết: kỹ năng tự nhận thức,
kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng ứng phó với căng thẳng,
15
kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, kỹ năng thể hiện sự tự tin, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lắng
nghe tích cực, kỹ năng thể hiện sự cảm thơng, kỹ năng thương lượng, kỹ năng giải
quyết mâu thuẫn, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng tư duy sáng tạo,
kỹ năng ra quyết định, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng kiên định, kỹ năng đảm
nhận trách nhiệm, kỹ năng đặt mục tiêu, kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng tìm kiếm
và xử lý thơng tin; tài liệu cũng nhấn mạnh ngồi các kỹ năng trên, tùy theo đặc điểm
từng vùng, miền, địa phương mà có thể lựa chọn thêm một số KNS khác để giáo dục
cho phù hợp. Giáo trình “Giáo dục kỹ năng sống” của Nguyễn Thanh Bình (2008)
phân tích khái niệm, nguyên tắc và phương pháp GDKNS hiệu quả. Sách “Giáo dục
giá trị sống và kỹ năng sống cho học sinh tiểu học” của Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị
Kim Thoa, Bùi Thị Thúy Hằng (2010) cung cấp cho giáo viên tiểu học những kiến
thức về tâm lý học sinh tiểu học, nội dung, hình thức và phương pháp GDKNS, cung
cấp các ví dụ cụ thể cho giáo viên thực hiện các nội dung GDKNS. Những ấn phẩm
này rất cần thiết cho các bậc cha mẹ trong q trình ni dạy con cái và theo dõi hoạt
động giáo dục KNS cho HS của nhà trường, nơi con mình theo học.
Nhìn chung, khi phân tích khía cạnh nhà giáo dục trong HĐGDKNS cho HS nói
chung, HS tiểu học nói riêng, có thể nhận xét rằng các nghiên cứu tập trung nhiều hơn
vào yếu tố giáo viên-nhà giáo dục ở trường học và ít quan tâm đến yếu tố cha mẹ học
sinh-nhà giáo dục trong gia đình, lại càng ít quan tâm đến sự phối hợp giữa hai chủ
thể này trong quá trình giáo dục.
1.1.2.2.
Về quản lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong cơng tác
GDKNS cho học sinh
Trước năm 2007, có rất ít nghiên cứu về quản lý sự phối hợp giữa nhà trường
và gia đình trong HĐGDKNS cho HS. Hầu như chưa có một văn bản nào quy định về
vấn đề này. Tại các cơ sở giáo dục nói chung và trường tiểu học nói riêng, việc xây
dựng kế hoạch quản lý sự phối hợp giữa GV và CMHS trong HĐGDKNS hầu như
chưa được thực hiện.
Từ năm học 2007-2008, Bộ GD&ĐT phát động phong trào “Xây dựng trường
học thân thiện” đã thúc đẩy hoạt động GDKNS cho HS của các trường học và công tác
quản lý hoạt động này trở nên sơi nổi; và nó đã bắt đầu trở thành chủ đề nghiên cứu
của nhiều nhà quản lý, nhà giáo dục và nhà nghiên cứu. Trong các kế hoạch năm học
hàng năm tiếp sau đó của các Sở, Phịng GD&ĐT và các trường tiểu học trên tồn
16
quốc, nội dung GDKNS cho HS và việc phối hợp các LLGD trong công tác này đã
được nhắc đến thường xuyên. Tuy nhiên, giáo dục tiểu học trong những năm gần đây
phải đối diện với một khối lượng nhiệm vụ khá nặng nề nên việc nghiên cứu về
GDKNS cũng bị chia mỏng rất nhiều. Các nghiên cứu về GDKNS đề cập nhiều đến
quản lý mục tiêu và nội dung GDKNS, quản lý hình thức và phương pháp GDKNS,
quản lý GV, quản lý HS và các điều kiện cơ sở vật chất, tài chính để tổ chức
HĐGDKNS và ít đề cập đến quản lý sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình nói
chung, GV và CMHS nói riêng.
Trong các nghiên cứu của mình, Lương Thị Hằng (2012), Nguyễn Thị Quỳnh
Anh (2012), Nguyễn Hồng Thanh (2012) đã chỉ ra vai trò của GV bộ môn, GV chủ
nhiệm, của CMHS trong HĐGDKNS và đề nghị cần tổ chức sự phối hợp giữa GV với
CMHS để hướng dẫn và đánh giá kết quả rèn luyện KNS của HS. Các tác giả cũng đã
chỉ ra nguyên nhân của những thành công bước đầu trong công tác quản lý sự phối hợp
là sự hợp tác của một bộ phận cha mẹ học sinh, sự hưởng ứng của đa số GV trong
trường; và kết quả nghiên cứu cũng cho thấy cịn nhiều khó khăn mà hiệu trưởng phải
đối diện như: vẫn còn nhiều cha mẹ HS thiếu quan tâm đến việc giáo dục con, một số
GV cịn thờ ơ với cơng tác GDKNS. Tuy có ý kiến khác nhau về vai trò của từng đối
tượng, nhưng các ý kiến đều thống nhất rằng sự phối hợp các lực lượng giáo dục trong
HĐGDKNS cho HS là rất cần thiết, trong đó nhấn mạnh lực lượng trong nhà trường là
quan trọng hơn và quản lý sự phối hợp góp phần đảm bảo chất lượng GDKNS.
Một đóng góp khác của các nghiên cứu là những đề xuất có liên quan đến biện
pháp quản lý sự phối hợp. Về biện pháp tác động vào nhận thức của các LLGD, các
nghiên cứu đã đề xuất những biện pháp cụ thể như: tổ chức cho GV và nhân viên nhà
trường học tập, trao đổi về ý nghĩa của HĐGDKNS, tổ chức bồi dưỡng cho các LLGD
những kiến thức và kỹ năng GDKNS, tác động thông qua các buổi hội thảo và tọa
đàm, thảo luận các văn bản pháp quy có liên quan đến GDKNS, thông qua các cuộc thi
và trao đổi kinh nghiệm, các buổi họp cha mẹ học sinh, mời cha mẹ HS tham gia xây
dựng kế hoạch và tổ chức các loại hình GDKNS. Về biện pháp tăng cường chức năng
của nhà quản lý, Quỳnh Anh (2012), Tuấn (2011), Thanh (2012), Xuân (2012) và
nhiều người khác đều thống nhất các biện pháp cụ thể là: 1) Tập trung làm tốt công
việc xây dựng kế hoạch phối hợp giữa GV và CMHS trong GDKNS. Khi xây dựng kế
hoạch, cần chú ý đặc điểm thực tế riêng của nhà trường. 2) Xây dựng cơ cấu tổ chức:
17
thành lập ban chỉ đạo HĐGDKNS trong nhà trường; phân cấp quản lý cho đội ngũ tổ
trưởng chuyên môn, giao nhiệm vụ cụ thể cho GV và CMHS. 3) Tăng cường sự chỉ đạo
của hiệu trưởng đến tất cả các LLGD trong và ngoài nhà trường. 4) Tăng cường sự
kiểm tra và đánh giá của hiệu trưởng trong quản lý sự phối hợp, ví dụ như: xây dựng
tiêu chí và quy trình đánh giá; theo dõi thường xuyên và đánh giá việc thực hiện kế
hoạch. Về biện pháp phối hợp đồng bộ các LLGD, đa số các nghiên cứu đều thống nhất
yêu cầu phải tạo ra được sự phối hợp đồng bộ giữa nhà trường, gia đình và xã hội
trong quá trình tổ chức HĐGDKNS cho HS, phải biết tranh thủ sự ủng hộ về mọi
nguồn lực: tài lực, trí lực, vật lực,…của gia đình và xã hội. N.T. Quỳnh Anh (2012)
viết: “Phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để tổ chức tốt hoạt
động giáo dục kỹ năng sống chính là thực hiện xã hội hóa giáo dục…. Sự phối hợp
chặt chẽ của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường sẽ tạo nên môi trường
giáo dục tốt nhất cho học sinh. Đây cũng là đòi hỏi tất yếu khi nhà trường tổ chức các
hoạt động giáo dục cho học sinh” [2; tr.93-94]. Về phối hợp giữa nhà trường và gia
đình, L.T. Hằng (2012) đề xuất: nhà trường cần chỉ ra cho các bậc cha mẹ học sinh
những khả năng ưu thế đặc biệt của giáo dục gia đình, đặc biệt giúp cho họ ý thức
được một cách sâu sắc mục tiêu giáo dục của nhà trường, mục tiêu giáo dục giá trị
sống và kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thơng; mặt khác các bậc cha mẹ học
sinh có trách nhiệm chủ động phối hợp với nhà trường, hiểu rõ trách nhiệm của gia
đình, tránh tình trạng khốn trắng cho nhà trường hoặc tự đề ra những yêu cầu giáo
dục đi ngược lại mục tiêu giáo dục.
Tóm lại, đa số các nghiên cứu trong nước về quản lý HĐGDKNS cho HS từ
trước đến nay thường nghiên cứu theo chiều rộng với nhiều khía cạnh của cơng tác
quản lý, ít tập trung nghiên cứu sâu một khía cạnh cụ thể mà trong đó quản lý sự phối
hợp giữa GV và CMHS là một ví dụ; thường tập trung vào thực trạng hơn là biện pháp
mà trong đó thực trạng phối hợp các LLGD chưa được đào sâu; nếu có nghiên cứu
biện pháp quản lý thì hướng vào mơ tả biện pháp hơn là tổ chức thực nghiệm để chứng
minh tính hiệu quả của biện pháp.
1.2. SỰ PHỐI HỢP GIỮA GIÁO VIÊN VÀ CHA MẸ HỌC SINH TRONG
HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
1.2.1. Sự phối hợp
18
Phối hợp là hoạt động cùng nhau của hai hay nhiều cá nhân, tổ chức để hỗ trợ
cho nhau thực hiện một cơng việc chung.
Trong q trình phối hợp, mỗi bên cần nhận thức rõ mục đích phối hợp, nội
dung và cách thức phối hợp, nhiệm vụ của mỗi bên và các điều kiện cần thiết để sự
phối hợp nhịp nhàng và đạt mục đích đã đề ra.
Để phối hợp hiệu quả, mỗi bên cần ý thức mục đích phối hợp, nhiệm vụ riêng
của mình và nhiệm vụ chung, nội dung và hình thức phối hợp, các điều kiện phối hợp.
1.2.2. Sự phối hợp giữa giáo viên và cha mẹ học sinh trong hoạt động giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh tiểu học
1.2.2.1. Khái niệm
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học là hoạt động giáo dục, trong đó,
dưới tác động chủ đạo của nhà giáo dục, học sinh tiểu học chủ động tự giáo dục nhằm
hình thành và phát triển những khả năng, hành vi thích hợp và tích cực để ứng xử hiệu
quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống.
Từ định nghĩa trên, muốn đạt được mục tiêu GDKNS cho HS, cần quan tâm
trước hết là yếu tố nhà giáo dục. Nhà giáo dục trong HĐGDKNS cho HS tiểu học gồm
nhiều LLGD khác nhau, trong đó GV và CMHS là 2 lực lượng quan trọng nhất. Bàn
đến đây, chắc chắn không thể bỏ qua vai trò của GV và CMHS cũng như sự phối hợp
giữa họ.
Sự phối hợp giữa giáo viên và cha mẹ học sinh trong công tác giáo dục kỹ năng
sống ở trường tiểu học là quá trình giáo viên và cha mẹ học sinh cùng nhau nhận thức
và hành động vì mục đích chung đó là hình thành kỹ năng sống cho học sinh.
Thông thường, GV là người chủ động và CMHS là người hưởng ứng, góp sức;
và sự phối hợp này diễn ra dưới sự quản lý của hiệu trưởng trường tiểu học. Sự phối
hợp được thể hiện ở 2 khía cạnh chính: thống nhất nhận thức chung và thống nhất hành
động chung vì mục tiêu GDKNS cho HS.
1.2.2.2. Nội dung phối hợp giữa giáo viên và cha mẹ học sinh trong HĐGDKNS
Vị trí, vai trị, trách nhiệm, quyền lợi của cha mẹ học sinh
Cha mẹ học sinh là người thầy đầu tiên của các em. Họ dạy các em từ những
năm tháng đầu đời và những giá trị, những kỹ năng, thói quen của trẻ đều bắt nguồn
từ cha mẹ. Cha mẹ học sinh là những người quan trọng nhất trong quá trình giáo dục
con cái. Nhân cách của cha mẹ có ảnh hưởng đến nhân cách của con cái thông qua
19
giao tiếp hàng ngày trong gia đình.
Trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái là: 1) Nuôi dưỡng, chăm sóc, tạo điều
kiện cho con cái được học tập, rèn luyện, tham gia các hoạt động của nhà trường. 2)
Xây dựng những thói quen tốt cho con trong sinh hoạt, học tập. 3) Xây dựng gia đình
văn hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển toàn diện nhân cách của con. 4)
Phối hợp với nhà trường để giáo dục con.
Quyền lợi của cha mẹ học sinh là: 1) Được nhà trường cung cấp thông tin về việc
học tập và rèn luyện của con, 2) Tham gia Ban đại diện cha mẹ học sinh và các hoạt
động giáo dục của nhà trường theo kế hoạch, 3) Yêu cầu nhà trường giải quyết những
vấn đề liên quan đến giáo dục con, 4) Góp ý với nhà trường trong các vấn đề về giáo dục
học sinh.
Vị trí, vai trị, nhiệm vụ của giáo viên tiểu học
Giáo viên tiểu học cũng là một trong những người thầy đầu tiên của các em.
Họ cũng dạy các em từ những năm tháng đầu đời và những giá trị, những kỹ năng,
thói quen của các em cũng đều bắt nguồn từ họ. Nhân cách của giáo viên tiểu học có
ảnh hưởng đến nhân cách của học sinh thông qua giao tiếp hàng ngày ở nhà trường.
Nhiệm vụ của giáo viên trường tiểu học là: 1) Giảng dạy, giáo dục đảm bảo
chất lượng theo chương trình giáo dục, kế hoạch dạy học; soạn bài, lên lớp, kiểm tra,
đánh giá, xếp loại học sinh; quản lí học sinh trong các hoạt động giáo dục do nhà
trường tổ chức; tham gia các hoạt động chuyên môn; chịu trách nhiệm về chất lượng,
hiệu quả giảng dạy và giáo dục. 2) Trau dồi đạo đức, nêu cao tinh thần trách nhiệm,
giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo; gương mẫu trước học sinh, thương
yêu, đối xử công bằng và tôn trọng nhân cách của học sinh; bảo vệ các quyền và lợi
ích chính đáng của học sinh; đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp. 3) Học tập, rèn luyện để
nâng cao sức khỏe, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp
giảng dạy. 4) Tham gia công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở địa phương. 5) Thực
hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và của ngành, các quyết định của
Hiệu trưởng; nhận nhiệm vụ do Hiệu trưởng phân công, chịu sự kiểm tra, đánh giá của
Hiệu trưởng và các cấp quản lí giáo dục. 6) Phối hợp với Đội Thiếu niên Tiền phong
Hồ Chí Minh, gia đình học sinh và các tổ chức xã hội liên quan để tổ chức hoạt động
giáo dục [11].
20
Nội dung phối hợp
Trên cơ sở phân tích vị trí, vai trị, trách nhiệm của giáo viên và cha mẹ học
sinh nêu trên, áp dụng các luận điểm trên vào công tác GDKNS cho HS tiểu học, nội
dung phối hợp giữa GV và CMHS trong GDKNS được xác định như sau:
Phối hợp trong nhận thức
Phối hợp trong nhận thức là một nội dung quan trọng, là cơ sở cho hành động.
Nó được thể hiện ở chỗ: Giáo viên và CMHS trao đổi với nhau các quan điểm của
mình về KNS và cơng tác GDKNS cho HS, cùng nhau tìm những điểm chung và
những điểm khác biệt trong suy nghĩ của mỗi bên, từ đó thảo luận để đi đến thống
nhất nhận thức về các khía cạnh sau:
- Khái niệm KNS. Cần hiểu rằng KNS là năng lực hành động của mỗi người để
thích ứng và làm chủ trong các tình huống của cuộc sống. KNS khơng bẩm sinh mà
cần được giáo dục. Có nhiều trình độ KNS, từ trình độ kém đến trình độ giỏi, từ chưa
biết làm đến biết làm và đến thành thạo.
- Sự cần thiết phải giáo dục KNS. Cần nhận thức rằng cuộc sống luôn địi hỏi
mỗi người phải biết cách ứng xử để thích ứng và làm chủ. Khơng có KNS thì khó tồn
tại và tiến bộ.
- Hệ thống các KNS cần giáo dục cho HS. Thơng thường có 3 nhóm KNS là:
nhóm các KNS liên quan đến bản thân của mỗi cá nhân gồm: kỹ năng tự nhận thức,
xác định giá trị, kiểm sốt cảm xúc, thể hiện sự tự tin, ứng phó với căng thẳng; Nhóm
các KNS liên quan đến giao tiếp của cá nhân trong xã hội gồm: kỹ năng cảm thơng,
tìm kiếm sự hỗ trợ, giải quyết mâu thuẫn, lắng nghe, giao tiếp, hợp tác; Nhóm các
KNS liên quan đến học tập và làm việc gồm: kỹ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách
nhiệm, tìm kiếm và xử lý thơng tin, quản lý thời gian, tư duy sáng tạo, ra quyết định,
giải quyết vấn đề.
- Các hình thức GDKNS gồm: dạy học KNS như một môn học độc lập, dạy học
lồng ghép và tích hợp nội dung GDKNS trong các môn học hoặc tất cả các môn học, tổ
chức các chuyên đề giáo dục KNS, giáo dục KNS thông qua tham vấn và tư vấn, lồng
ghép nội dung giáo dục KNS vào các tiết sinh hoạt chủ nhiệm, lồng ghép nội dung
giáo dục KNS trong các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, lồng ghép nội dung giáo
dục KNS trong sinh hoạt ở trường, lồng ghép nội dung giáo dục KNS thông qua các
21
hoạt động văn thể mỹ và lao động, lồng ghép nội dung giáo dục KNS trong các hoạt
động của Đội thiếu niên và Sao nhi đồng, tổ chức các cuộc thi về GDKNS, tổ chức
GDKNS thơng qua hình thức tham quan, dã ngoại, cắm trại.
- Các phương pháp GDKNS cho HS tiểu học bao gồm: phương pháp thuyết
trình (giảng giải, kế chuyện), phương pháp đàm thoại (hỏi đáp, trao đổi), phương pháp
trực quan (sử dụng phương tiện trực quan), phương pháp thực hành (luyện tập, rèn
luyện), phương pháp giải quyết vấn đề (động não, giải quyết vấn đề, xử lý tình huống),
phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai, phương pháp trò chơi, phương
pháp dự án
- Các điều kiện cần thiết để giáo dục. Cần xác định các điều kiện về con người,
vật chất, thời gian, tiền bạc.
- Người thực hiện. Người thực hiện việc GDKNS cho HS chủ yếu là GV và
CMHS, sau đó là nhân viên trường học, người thân của HS và các LLGD khác.
- Đối tượng học sinh tham gia. Tất cả học sinh tiểu học đều có thể tham gia.
- Kết quả giáo dục KNS là số lượng KNS được học sinh tích lũy và trình độ
của HS ở mỗi KNS cụ thể
Phối hợp trong hành động
Nhận thức là cơ sở của hành động. Nhận thức có trước và chi phối hành động. Sự
phối hợp giữa GV và CMHS trong công tác GDKNS cho HS chỉ thực sự diễn ra khi
GV và CMHS thực hiện những hành động giáo dục phối hợp thực sự; nó thể hiện ở
chỗ: GV và CMHS cùng nhau thực hiện các công việc cụ thể như sau:
- Xây dựng kế hoạch phối hợp giáo dục KNS cho HS. Cần xác định loại kế
hoạch nào tiến hành trước hoặc sau, những yếu tố tạo nên kế hoạch hoàn chỉnh.
- Thực hiện các kế hoạch phối hợp giáo dục KNS cho HS. Cần xác định nhiệm
vụ của mỗi bên, các điều kiện để việc thực hiện kế hoạch diễn ra đúng tiến độ và đúng
yêu cầu.
- Đánh giá việc thực hiện kế hoạch phối hợp giáo dục KNS cho HS và rút kinh
nghiệm cho lần tiếp theo. Cần xác định hình thức, tiêu chí đánh giá và rút kinh
nghiệm để làm tốt hơn. Cần tham khảo ý kiến đánh giá của nhiều đối tượng để có cái
nhìn khách quan và khoa học.
22
1.3. QUẢN LÝ SỰ PHỐI HỢP GIỮA GIÁO VIÊN VÀ CHA MẸ HỌC SINH
TRONG HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TIỂU
HỌC.
1.3.1. Khái niệm
Quản lý là quá trình tác động có mục đích, có ý thức của chủ thể quản lý đến
đối tượng quản lý nhằm thực hiện mục tiêu
Quản lý giáo dục là quá trình tác động có mục đích, có ý thức của chủ thể quản
lý giáo dục đến đối tượng quản lý giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục
Quản lý sự phối hợp giữa giáo viên và cha mẹ học sinh trong công tác giáo
dục kỹ năng sống ở trường tiểu học là q trình tác động có mục đích, có ý thức của
chủ thể quản lý (trực tiếp là hiệu trưởng trường tiểu học) đến đối tượng quản lý (ở
đây là sự phối hợp giữa giáo viên và cha mẹ học sinh) nhằm hình thành kỹ năng sống
cho học sinh.
Phân tích định nghĩa này ta thấy:
Về phân cấp quản lý sự phối hợp giữa GV và CMHS trong HĐGDKNS cho
HS tiểu học, chủ thể quản lý quan trọng nhất và trực tiếp là hiệu trưởng trường tiểu
học.
Theo quy định, hiệu trưởng là người đại diện cho ngành giáo dục, giáo viên và
nhân viên nhà trường; là người bảo vệ quyền lợi của học sinh; dung hịa giữa lợi ích
của nhà trường với lợi ích của gia đình; tổ chức cho cha mẹ học sinh tham gia các
hoạt động giáo dục của nhà trường; tổ chức sự phối hợp giữa nhà trường với gia đình
trong quá trình giáo dục học sinh.
Để quản lý sự phối hợp giữa giáo viên và cha mẹ học sinh trong HĐGDKNS
cho HS, hiệu trưởng cần thống nhất mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp giáo
dục KNS cho học sinh trong đội ngũ giáo viên và toàn thể cha mẹ học sinh của nhà
trường; huy động mọi nguồn lực từ nhà trường và gia đình; tổ chức xây dựng mơi
trường trường học và gia đình lành mạnh.
1.3.2. Nội dung quản lý sự phối hợp giữa giáo viên và cha mẹ học sinh trong hoạt
động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học
Nội dung quản lý sự phối hợp giữa GV và CMHS trong HĐGDKNS cho học
sinh tiểu học bao gồm:
23
1.3.2.1. Quản lý sự thống nhất giữa GV và CMHS về quan điểm, mục đích, nội dung,
hình thức, phương pháp GDKNS cho học sinh.
Trong quá trình quản lý sự phối hợp, hiệu trưởng cần biết GV và CMHS có
những suy nghĩ gì, quan điểm của họ ra sao về cơng tác GDKNS cho HS. Ngoài ra,
hiệu trưởng cần làm cho GV và CMHS thống nhất mục tiêu GDKNS, xác định được
các nội dung GDKNS, thống nhất trong việc lựa chọn hình thức GDKNS, am hiểu việc
sử dụng các phương pháp GDKNS của mỗi bên. Cụ thể là, hiệu trưởng trường tiểu học
cần tập trung vào những nội dung sau đây:
- Tổ chức cho GV và CMHS tìm hiểu vị trí, vai trị của mình trong cơng tác
GDKNS cho HS; hiểu tầm quan trọng của sự phối hợp giữa GV và CMHS trong
HĐGDKNS cho HS
- Quán triệt cho GV và CMHS nắm vững nhiệm vụ phối hợp với nhau.
- Yêu cầu GV, CMHS hiểu rõ học sinh của lớp mình phụ trách về điều kiện
sống và đặc điểm gia đình của từng học sinh, trình độ KNS của các em, những thuận
lợi và khó khăn của các em khi rèn luyện KNS.
- Tổ chức cho GV trao đổi với CMHS về mục đích giáo dục KNS cho HS, các
kỹ năng sống học sinh cần đạt, hình thức phối hợp với nhà trường, nhiệm vụ và quyền
lợi của CMHS trong quá trình phối hợp với nhà trường; những đóng góp cần thiết của
CMHS cùng với nhà trường trong quá trình GDKNS cho HS.
- Hướng dẫn cho GV và CMHS nắm vững các yêu cầu của các hình thức phối
hợp. Các hình thức phối hợp thông thường là: Ghi sổ liên lạc; Thăm gia đình học sinh;
Tìm hiểu HS và hồn cảnh gia đình; Mời CMHS đến trường trao đổi việc học tập và
rèn luyện; Mời CMHS tham gia các hoạt động giáo dục của nhà trường; Mời CMHS
tham gia các buổi tọa đàm, các buổi chun đề có liên quan cơng tác giáo dục học
sinh; Gởi thư, nhắn tin; Gọi điện thoại để trao đổi.
- Nâng cao năng lực cho GV chủ nhiệm về phối hợp với CMHS trong công tác
GDKNS. Nội dung có thể là: khả năng gợi ý, thuyết phục, định hướng, phối hợp hoạt
động cùng với CMHS.
- Khuyến khích GV phối hợp với CMHS xây dựng các kế hoạch tổ chức
HĐKNS cho HS.
24