Tải bản đầy đủ (.pdf) (335 trang)

Quá trình xác lập chủ quyền của việt nam tại quần đảo hoàng sa và trường sa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (36.59 MB, 335 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN NHÃ

QUÁ TRÌNH XÁC LẬP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM
TẠI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2002



MỤC LỤC
MỤC LỤC ......................................................................................................................... 3
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................. 7
CÁC KÝ HIỆU DÙNG TRONG LUẬN ÁN ................................................................. 8
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 9
1. LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ............................................................................ 9
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ .................................................................................... 9
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ GIỚI HẠN ĐỀ TÀI. ............................... 15
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CÁC NGUỒN TÀI LIỆU SỬ DỤNG ................. 16
5. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN. ............................................................................................ 17
6. SỰ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN. ..................................................................................... 17

CHƯƠNG 1: VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA QUẦN ĐẢO
HOÀNG SA & TRƯỜNG SA . ...................................................................................... 19
1.1 .TÊN GỌI VÀ VỊ TRÍ ĐỊA LÝ CỦA QUẦN ĐẢO HỒNG SA & TRƯỜNG SA. ....... 19
1.2. QUẦN ĐẢO HOÀNG SA ............................................................................................... 22
1.2.1. Nhóm Lười Liềm: ..................................................................................................... 23


1.2.2. Nhóm An Vĩnh (1.2) (Amphitrite Groupe, (1.3) ...................................................... 26
1.2.3. Nhóm Linh Cơn ........................................................................................................ 26
1.3. QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA. (HÌNH 1.18)...................................................................... 27
1.3.1. Cụm Song Tử gồm 2 đảo, 2 đá, 2 bãi : ..................................................................... 28
1.3.2. Cụm đảo Thị Tứ ........................................................................................................ 29
1.3.3. Cụm đá Loai Ta ........................................................................................................ 29
1.3.4. Cụm đảo Nam Yết hay Ti Gia .................................................................................. 30
1.3.5. Cụm đảo Sinh Tồn .................................................................................................... 31

3


1.3.6. Cụm đảo Trường Sa. ................................................................................................. 32
1.3.7. Cụm đảo An Bang..................................................................................................... 33
1.3.8. Cụm đảo Bình Nguyên. ............................................................................................ 34
1.4. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, THẢO MỘC CỦA QUAN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG
SA. ........................................................................................................................................... 35
1.5. TẦM QUAN TRỌNG VỀ CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ VÀ TÀI NGUYÊN CỦA
HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA DẪN ĐẾN SỰ XÂM PHẠM CHỦ QUYỀN VIỆT NAM
CỦA CÁC NƯỚC NGOÀI. .................................................................................................... 38

CHƯƠNG 2: SỰ XÁC LẬP CHỦ QUYỀN VIỆT NAM TẠI QUAN ĐẢO HOÀNG
SA VÀ TRƯỜNG SA...................................................................................................... 41
2.1. CÁC NGUỒN TƯ LIỆU MINH CHỨNG SỰ XÁC LẬP CHỦ QUYỀN VIỆT NAM
TẠI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA & TRƯỜNG SA. .................................................................. 41
2.1.1. Những tư liệu của Việt Nam minh chứng chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa. ................................................................................................................. 41
2.1.2. Những tư liệu của Trung Quốc và Phương Tây minh chứng chủ quyền Việt Nam tại
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. ..................................................................................... 54
2.2. SỰ KHẲNG ĐỊNH CHỦ QUYÊN VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG XÁC LẬP CHỦ

QUYỀN CỦA CÁC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM. ................................................................. 65
2.2.1. Sự khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của vua chúa, triều đình Việt Nam.
............................................................................................................................................ 65
2.2.2. Việc quản lý hành chánh của các chính quyền Việt Nam tại quần đảo Hồng Sa và
Trường Sa. .......................................................................................................................... 66
2.2.3. Sự thành lập và hoạt động của đội Hoàng Sa từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. ....... 67
2.2.3.1. Địa bàn ra đời của đội Hồng Sa là ở vùng cửa biển Sa Kỳ (hình 2.51) và Cù
Lao Ré. ........................................................................................................................... 67
2.2.3.2.Thời gian hoạt động của đội Hoàng Sa. ............................................................ 69
4


2.2.3.3. Nhiệm vụ của đội Hoàng Sa. ............................................................................. 73
2.2.3.4. Tổ chức và nội dung hoạt động của đội Hoàng Sa ........................................... 74
2.2.4. Đội Bắc Hải hoạt động dưới sự kiêm quản của đội Hồng Sa trong khu vực phía
nam của Biển Đông tức quần đảo Trường Sa và vùng phụ cận. ........................................ 80
2.2.5. Các hoạt động của thủy quân triều đình Việt Nam ở quần đảo Hồng Sa và Trường
Sa ........................................................................................................................................ 82
2.2.5.1. Các hoạt động đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ về Hoàng Sa và Trường Sa ......... 82
2.2.5.2. Các hoạt động cắm cột mốc, bia chủ quyền để xác lập chủ quyền của Việt Nam
trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ đầu thế kỷ XIX. ............................................ 86
2.2.5.3. Xây dựng chùa miếu và trồng cây tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. ....... 90

CHƯƠNG 3: TIẾP TỤC CỦNG CỐ, KHẲNG ĐỊNH VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN
CỦA VIỆT NAM TRÊN QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA TỪ KHI BỊ
CÁC NƯỚC NGOÀI XÂM PHẠM .............................................................................. 91
3.1. TIẾP TỤC CỦNG CỐ, KHẲNG ĐỊNH VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYÊN CỦA VIỆT NAM
TẠI HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA TỪ NĂM 1909 ĐẾN NAY. .......................................... 91
3.1.1. Thời kỳ từ năm 1909 đến 1945................................................................................. 91
3.1.2. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1954. ...................................................................... 101

3.1.3. Thời kỳ Việt Nam chia cắt (1954 - 1975), phản kháng các nước ngoài xâm phạm
chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. ............................................ 104
3.1.4. Chính Quyền Việt Nam thống nhất tiếp tục khẳng định chủ quyền Việt Nam trên
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. ................................................................................... 109
3.2. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA SỰ XÁC LẬP VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN VIỆT NAM TẠI
QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA ...................................................................... 115
3.2.1. Cơ sở pháp lý quốc tế về sự thiết lập chủ quyền lãnh thổ tại các hải đảo. ............. 115
3.2.2. Tính pháp lý quốc tế của sự xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. .................................................................................................................... 119
5


3.3. PHẢN BÁC CÁC LUẬN ĐIỂM BIỆN MINH CHO SỰ XÂM PHẠM CHỦ QUYỀN
VIỆT NAM CỦA CÁC NƯỚC NGOÀI TẠI QUAN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA.
............................................................................................................................................... 127
3.3.1. Phản bác các luận điểm của Trung Quốc biện minh cho sự xâm phạm chủ quyền
Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ............................................................... 127
3.3.2. Phản bác các luận điểm của các nước Philippines, Malaysia, Brunei biện minh cho
sự xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Trường Sa. ........................................... 146

PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................................... 153
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHỦ YẾU ........................................................................ 159
I - TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT ................................................................................................. 159
II- TÀI LIỆU TIẾNG ANH - PHÁP ................................................................................... 172
III - TÀI LIỆU CHỮ HÁN .................................................................................................. 178

PHẦN CHÚ THÍCH..................................................................................................... 180
CHƯƠNG 1 .......................................................................................................................... 180
CHƯƠNG 2 .......................................................................................................................... 181
Chương 3 .............................................................................................................................. 188


PHẦN HÌNH ẢNH ....................................................................................................... 189

6


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận án là trung thực. Những kết luận của luận án chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN
NGUYỄN NHÃ

7


CÁC KÝ HIỆU DÙNG TRONG LUẬN ÁN

Ý NGHĨA CỦA KÝ HIỆU

KÝ HIỆU
-[10,185]

Ký hiệu này có nghĩa là số liệu, sự kiện, ý tưởng được tác
giả sử dụng trong luận án là xuất phát từ tài liệu tham khảo số 10
ở trang 185 của tài liệu ấy theo thứ tự của danh mục tài liệu tham
khảo từ trang 184 đến 211 trong luận án này.

-[10,183 - 189]


Ký hiệu này có nghĩa là số liệu, sự kiện, ý tưởng được tác
giả sử dụng trong luận án là xuất phát từ tài liệu tham khảo số 10
từ trang 183 đến 189 của tài liệu ấy theo thứ tự của danh mục tài
liệu tham khảo từ trang 184 đến 211, trong luận án này.

[1]

Ký hiệu này có nghĩa là số liệu, sự kiện, ý tưởng được tác
giả sử dung trong luận án là xuất phát từ tài liệu tham khảo số 1
theo thứ tự của danh mục tài liệu tham khảo từ trang 184 đến 211,
trong luận án này

(1)

Ký hiệu này là phần chú thích riêng của tác giả để tại
Phần Chú Thích từ trang 214 đến trang 226

(Hình 1.1)

Xem hình 1.1 ở Phần Hình Ảnh từ trang 227 đến 279
trong luận án này.

8


PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam từ nhiều thế kỷ nay. Quần
đảo này có tầm quan trọng đặc biệt về mặt chiến lược (nằm trên thủy đạo và đường bay quốc

tế) cũng như có tiềm năng quan trọng về kinh tế (dầu khí, các sản vật khác) và hiện đang bị
xâm phạm bởi nhiều nước như Trung Quốc (bao gồm Đài Loan), Philippines, MaLaysia,
Brunei khiến trở thành điểm nóng chính trị của khu vực.
Nghiên cứu đề tài này không những là do nhu cầu của giới nghiên cứu khoa học mà còn
đáp ứng được nhu cầu thực tiễn đối với quốc dân cũng như các nhà lãnh đạo, nhất là cho cuộc
đấu tranh chính trị và ngoại giao bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Ngoài ra, bản thân người nghiên cứu vốn quan tâm đến vấn đề này từ hơn 25 năm nay,
muốn có cơ hội để hệ thống hoa, tổng hợp tất cả các tài liệu và tìm hiểu đầy đủ, thấu đáo việc
xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cơng trình nghiên cứu nhằm mục đích :
1. Cung cấp tư liệu một cách tổng hợp, hệ thống và cặn kẽ về quá trình xác lập chủ quyền
của Việt Nam tại quần đảo Hồng Sa và Trường Sa. Từ đó rút ra những luận điểm vững chắc
minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
2 Cũng từ đó, giúp cho việc phản bác những luận điểm biện minh cho sự xâm phạm của
các nước ngoài đối với chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hầu thấy
được thực chất của tình trạng xâm phạm chủ quyền để xây dựng các đối sách lâu dài bảo vệ
chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hồng Sa và Trường Sa.
3. Góp phần xây dựng nhận thức rõ ràng về trách nhiệm tranh đấu giành lại chủ quyền
trên quần đảo Hoàng Sa và bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Trường Sa của nhà nước và nhân
dân Việt Nam.

2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
• Trước năm 1975.
9


Trước năm 1909, chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chưa bị
Trung Quốc và các nước khác xâm phạm. Năm 1907 là năm xảy ra việc người Nhật chiếm đảo
Pratas. Trung Quốc đã phản đối sự chiếm đảo Pratas này của người Nhật cho rằng đảo vô chủ.

Để ngăn chặn sự bành trướng của Nhật xuống phía Nam và tránh xảy ra sự kiện "Pratas thứ 2",
Trung Quốc đã đặt tên một loạt các đảo ở Biển Nam Hải trong đó có Tây Sa và Nam Sa mà
Trung Quốc cho là đảo vô chủ. Lúc này, Nam Sa chưa xuống dưới vị trí của Trường Sa của
Việt Nam mà chỉ ở vị trí Trung Sa. Thời Trịnh Nguyễn phân tranh đã thấy xuất hiện những thư
tịch cổ Việt Nam đề cập chung chung đến Hồng Sa. Xưa nhất, ít ra vào cuối thế kỷ XVII như
tập bản đồ "Toản Tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư"hay Toản Tập An Nam Lộ của Đỗ Bá
Cơng Đạo [23], [191], có vẽ và ghi chú về "bãi Cát Vàng" tức Hồng Sa, tiếp đó là Phủ Biên
Tạp Lục [28], [192] của Lê Q Đơn, mơ tả chi tiết về các hoạt động của các đội Hoàng Sa, Bắc
Hải minh chứng sự xác lập và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Sang đến thời nhà Nguyễn, từ triều Gia Long, cả một hệ thống biên niên sử và địa
dư chí của Quốc Sử Quán, sách hội điển, châu bản của Nội Các triều đình nhà Nguyễn đã ghi
chép những hoạt động của đội Hoàng Sa một cách rất kỹ và rõ ràng thể hiện sự xác lập và bảo
vệ chủ quyền của nhà nước Việt Nam trên quần đảo Hồng Sa cũng như Trường Sa. Trong đó
có bộ chính sử Đại Nam Thực Lục Tiền Biên [96]. [195], Chính Biên [97], [98], [99] , [100],
[loi] ,[102], [199], [200], [203], [204], [205], [206] cũng như Quốc Triều Chính Biên Tốt Yếu
[104], [210] và bộ địa chí như Đại Nam Nhất Thống Chí [103], [209], Hồng Việt Địa Dư Chí
[135], [194]. Đặc biệt Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (Minh Mạng) [93], [201], Châu
Bản Triều Nguyễn (triều Minh Mạng & Thiệu Trị) [5], [6], [7], [8], [9], [196], [197], [198] đã
đề cập đến việc dựng bia chủ quyền đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bằng chứng hùng hồn
Hoàng Sa được vua và triều đình Việt Nam quan tâm và bảo vệ chủ quyền đối với Hoàng Sa ở
bậc quyền lực tối cao (điều này khác hẳn với Trung Quốc cũng như các nước khác khơng hề có
chứng tích xác lập và bảo vệ chủ quyền trong suốt các triều đại phong kiến).
Ngoài nhà nước Việt Nam, các nhà nghiên cứu nước ta cũng đã quan tâm, ghi chép các
hoạt động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải như Lê Q Đơn trong Phủ Biên Tạp Lục, Phan Huy Chú
trong Dư Địa Chí (Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí), Nguyễn Thông trong sách Việt Sử
Cương Giám Khảo Lược (quyển 4, năm 1877)..., [207]

10



Cũng trong thời gian chưa có sự xâm phạm chủ quyền ở Hồng Sa, nhiều tác giả trong đó
có cả người Trung Quốc và các nhà nghiên cứu Phương Tây cũng đã đề cập đến Hoàng Sa
hoặc đến việc xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa của các nhà cầm quyền Việt Nam như Giám
Mục Taberd [185], [186] Gutzlaff [157], quan trọng là những người Pháp từng hoạt động giúp
Nguyễn Anh tức Vua Gia Long như Dayot, Chaigneau đã xác định Vua Gia Long đã tái xác lập
chủ quyền trên quần đảo Hồng Sa.
Ngồi cơng việc vẽ bản đồ hàng hải trong đó tại Biển Đơng có dải đảo Hoàng Sa
(Paracels) chạy dài suốt dọc ngoài khơi biển Champa hay Cochinchine, những bút ký, thư từ
của người Tây Phương (Bồ, Hoa Lan, Pháp, Anh) về hải trình, các vụ đắm tàu đều được ngư
dân và quân lính Đàng Trong đem về đất liền giải quyết.
Sau năm 1909, tổng đốc Quảng Đơng bắt đầu có ý định xâm phạm chủ quyền của Việt
Nam trên quần đảo Hoàng Sa, cho rằng Hoàng Sa chưa thuộc về nước nào (sic!). Lúc này, Việt
Nam đang cịn bị ách đơ hộ của đế quốc Pháp, bắt đầu mới có nhiều người thực sự quan tâm
nghiên cứu về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, song mới chỉ là những bài báo. Rộ lên
nhát là cuối thập niên 20 đầu thập niên 30. Tiêu biểu là Lapicque viết trong Revue Indochinoise
số 38, 1929 [166] sưu tầm một số tài liệu xác định chủ quyền Việt Nam ở Hồng Sa và trưng
bằng cớ chính quyền địa phương Trung Hoa nhân vụ những người Trung Quốc cướp trên tàu bị
đắm Le Bellona năm 1895 và tàu Imazi Mâm năm 1896 đã từ chối chủ quyền, không trách
nhiệm về việc cướp nói trên ở quần đảo Hồng Sa vì cho rằng "Paracel" khơng thuộc chủ
quyền Trung Quốc. Sau đó hàng loạt những bài báo của Henri Cuchrousset đăng trên báo Eveil
Eeonomique de rindochine từ năm 1929 đến 1931 [146 -152] đưa ra những bằng chứng chủ
quyền của Việt Nam ở Hồng Sa, trách cứ chính quyền Pháp đã quá lơ là trong việc xác nhận
và bảo vệ chủ quyền ở đảo Hoàng Sa, đến nỗi đã bị dự thẩm Barbet ra lệnh khám xét ban đêm
để buộc nhà báo phải nộp cho toa các hồ sơ liên quan đến Hồng Sa. Chính vì vậy đã có tác
động, chính quyền Pháp, vào những năm sau đó đã tái xác nhận chủ quyền ở Hoàng Sa
(Paracel) và Trường Sa (Spratly) với những hành động cụ thể như khảo sát, cắm cọc, thiết lập
hải đăng, đài khí tượng và trại lính (vào những năm đầu thập niên 30). Trong những năm này
có nhiều cơng trình nghiên cứu địa lý Hồng Sa.

11



Trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai và chiến tranh kháng chiến chống Pháp, ít ai
quan tâm nghiên cứu đến Hoàng Sa.
Sau năm 1954, theo hiệp định Genève, Hồng Sa, Trường Sa thuộc về chính quyền
Sàigịn kiểm soát. Năm 1956, khi quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Việt Nam, Philippines lên
tiếng địi chủ quyền của mình ở quần đảo Trường Sa. Năm 1956, Cộng Hoa Nhân Dân Trung
Quốc chiếm đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa và sau đó Đài Loan chiếm đảo Im Aba,
vấn đề tranh chấp chủ quyền được đặt ra gay gắt, từ đó nhiều bài nghiên cứu đã được đăng báo.
Nổi bật hơn cả là hai cơng trình nghiên cứu về chủ quyền của Hồng Sa tương đối có hệ thống
và dầy cơng sưu tầm. Đó là cơng trình ra đời vào năm 1971, L’affaire des iles Paracels et
spratly devant le droit International. 298 trang đánh máy, luận án tiến sĩ đệ tam cấp của ông Lê
Thành Khê, tại Institut International d'Etudes et de Recherches Diplomatiques [161]. Cơng
trình này đi sâu về mặt công pháp quốc tế, chủ yếu theo luật pháp quốc tế của thế giới tư bản
chủ nghĩa và những án lệ của toa án quốc tế La Haye. Tác giả trên chưa có điều kiện đi sâu vào
những chứng liệu về lịch sử.
Tiếp đó, năm 1972 xuất hiện công tành luận văn tốt nghiệp Ban Đốc Sự của Học Viện
Quốc Gia Hành Chánh (Sàigòn ) của Đinh Văn Cư với đề tài : "Chủ quyền quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa", dày 137 trang đánh máy [24]. Công trình trên dành hơn 1/4 nội dung nói về
hồn cảnh địa lý và trình bày diễn tiến sự tranh chấp chủ quyền của nhiều quốc gia tại Hoàng
Sa.
Tới năm 1974, Cộng Hịa Nhân Dân Trung Hoa xâm chiếm tồn bộ quần đảo Hồng Sa,
nhiều cơng trình đã được thực hiện trong năm này, trong đó có tập tư liệu bằng tiếng Pháp của
Võ Long Tê với nhan đề " Les Archipels de Hoang Sa et de Truông Sa selon les Anciens
Ouvrages Vietnamiens d'Histoire et de Geographie", in năm 1974 dày 201 trang [187]. Đây là
bản dịch tiếng Pháp các đoạn trích những thư tịch cổ Việt Nam về Hồng Sa. Tiếp đó "Hồng
Sa, lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoa", dày 96 trang của Bộ Dân Vận Chiêu Hồi (chính quyền
Sàigịn) [10] và sách Trắng của Bộ Ngoại Giao chính quyền Sàigòn vào năm 1975 [170]. Cũng
vào năm 1975 đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử nghiên cứu vấn đề chủ quyền của
Hoàng Sa là Tập San Sử Địa số 29 (1975), đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa, 352 trang gồm

nhiều tư liệu, hình ảnh, bản đồ ,đã được đánh giá cao.

12


• Sau năm 1975.
Một số cơ quan như Ban Biên Giới Chính Phủ, Viện Nghiên Cứu về Trung Quốc, các
trường đại học bắt đầu quan tâm đến vấn đề Hoàng Sa, đặc biệt sau cuộc chiến tranh xâm lược
của Trung Quốc tháng 2 năm 1979. Tháng 9 năm 1979, Bộ Ngoại Giao nước Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam công bố tài liệu "chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa". Tháng 1 năm 1982, Bộ Ngoại Giao nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
lại công bố cuốn sách trắng "quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam".
Tháng 4 năm 1988, Bộ Ngoại Giao nước Cộng hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam lại công bố tài
liệu: "Các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và luật pháp quốc tế". Mẫn Khánh Dương Kỵ và
Trần Xuân cầu viết bài "Từ Bãi Cát Vàng đến Hoàng Sa và Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam"
trong Sử Học số 2 (nhà xuất bản Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp) [79] đã đưa ra một
vài thông tin mới, cách tiếp cận mời qua thực địa tại cù lao Ré.
Cuốn "Hoàng Sa, quần đảo Việt Nam" 90 trang của Văn Trọng [134] là đúc kết cô đọng
và chú trọng về phẩn tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc thêm một số hình ảnh, như bia chủ
quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa chụp năm 1938, trên quần đảo Trường Sa chụp
năm 1961.
Gần đây có một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp quốc gia về Hoàng Sa, Trường Sa đang
được tiến hành. Trong đó có đề tài như "Hợp Đồng Nghiên Cứu Khoa Học về Lịch sử Chủ
Quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", mã số BĐHĐ 01 - 01 do PTS
Nguyễn Quang Ngọc (ĐHTH Hà Nội) chủ trì đã báo cáo tổng kết ngày 30/4/1995 và Hội Thảo
Quốc Gia "Luận cứ Khoa Học Lịch Sử, Địa Lý và Pháp Lý chủ quyền Việt Nam trên hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa" tại Hà Nội ngày 18/1/1996 cùng một số kết quả được tiếp tục
cơng bố trong những năm sau đó.
Riêng bản Hợp Đồng Nghiên Cứu Khoa Học trên, bước đầu đã có những đóng góp đáng
kể về bản đồ cổ Việt Nam do Trần Bá Chí phụ trách tìm ra được 22 sách cổ có bản đồ vẽ

Hồng Sa và Trường Sa. về thư tịch cổ Việt Nam do Phạm Kim Hùng, Nguyễn Đăng Na,
Nguyễn Hữu Thành phụ trách, ngoài kiểm tra, đối chiếu với nguyên bản 25 cuốn sách chữ Hán
đã được dịch, cịn phát hiện thêm một số thơng tin mới ở Đại Nam Thực Lục và cịn tìm thêm
15 cuốn sách như Địa Dư Toát Yếu, Nam Việt Địa Dư Chí, Cao Chu Thần Di Cảo, Chu
13


Nguyên Tập . Vựng Khảo, Mân Hành Thi Thảo, Việt Hành Ngân Thảo, Đông Hành Thi
Thuyết, Quảng Thuận Đạo Sử Tập, Trung Kỳ Dư Địa Lược Sao, Hải Trình Chí Lược ... Tuy
các sách ữên không trực tiếp đề cập đến vấn đề chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa , song các
sách đó đã đề cập đến Hồng Sa , cũng đã phản ảnh sự hiểu biết và quan tâm của người Việt
xưa đối với Hoàng Sa. về tư liệu Châu Bản do Võ Văn Sạch, Vũ Vãi: Quân phụ trách đã phát
hiện được một số tư liệu rất Qúi về bằng chứng rõ ràng quá trình thực thi chủ quyền ở Hoàng
Sa và Trường Sa trong hai triều Minh Mệnh và Thiệu Trị. về tư liệu Phương Tây do PTS
Nguyễn Thừa Hỷ phụ trách đã cố những phát hiện đáng kể trong đó có vụ Dayot giúp xây dựng
hải quân và vẽ lại bản đồ Hoàng Sa cho Nguyễn Anh hay một thương nhân Bồ Đào Nha dâng
bản đồ Hoàng Sa cho Nguyễn Anh. Ngoài ra cuộc khảo sát thực địa ở Cù Lao Ré do PTS
Nguyễn Quang Ngọc, PTS Vũ Vãn Quân thực hiện đã phát hiện các nguồn tư liệu ở dịng họ,
làng xã có liên quan đến hoạt động của các đội Hoàng Sa qua các thời kỳ Chúa Nguyễn, nhà
Tây Sơn dưới triều Nguyễn.
Trong Hội Thảo Quốc gia 18/1/1996 trên, gồm 15 bản báo cáo đóng góp đáng kể về việc
nghiên cứu lịch sử tranh chấp Hoàng Sa với Trung Quốc cũng như tư liệu về phía Trung Quốc,
từ tìm hiểu hệ thống bản đồ của Trung Quốc của Nguyễn Quang Ngọc để chứng minh cho đến
1909 bản đồ Trung Quốc chưa bao giờ vẽ đến Hoàng Sa đến quan điểm của Trung Quốc về
Hoàng Sa - Trường Sa của Hoàng Ngọc Bảo, quan điểm của Đài Loan về Hoàng Sa - Trường
Sa của Nguyễn Huy Quy hay tìm hiểu về bộ sưu tập tư liệu Hoàng Sa của Hàn Chân Hoa
(Trung Quốc) chủ biên do Phạm Kim Hùng phụ trách. Ngoài ra vấn đề pháp luật quốc tế về thủ
đắc lãnh thổ của Nguyễn Đăng Dũng hoặc án lệ đảo Clipperton của Đinh Ngọc Linh hoặc xây
dựng hệ quản trị tư liệu Hoàng Sa -Trường Sa bằng máy tính của Nguyễn Quốc Toản.
Một số cơng trình khác cũng được cơng bố như vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa trong quan

hệ Việt Trung trong cuốn "Sự Thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt
Trung" do nhà xuất bản Đà Nấng in năm 1996 hay có tác giả tổng hợp lại những tài liệu đã
công bố in thành sách như ơng Nguyễn Q. Thắng. Một số luận án phó tiến sĩ, tiến sĩ có liên
quan đến Hồng Sa và Trường Sa hay Biển Đông như luận án cua PTS Trần Công Trục ở Việt
Nam, của TS Nguyễn Hồng Thao ở Pháp (1996), của PTS Đỗ Hịa Bình ở Liên Xô cũng đã
được bảo vệ, song chủ yếu về vấn đề pháp lý của Hoàng Sa và Trường Sa hay Biển Đông.

14


Ngồi ra cịn có một số bài báo của nhiều tác giả đăng trên báo Nhân Dân, Tạp Chí Lịch
Sử Qn Sự, Tạp Chí Hán Nơm, Tạp Chí Xưa và Nay... Như thế, các nhà nghiên cứu Việt Nam
thật sự đã quan tâm và càng ngày càng đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Hoàng Sa và
Trường Sa.
Các nhà nghiên cứu Phương Tây cũng ngày càng quan tâm hơn về vấn đề Hoàng Sa và
Trường Sa. Pierre Bernard LaFont viết phần "Les Archipels Paracels et Spratley trong cuốn
Confit de frontières en mer de Chine Méridionale, xuất bản năm 1989 [165]. Đặc biệt cuốn "La
souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratley" của bà M.c. Gendreau [155], chủ tịch Hội
Luật Gia Châu Âu là một cơng trình khoa học có quan điểm khách quan cho rằng Việt Nam là
nước có đủ danh nghĩa thực thi chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trên mạng
internet tháng 12-1999 cũng có hơn 900 tài liệu nói đến Paracels và spratley (hiện nay có 970
tài liệu).

3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ GIỚI HẠN ĐỀ TÀI.
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tác giả đi sâu nghiên cứu những tư liệu minh chứng và những
hoạt động cùng những lời khẳng định của nhà nước Việt Nam về việc xác lập, chiếm hữu, bảo
vệ chủ quyền của mình trên quần đảo Hồng Sa và Trường Sa trong q trình lịch sử khi chưa
có sự xâm phạm của nước ngoài và trong thời kỳ bị xâm phạm chủ quyền. Qua đó trình bày
những luận điểm, luận cứ, luận chứng về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và

Trường Sa .
Trọng tâm nghiên cứu của đề tài là quá trình xác láp chủ quyền Viêt Nam về mặt lích sử
trong thời kỳ chưa cổ xâm phàm của các nước ngoài và khi đề cập đến sự xâm phạm của các
nước ngoài trong bối cảnh sự xâm phàm chủ quyền Viêt Nam của Trung Quốc là chủ yếu và
đưa ra những luân điểm phản bác đối với những biên minh xâm phàm chủ quyền Viêt Nam của
Trung Quốc vì chỉ cổ nước này mới thực sư quan tâm đến các luân điểm về lịch sử. Từ đó đưa
ra những đối sách lâu dài về viêc bảo vê chủ quyền của Viêt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.

15


4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CÁC NGUỒN TÀI LIỆU SỬ DỤNG
Phương pháp chủ yếu được sử dụng là phương pháp nghiên cứu lịch sử theo quan điểm
duy vật lịch sử. Người nghiên cứu vận dụng phương pháp luận lịch sử và phương pháp nghiên
cứu lịch sử cụ thể cùng phương pháp lơgích. Cơng tác sưu tầm sử liệu được đặt lên hàng đầu,
làm thế nào sưu tầm đầy đủ, phát hiện những tư liệu mới, tiếp cận đến các tài liệu gốc, tài liệu
bậc một. Tác giả trước hết dựa vào các sách về thư tịch, những tài liệu tham khảo của các cơng
trình nghiên cứu đã có trước, các tổng mục sách báo, sách dẫn. Tác giả còn đọc trực tiếp từng
trang những tài liệu có khả năng đề cập đến Hoàng Sa vàTrường Sa.
Về các nguồn tài liệu được sử dụng, luận án quan tâm đến các nguồn tư liệu sốc, sử liệu
bậc một, từ nguồn sử liệu chữ Hán của Việt Nam cũng như của Trung Quốc. Luận án phối
kiểm các bản dịch khác nhau, kiểm tra các nguyên bản, xử lý thích đáng đối với các dị bản
(phần iớn đã được kèm theo ở phần phụ lục). Tài liệu bằng chữ Hán của Việt Nam rất phong
phú, trong đó có phần đã được tác giả sưu tầm và có nhiều chuyên viên chữ Hán phiên âm và
dịch thuật vào năm 1975, khi tác giả chủ biên Tập San Sử Địa số 29 đặc khảo về Hồng Sa,
cũng như khi viết bài « Những sử liệu chữ Hán minh chứng chủ quyền của Việt Nam tại quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa qua nhiều thế kỷ » dưới bút hiệu Hãn Nguyên. Sau năm 1975,
được bổ sung từ nguồn tư liệu châu bản rất có giá trị trong thời Minh Mạng và Thiệu Trị của
Viện Hán Nôm Hà Nội, cũng như nguồn tư liệu chữ Hán do công sưu tầm của chuyên gia hán

học đặc biệt về tài liệu của Trung Quốc như Phạm Kim Hùng hoặc của nhà sử học Tôn Thất
Dương Kỵ Nguyễn Quang Ngọc và Vũ Văn Quân đi nghiên cứu điền dã tại Sa Kỳ - Cù Lao Ré
(huyện đảo Lý Sơn) hoặc các tài liệu của Ban Biên Giới Chính Phủ, Bộ Ngoại Giao.
Các nguồn tư liệu phương Tây đã được phổ biến trên sách báo cũng được tác giả sưu tầm,
phối kiểm từ nguyên bản, chứ không chỉ qua các bài dịch hay đã được ghi chép lại trong các
công trình nghiên cứu trung gian (có kèm ví dụ bản « photocopy » nguyên bản tư liệu ở phần
phụ lục).
Công tác khảo chứng, xử lý, đánh giá tư liệu cũng được đặc biệt quan tâm. Người nghiên
cứu còn sử dụng các phương pháp liên ngành như nghiên cứu địa lý, khảo cổ học, dân tộc học
và luật học. Cuối cùng là tổng hợp lịch sử.

16


5. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN.
Luận án gồm 3 phần :
- Phần mở đầu gồm 6 mục.
- Phần kết quả nghiên cứu gồm 3 chương.
- Phần kết luận.
sau cùng là danh mục cơng trình của tác giả, tài liệu tham khảo, chú thích, hình ảnh và
phụ lục (xem mục lục).

6. SỰ ĐĨNG GĨP CỦA LUẬN ÁN.
Luận án là cơng trình tổng hợp, có hệ thống, có tính đúc kết một cách mới mẻ những cơng
trình nghiên cứu, những tư liệu đã được phát hiện từ trước đến nay, vừa đầy đủ nhất, với một số
tư liệu mới và những luận cứ, luận chứng xác đáng góp phần đấu tranh bảo vệ chủ quyền của
Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa. Với những kinh nghiệm tập hợp trên Qúi mô lớn những
tư liệu trong và ngoài nước hồi biên tập Tập San Sử Địa số 29, đặc khảo về Hoàng Sa và
Trường Sa, người nghiên cứu đã nỗ lực, có những khám phá mới về mát tư liêu chứa cổ ai để
cáp tới như tài liêu của chính người Trung Quốc. Thích Đại Sán trong Hái Ngoại Kỹ Sư [116]

đã cho biết Chúa Nguyễn sai thuyền khai thác các sản vật từ các tàu bị đắm ở Van Lý Trường
Sa tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam hoặc phát hiện thêm đoạn văn thứ 2 rất dài viết
về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa ở thời Vua Minh Mạng trong
cuốn sách rất quan trọng có tính cách luật lệ của triều Nguyễn. Đó là Khâm Đỉnh Đai Nam Hơi
Điển Sự Lê. cùng tài liệu vẽ sơ đồ các thuyền buồm đóng theo truyền thống ở Cù Lao Ré được
sử dụng đi biển, trong đó có Hồng Sa, Trường Sa cịn lưu giữ trong dân gian tại thôn Đông, xã
Lý Hải, Huyện Đảo Lý Sơn tức Cù Lao Ré khi xưa, do ông Nguyễn Hạp vẽ [38].
Luận án cũng đã trình bày việc Việt Nam quản hạt từ đầu thế kỷ XVII quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa thuộc về Quảng Ngãi khi là phủ, trấn, tỉnh trong thời kỳ chưa bị các nước ngồi
xâm phạm. Sau đó thuộc quản hạt của tỉnh Thừa Thiên rồi hiện thuộc Đà Nang đối với Hoàng
Sa và Bà Rịa Vũng Tàu, rồi Phú Khánh , Khánh Hoa đối với Trường Sa. Cũng trong thời kỳ
chưa có sự xâm phạm của nước ngồi, vua, triều đình Việt Nam (thời Minh Mạng) đã tuyên bố
khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa thuộc cương vực hiểm yếu của Việt Nam. Luận án cũng đi
17


sâu, trình bày một cách hệ thống những hoạt động mang tính nhà nước, xác lập chủ quyền của
Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của đội Hoàng Sa (địa bàn ra đời, thời gian
hoạt động, nhiệm vụ, tổ chức và nội dung hoạt động khoảng 17 trang), cũng như đội Bắc Hải
hoạt động dưới sự kiêm quản của đội Hồng Sa trong khu vực phía Nam của Biển Đông tức
quần đảo Trường Sa và vùng phụ cận (Côn Đảo, Hà Tiên). Luận án cũng đi sâu vào các hoạt
động mang tính nhà nước rất cao là thủy quân suốt thời Nhà Nguyễn bắt đầu năm 1816, trở
thành lệ hàng năm thời Minh Mạng thứ 17 (1836), với những hoạt động cắm cột mốc, bia chủ
quyền xây dựng chùa miếu, trồng cây tại Hoàng Sa và Trường Sa. Từ năm 1909, Hoàng Sa bắt
đầu bị Trung Quốc và sau đó bị các nước khác xâm phạm chủ quyền, luận án trình bày các
chính quyền ở Việt Nam có nhiệm vụ quản lý Hồng Sa và Trường Sa chưa bao giờ từ bỏ chủ
quyền của mình và ln luôn củng cố, bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hồng Sa
và Trường Sa.
Tác giả cịn phân tích về giá trị pháp lý của sự xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần
đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa. Tác giả đưa ra luận điểm, luận cứ và luận chứng về sự

chiếm hữu thật sự, hòa bình và thực thi chủ quyền mót cách liên túc, tại quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Tác giả phản bác lại những luận điểm sai trái biện minh cho sự xâm phạm của nước
ngoài như của Trung Quốc về sự phát hiện sớm nhất, kinh doanh sớm nhất, quản hạt sớm nhất
hoặc luận điểm vô chủ và địa lý kế cận của các nước khác ở Đông Nam Á. Tác giả cũng gián
tiếp phản bác lại những phản bác của Trung Quốc về tư liệu Việt Nam hay các luận điểm của
chính quyền Việt Nam.

18


CHƯƠNG 1: VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA QUẦN
ĐẢO HOÀNG SA & TRƯỜNG SA .
1.1 .TÊN GỌI VÀ VỊ TRÍ ĐỊA LÝ CỦA QUẦN ĐẢO HỒNG SA & TRƯỜNG
SA.
Trước đây trong một thời gian dài, người Việt và người Phương Tây đều tưởng ở giữa
Biển Đông chỉ có một quần đảo dài, đều gọi một tên chung, rất nhất quán. Người Việt gọi là
Bãi Cát Vàng (
gọi là Đại Trường Sa (

) hay cồn Vàng hoặc Hồng Sa (
) hay Vạn Lý Trường Sa(

). Hoặc có khi
).

Bãi Cát (Kát) Vàng hay cồn Vàng là gốc từ chữ Nơm, Hồng Sa gốc từ chữ Hán, đều
đồng nghĩa ( Sa = Cát, Hoàng = Vàng; Trường = Dài; Đại = Lớn; Vạn Lý = Vạn Dặm; Bãi là
chỗ đất nổi lên ở ven hay giữa sông , biển; cồn là gị đống nổi lên ở giữa sơng hay biển).
Danh xưng từ chữ nôm"Cát Vàng" rất được thông dụng trong dân gian, được dân gian đặt
tên sớm. Tên gọi từ chữ Hán "Hoàng Sa" được giới nho sĩ dịch và viết ra về sau.

Người Bồ Đào Nha, Hòa Lan gọi quần đảo là Parcel hay Pracel (tiếng Bồ Đào Nha,
Parcel có nghĩa là đá ngầm - ám tiêu; xem Eduardo Pinheiro, Dictionário Da Língua
Portuguesa, Porto, Tipografia Sequeira, L.DA, 1948, tr.1042) vào đầu thế kỷ XVI; khi ấy
người Phương Tây chưa biết đến các đảo ở phía Nam mà sau này gọi là Trường Sa; trên bản.
đồ thường ghi "ì de Pracell"như bản đồ Bartholomen Velho (1560), bản đồ Fernao Vaz
Dourado (1590).,bản đồVan Langren (1595)...
Người Pháp, Anh gọi là Paracel vào thế kỷ XVII, XVIII trên các bản đồ hàng hải.
Mãi đến năm 1787-1788, khi đoàn khảo sát Kergariou Locmaria xác định rõ ràng và
chính xác vị trí của quần đảo Paracel như hiện nay, người Phương Tây mới bắt đầu phân biệt
quần đảo Paracel ở phiá Bắc với quần đảo ở phía Nam mà sau này đến thập niên 40 tròm; thế
kỷ XX người Pháp mới gọi là spratly(l.l) chỉ chung cho quần đảo Trường Sa .
Còn đối với người Việt, từ đầu thế kỷ XVIII đã kiểm soát vùng Biển Đông tới tận Hà
Tiên, như Lê Quý Đôn trong Phủ Biên Tạp Lục đã cho biết Đội Bắc Hải trực thuộc Đội Hoàng
19


Sa đã phụ trách riêng các đảo phía Nam của Bắc Hải và tới tận Côn Lon, Hà Tiên. Tuy sang thế
kỷ XIX, đã thấy địa danh Vạn Lý Trường Sa ở phía Nam ghi cùng với Hồng Sa ở phía Bắc
trong Đại Nam Nhất Thống Tồn Đồ, song vẫn chưa phân biệt thật rõ rệt mà vẫn chỉ chung một
quần thể. Ngay thời Ngơ Đình Diệm năm 1956 cũng thể hiện khái niệm "hai quần đảo là một"
khi trong văn bản ghi Hoàng Sa chỉ cả hai quần đảo Paracel và Spratley.
Một điều hết sức đặc biệt là có sự nhất quán hết sức rõ ràng giữa danh xưng quần đảo tên
Việt và ten Phương Tây, khi Giám Mục Taberd ghi rất rõ ràng ở bản đồ An Nam Đại Quốc Họa
Đồ với hàng chữ: Paracel seu Cát Vàng . (Tiếng Latinh seu = hoặc là). Cũng chính Giám mục
Taberd đã viết Paracels được người Việt gọi là Cát Vàng trong cuốn Univers, Histoire et
Description de Tous Les Peuples, de Leurs Religions, Moeurs et Coutumes (1833). Điều này
không hề có ở Trung Quốc cũng như bất cứ nước nào khác. Chỉ ở Việt Nam mới chắc chắn Cát
Vàng hay Hồng Sa chính là Paracel do Phương Tây đặt tên.Chính điều này là bằng chứng rất
rõ ràng người Phương Tây ít ra từ đầu thế kỷ XIX đã xác nhận Paracel chính là Cát ( Kát) Vàng
tức Hồng Sa của Việt Nam.

Thật khác với người Phương Táy hay Trung Quốc, tên gọi được đặt hai quần đảo này chỉ
thuần túy do nhu cầu hàng hải,tên gọi Hoàng Sa được người Việt đặt do việc xác lập chủ quyền
ở hai quần đảo này, bởi đồng thời "Hoàng Sa "dùng để chỉ tên một tổ chức do nhà nước thành
lập khai thác, kiểm sốt, làm chủ các hải đảo mang tên" Hồng Sa". Như thế bản thân tên gọi
"Hoàng Sa "là bằng chứng cho sự xác lập cũng như thực thi chủ quyền của Việt Nam tại quần
đảo Hoàng Sa.
Quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa nằm trong Biển Đông. Đã từ lâu, người Việt đã nói đến
Biển Đơng trong ca dao tục ngữ: "Thuận vợ, thuận chồng, tát Biển Đông cũng cạn" hay "Dã
tràng xe cát Biển Đông". Người Trung Hoa thường gọi là Nam Hải, song cũng tùy theo từng
thời kỳ lịch sử người Trung Hoa đã tên gọi khác nhau như biển Giao Chỉ ( Giao Chỉ Dương).
Ngoài ra, ven tỉnh Quảng Đơng, người Trung Hoa cịn gọi là Việt Hải,Việt Dương.
Các nhà hàng hải Phương Tây từ thế kỷ XVI thường gọi là biển Champa (Ciampa), hay
biển Trung Hoa hay Nam Trung Hoa. Cũng như người ta thường gọi biên kê cận An Độ là An
Độ Dương. Song chang bao giờ An Độ Dương là của Ân Độ cũng như Biển Trung Hoa là của
Trung Hoa cả. Đúng ra, Biển Đông bao quanh hầu hết các nước Đông Nam Á như Việt Nam,
20


Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Campuchia, nên phải gọi là
Biển Đông Nam Á mới đúng.
Từ nhiều thập niên qua, ứa có1 nhiều nhà khoa học cố gắng giải thích sự hình thành nền
văn hóa hàng hải của dân Việt nói riêng và của dân Đơng Nam Á nói chung, có những sắc thái
hồn tồn khác với văn hoa lục địa Trung Hoa. Một số lý thuyết được tóm tắt như sau:
Chrester Norman cho rằng nền Văn Minh Hòa Bình được tạo dựng trong thời gian lục
địa Sunda bị ngập nước. Khi đó Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan lúc trước là hai vùng đồng
bằng trũng. Lý thuyết Norman cho rằng một số dân Đông Nam Á khởi sự trước hết bằng cuộc
sông ở duyên hải, sau này hội nhập với dân cư vùng cao nguyên, nhưng rồi lại trở về vùng
đồng bằng gần biển, sau nữa phát triển về hàng hải ("The Hoabinhian and After: Subsistence
Patterns in Southeast Asia during the Late Pleistocene and Early Periods",World Archaecology
2, No.3, 1971, pp 300-320). [107]

Wilheim G.Solheim cho rằng 6000 năm trước, dân Đơng Nam Á đã mạo hiểm ra khơi.
Gió bão và hải lưu của Biển Đơng và Thái Bình Dương đã cuốn trôi một số người tới Nhật
Bản, trong khi các nhóm khác bị quét sang Philippines, Indonesia, Malaysia. Tiếp theo, những
toán dân chúng di chuyển tới các đảo ở ngồi khơi Thái Bình Dương và sang Madagascar.
Cũng theo Solheim, Biển Đơng thời cổ cịn là nơi phát sinh những đường hàng hải giao
tiếp với các nơi ở dọc biển Á Châu, Âu Châu, Phi Châu và cả Mỹ Châu nữa. Solheim lý luận
rằng chỉ có sự kiện Đơng Nam Á giữ vai trò trung tâm phân tán như trục một cái bánh xe tỏa
nan hoa ra khắp nơi mới giải thích được hiện tượng lịch sử là tại sao các chủng tộc khác biệt
của loài người sống xa cách nhau trên thế giới lại có nhiều sự tương đồng về sinh hoạt văn hoa
như vậy ("World Ethnographic Sample...A Possible Historical Explanation",American
Anthropoỉogisí, 70, 1968, p569). [107]
Nhà ngữ học Pháp Paul Rivet đã có nhiều cuộc nghiên cứu và kết luận rằng: "Từ Đông
Nam Á, một thứ ngôn ngữ đã được truyền bá đi bằng đường hàng hải đến Nhật Bản, Tasmania,
Địa Trung Hải, Phi Châu và Mỹ Châu"(Sumerien et Océanien, Colỉection Linguistique, Pẳs,
1929).(hình 1.1) [107]

21


Carl Sauer duyệt xét những biến chuyển về địa lý Biển Đông, ý thức tầm quan trọng của
ngư nghiệp và hàng hải trong tiến trình văn minh Đơng Á thời cổ, khác biệt hẳn với các nơi
khác trên thế giới. Vì Biển Đơng có hai vụ gió mùa, nên việc hải hành viễn duyên khi đi cũng
như khi về rất tiện lợi. Sự trao đổi hàng hóa nâng cao kỹ thuật chế tạo phẩm vật. Trước đây
2500 năm, trống đồng chính là thành tích rõ ràng nhất minh chứng khả năng hàng hải của dân
Lạc Việt. (Agricultural Origins and Dispersals, Series Two, New York, 1952, pp24-25)[ 107 ].
Những hoa văn nhiều hình thuyền trên trống đồng, thập đồng thời đại Đông Sơn, thời đại Hùng
Vương đã minh chứng hùng hồn dân Việt thời cổ đã coi trọng phương tiện đi lại bằng thuyền
như thế nào!
Có những dự đốn của các nhà khoa học, chừng một vài thiên kỷ sắp đến, mực nước Biển
Đông sẽ bắt đầu rút trở xuồng. Căn cứ vào mực nước biển lên xuống trong quá khứ, nếu khơng

có gì thay đổi, trong vịng dăm ba ngàn năm tới, cả Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan sẽ trở thành
khô cạn, Biển Đông trở thành biển nội địa, đường hàng hải quốc tế khơng cịn qua Biển Đông
nữa (Xem bản đồ của National Geographic, March, 1971) . (hình 1.2, hình 1.3) [107]
Hai quần đảo cách nhau khoảng 500km, trải dài từ Bắc xuống Nam khoảng 11 vĩ độ, từ vĩ
độ 17° 05B xuống 6°20'9"B, từ Tây sang Đông khoảng 7 kinh độ, từ kinh độ 110°Đ đến kinh
độ 117°Đ. Cả hai quần đảo này gồm nhiều đảo, đá, bãi cạn có nguồn gốc san hơ. Tổng diện tích
phần thường xuyên nổi lên mặt nước của mỗi quần đảo khoảng hơn 10km2. Tuy hai quẫn đảo
cách xa nhau song mỗi quần đảo lại có một số đảo gần miền bờ biển đất liền nhô ra biển của
Việt Nam tức vùng đất từ mũi Ba Làng An đến mũi Kê Gà (từ Qng Ngãi đến Bình Thuận).
Vị trí này khiến dân từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận có mối liến hệ lâu đời với hai quần đảo
trên mà người Việt trong một thời gian dài đã coi gộp chung là một như chúng ta đã biết hoặc
gọi là Hoàng Sa, hoặc gọi là Vạn Lý Trường Sa ( Xem hình 1.4, 1.5, 1.6).

1.2. QUẦN ĐẢO HỒNG SA
Quần đảo Hồng Sa nằm trong một phạm vi rộng khoảng 15.000km2 , giữa kinh tuyến IU
độ Đ đến 113 độ Đông, khoảng 95 hải lý (Ì hải lý = 1,853 km), từ 17°05' xuống 15°,45'độ vĩ
Bắc, khoảng 90 hải lý; xung quanh là vùng biển có độ sâu hơn lOOOm, song giữa các đảo có
độ sâu thường dưới lOOm. Quần đảo Hồng Sa nằm ngang bờ biển các tỉnh Quảng Trị, Thừa
Thiên, Quảng Nam và một phần Quảng Ngãi.
22


Về khoảng cách với đất liền, quần đảo Hoàng Sa nằm gần đất liền Việt Nam hơn cả:
Từ đảo Triton đến Mũi Ba Làng An (Cáp Batangan:15độ vĩ B, 108độ 6' kinh Đ), tức đất
liền lục địa Việt Nam đo được 135 hải lý , cách Cù Lao Ré chỉ có 123 hải lý, trong khi đó
khoảng cách đảo gần nhất tới bờ đảo Hải Nam xa tới 140 hải lý (đảo Hoàng Sa-Pattle:16 độ vĩ
B, lllđộ6' kinh Đ và Ling-Sui hay Leong Soi : 18độ vĩ B, 110 độ 03 kinh Đ); nếu tính tới đất
liền lục địa Trung Hoa còn xa hơn nhiều, tối thiểu là 235 hải lý . (hình 1.7 )
Đoạn bờ biển từ Quảng Trị chạy dài xuống tới Quảng Ngãi đối mặt với các đảo Hồng Sa
ln hứng gió Mùa Đơng Nam hay Đơng Bắc thổi vô, nên thường tiếp nhận các thuyền bị bão

làm hư hại ở vùng biển Hồng Sa ( hình 1.8). Các vua chúa Việt Nam hay chu cấp phương tiện
cho các thuyền bị nạn ấy về nước, nên họ thường bảo nhau tìm cách tạt vào bờ biển của Việt
Nam để nhờ cứu giúp. Chính vì thế, Hồng Sa từ rất sớm đã được người Việt biết tới, hết sức
quan tâm, cùng xác lập và thực thi chủ quyền của mình.
Trong khoảng 30 đảo, đá, bãi, cồn, hịn trên, hiện có 23 đã được đặt tên, gồm 15 đảo, 3
bãi, 3 đá, 1 cồn, 1 hòn. Các đảo trên khơng cao, cao nhất là Đảo Hịn Đá (50 feet), đảo thấp
nhất là Đảo Tri Tôn (10 feet). Các đảo chính gồm 2 nhóm:
- Nhóm Lưỡi Liềm (Crescent group) ở Tây Nam.
- Nhóm An Vĩnh (Amphitrite Group) ở Đơng Bắc.
1.2.1. Nhóm Lười Liềm:
Nhóm Lưỡi Liềm cịn gọi là Trăng Khuyết hay Nguyệt Thiềm, theo như Sơn Hồng Đức
nếu nhìn từ máy bay xuống , nhóm đảo này trơng hình như chiếc bánh "croissant" châu đầu vào
nhau. Có 7 đảo chính và vơ số mỏm đá:
. Đảo Hồng Sa (Pattle, Shanhu Dao) (hình 1.9, đảo Hồng Sa) [Tập San sử Địa số 29]
Tuy là đảo chính nhưng khơng phải là đảo lớn nhất, có vị trí qn sự quan trọng nhất cho
việc phòng thủ bờ biển Việt Nam, hơn cả đảo Phú Lâm. Đảo nằm trên tọa độ 16 độ 32,3 vĩ B ,
lllđộ 35,7 kinh Đ, hình bầu dục, dài khoảng hơn 900m, rộng khoảng gần 700m, diện tích chừng
0,3km2 (30ha) [27, tr.21]gồm cả vịng san hơ bao quanh.

23


Trước ngày 19 tháng 1 năm 1974, ngày Trung Quốc xâm chiếm, đảo này đã được Việt
Nam xây dựng căn cứ quân sự, nhà cửa, đài khí tượng, hải đăng, miếu thờ Bà, cầu tàu, bia chủ
quyền. Cho đến ngày Trung Quốc xâm chiếm, bia chủ quyền vẫn cịn gióng chữ như sau:
"République Francaise - Empire cTAnnam-Archipel des Paracels". Về Đơng Bắc'Đảo vẫn cịn
vài ngơi mộ binh lính thời Nhà Nguyễn. Phía Tây Nam đảo có một am thờ gọi là Miếu Bà, có
một pho tượng Phật Bà Quan Am (hình 1.10). Đài khí tượng với danh xưng "Station
d'Observation 838" chính thức hoạt động từ năm 1938 thường với 5 nhân viên thuộc ty Khí
tượng Hồng Sa do chính quyền Nam Việt Nam quản lý (hình 1.11).

Từ năm 1931 đến 1975 thường xun có một trung đội lính từ Quảng Nam (Trung bộ
Việt Nam) (hình 1.12, hình 1.13) [Tập San Sử Địa số 29].
. Đảo Hữu Nhật (Robert, Canquan Dao hay Cam Tuyền) (hình 1.14, hình 1.15)
Đảo mang tên suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật được vua Minh Mạng phái ra Hồng Sa
đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ vào năm 1836.
Phía Nam đảo Hồng Sa cách độ 3 hải lý, hình bàu trịn, đường kính 800m, chu vi 2000
m, diện tích khoảng 0.32km2 (32ha) [17,tr.20] có vịng đai san hơ bao ngồi xa, giữa là vùng bể
lặng. Nằm ở tọa độ 111độ344'kinh Đ, 16độ.30'60 vĩ B . Chung quanh đảo cây cối um tùm,
chính giữa là lịng chảo khơng sâu cho lắm. Biển quanh đảo có nhiều rong biển, phủ kín cả mặt
biển. Nơi đảo này vì khơng người ở, nên con vít thường lên bờ đẻ la liệt từ tháng 3 đến tháng 8
âm lịch.
. Đảo Duy Mộng (Drummond, JinQúing Dao)
Đảo ở phía Đơng Nam đảo Hữu Nhật, phía, Đơng Bắc đảo Quang Hoa, nằm trên tọa độ
1110 44'kinh Đ,16 °28' vĩ B, cũng do san hô cấu tạo thành, bãi san hô ra xa đảo, nhô lên khỏi
mặt nước khoảng 4m. Đảo hình bầu dục, diện tích khoảng 0,41km2(41ha) [17,tr.21] khơng có
loại cây lớn, chỉ tồn loại cây nhỏ. Giữa đảo là vùng đất trống, có thể định cư được. Đảo có
một con lạch nhỏ, có thể dùng ghe nhỏ vào sâu trong nội địa. Tàu có thể neo cách đảo 200m.
Có nhiều chim biển và con vít sống trên đảo.
. Đảo Quang Hịa (Duncan, Chenhang Dao) (hình 1.16)

24


Đảo nằm trên tọa độ 111°42'kinh Đ, 16° 26' vĩ B cũng do san hô tạo thành, là đảo lớn
nhất trong nhóm đảo Lưỡi Liềm (Crescent Group), Chung quanh đảo là bãi cát mầu vàng
(hồng sa hay cát vàng). Vịng san hơ lan ra rất xa khỏi bìa đảo. Cạnh đảo lớn cịn có những
đảo nhỏ, nối liền nhau bằng bãi cát dài. Một vài bản đồ địa chất ghi Quang Hoa thành hai đảo
Quang Hoa Đông và Quang Hoa Tây.
- Quang Hịa Đơng có rừng cây nhàu, một loại cây dùng để làm thuốc thường thấy ở
Trung Bộ và Nam Bộ Việt Nam và cây phosphorite mọc ở phía Tây của đảo, nhiều cây cao tới

5 m. Phần đảo phía Đơng trơ trụi chỉ có dây leo sát mặt đất. Chu vi đảo 2.700m, diện tích
khoảng 0,48km2 (48ha) [17, tr.21]
- Quang Hịa Tây là một đảo nhỏ, gần hình trịn, chu vi 1000m, chỉ bằng 1/10 đảo Quang
Hoầ Đơng, khoảng 0,09 km (9ha), cùng có những loại cây như ở đảo Quang Hoa Đông nhưng
chỉ cao khoảng 3m.
. Đảo Quang Ảnh (Money Island, Jinyin dao, Kim Ngân (TQ) (hình 1.17)
Đảo nằm ở trên toa độ 111° 36'kinh Đ, 160° 27' vĩ B do san hô tạo thành, nhô lên mặt
nước độ 6 m, nơi cao nhất trong nhóm đảo Lưỡi Liềm. Chung quanh đảo bờ biển có nhiều đá
ngầm sắc nhọn rất nguy hiểm, tàu lớn không thể cặp neo được. Các tàu lớn phải neo ở ngoài
khơi, muốn vào đảo phải sử dụng thuyền nhỏ. Vì địa thế hiểm trở và trên đảo khơng có nước
ngọt, nên ít vết chân người lui tới.
Đảo mang tên Phạm Quang Ảnh, một đội trưởng Hoàng Sa được vua Gia Long sai đo đạc
thủy trình ở Hồng Sa năm 1815, hiện có hậu duệ và nhà thờ họ ở Cù Lao Ré.
Đảo hình bầu dục, hơi trịn, chu vi khoảng 2.100 m, diện tích khoảng 0,3 km2 (30 ha)
[17,tr.21] Có một số cây lớn mọc ở giữa đảo cao tới 5 m. ở phía ngồi của đảo có các cây
phosphorite và một loại cây khác giống cây mít khơng có trái.
Nhóm đảo Lưỡi Liềm ngồi 5 đảo trên cịn 4 đảo nhỏ như đảo BaBa (Hoàn Thử, 111° 40
kinh Đ, 16° 36 vĩ B), đảo ốc Hoa (Toàn Phủ, 1110 38 kinh Đ, 16° 36 vĩ B), đảo Lưỡi Liềm
(Crescent Island, Đảo Thạch, 111° 46 kinh Đ, 16° 34 vĩ B), đảo Xà Cừ (111° 42 kinh Đ, 16° 33
vĩ B ), và các đá như đá Hải Sâm (Antelope Reef, 111° 34 kinh Đ, 16° 29 vĩ B), đá Lồi
(Discovery Reef, Yuzhuo Jiao, 111° 40 kinh Đ, 16°14vĩB), đá Chim Yến (Vuladdore Reef,
25


×