BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Phạm Hồng Thu Hằng
UYỂN NGỮ TIẾNG VIỆT
DƯỚI GĨC NHÌN TRI NHẬN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Phạm Hồng Thu Hằng
UYỂN NGỮ TIẾNG VIỆT
DƯỚI GĨC NHÌN TRI NHẬN
Chun ngành : Ngơn ngữ học
Mã số
: 60 22 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS HỒNG DŨNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu thực sự của cá nhân,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Hoàng Dũng.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này
trung thực và chưa từng được cơng bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tơi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên
Phạm Hồng Thu Hằng
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI ......................................................................14
1.1. Khái niệm uyển ngữ .......................................................................................... 14
1.1.1. Định nghĩa.....................................................................................................14
1.1.2. Chức năng .....................................................................................................17
1.2. Uyển ngữ và thô ngữ ......................................................................................... 18
1.2.1. Khái niệm thô ngữ ........................................................................................18
1.2.2. Mối quan hệ giữa uyển ngữ và thô ngữ ........................................................19
1.3. Phương thức uyển ngữ....................................................................................... 20
1.3.1. Cơ sở hình thành phương thức uyển ngữ......................................................20
1.3.2. Phân loại phương thức uyển ngữ ..................................................................21
1.4. Hướng tiếp cận tri nhận về uyển ngữ ................................................................ 22
1.4.1. Ý niệm...........................................................................................................22
1.4.2. Ý niệm hóa ....................................................................................................24
1.5. Bức tranh thế giới ............................................................................................26
Chương 2. YẾU TỐ CẤM KỊ VÀ CÁC Ý NIỆM TRONG TIẾNG VIỆT ............28
2.1. Kết quả khảo sát các ý niệm thể hiện qua uyển ngữ .......................................... 28
2.1.1. Kết quả của dữ liệu sơ cấp ............................................................................28
2.1.2. Kết quả khảo sát của phiếu điều tra ..............................................................35
2.1.3. Nhận xét ........................................................................................................36
2.2. Kết quả khảo sát yếu tố cấm kị của các ý niệm ................................................. 37
2.2.1. Các bộ phận cơ thể........................................................................................38
2.2.2. Sự bài tiết ......................................................................................................41
2.2.3. Cái chết .........................................................................................................42
2.2.4. Công việc ......................................................................................................44
2.3. Bức tranh ngôn ngữ về thế giới của cộng đồng người Việt qua sự cấm kị ........ 46
2.4. Một số ý niệm cấm kị trong tiếng Việt .............................................................. 49
2.4.1. Các bộ phận cơ thể........................................................................................50
2.4.2. Cái chết .........................................................................................................51
2.4.3. Sự bài tiết ......................................................................................................53
2.4.4. Mối quan hệ giữa các ý niệm cấm kị ............................................................55
Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................... 58
Chương 3. TỪ NGỮ UYỂN NGỮ VÀ CÁC MƠ HÌNH TRI NHẬN TRONG
TIẾNG VIỆT ............................................................................................60
3.1. Kết quả khảo sát một số từ ngữ uyển ngữ thể hiện các tiểu ý niệm .................. 60
3.1.1. Mức độ thường dùng ....................................................................................60
3.1.2. Mức độ liên hệ ..............................................................................................65
3.1.3. Sự thay thế tốt nhất .......................................................................................69
3.2. Kết quả khảo sát các phương thức uyển ngữ thể hiện ý niệm ........................... 74
3.2.1. Phương thức ngữ âm .....................................................................................75
3.2.2. Phương thức từ vựng – ngữ nghĩa ................................................................76
3.2.3. Phương thức ngữ pháp ..................................................................................77
3.2.4. Nhận xét ........................................................................................................78
3.3. Một số mơ hình tri nhận được thể hiện qua từ ngữ uyển ngữ ............................ 80
3.3.1. Cơ quan sinh dục ..........................................................................................80
3.3.2. Cái chết .........................................................................................................84
3.3.3. Tình u, hơn nhân và tính dục ....................................................................88
Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................... 94
TỔNG KẾT ..................................................................................................................96
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1:
Tỉ lệ lựa chọn các đề tài uyển ngữ ............................................................. 35
Bảng 2.2:
TBYN và GTYN của ý niệm cấm kị trong các bộ phận cơ thể ................. 39
Bảng 2.3:
TBYN và GTYN mức độ ghê sợ của các ý niệm trong SỰ BÀI TIẾT ..... 41
Bảng 2.4:
TBYN và GTYN của nỗi sợ chết ............................................................... 43
Bảng 2.5:
TBYN và GTYN mức độ hạn chế đề cập các ý niệm trong
CÔNG VIỆC .............................................................................................. 45
Bảng 3.6:
Mức độ thường dùng một số từ ngữ uyển ngữ chỉ CÁI CHẾT ................. 60
Bảng 3.7:
TBYN và GTYN mức độ thường dùng của từ ngữ uyển ngữ trong
CƠ QUAN SINH DỤC và QUAN HỆ TÍNH DỤC ................................. 63
Bảng 3.8:
TBYN và GTYN mức độ thay thế của từ ngữ uyển ngữ trong
CÔNG VIỆC .............................................................................................. 70
Bảng 3.9:
Mức độ thay thế các từ ngữ uyển ngữ trong TIỀN HỐI LỘ ..................... 71
Bảng 3.10: TBYN và GTYN mức độ thay thế các từ ngữ uyển ngữ cho NHIỀU ....... 72
Bảng 3.11: TBYN và GTYN mức độ thay thế các từ ngữ uyển ngữ cho TỆ .............. 73
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1:
Tỉ lệ lựa chọn các ý niệm uyển ngữ ...................................................... 36
Biểu đồ 2.2:
Biểu đồ ý niệm cấm kị trong các bộ phận cơ thể .................................. 40
Biểu đồ 2.3:
Tỉ lệ mức độ ghê sợ của các ý niệm trong SỰ BÀI TIẾT ..................... 42
Biểu đồ 2.4:
Tỉ lệ các nỗi sợ về cái chết .................................................................... 44
Biểu đồ 2.5:
Tỉ lệ mức độ giới hạn đề cập các ý niệm trong CÔNG VIỆC .............. 46
Biểu đồ 3.6:
Tỉ
lệ
thường
dùng
của
các
từ
ngữ
uyển
ngữ
trong
CƠ QUAN SINH DỤC ......................................................................... 64
Biểu đồ 3.7:
Tỉ
lệ
thường
dùng
của
các
từ
ngữ
uyển
ngữ
trong
QUAN HỆ TÍNH DỤC ........................................................................ 65
Biểu đồ 3.8:
Mức độ liên hệ của các từ ngữ uyển ngữ trong CÁI CHẾT.................. 66
Biểu đồ 3.9:
Mức
độ
liên
hệ
của
các
từ
ngữ
uyển
ngữ
trong
QUAN HỆ TÍNH DỤC ........................................................................ 67
Biểu đồ 3.10: Mức độ liên hệ từ ngữ uyển ngữ trong CƠ QUAN SINH DỤC ........... 68
Biểu đồ 3.11: Tỉ lệ mức độ thay thế các từ ngữ uyển ngữ trong
KHƠNG CĨ VIỆC LÀM ...................................................................... 71
Biểu đồ 3.12: Tỉ lệ mức độ thay thế các từ ngữ uyển ngữ trong TIỀN HỐI LỘ ......... 72
Biểu đồ 3.13: Tỉ lệ mức độ thay thế các từ ngữ uyển ngữ cho NHIỀU ....................... 73
Biểu đồ 3.14: Tỉ lệ mức độ thay thế các từ ngữ uyển ngữ cho TỆ .............................. 74
Biểu đồ 3.15: Tỉ lệ phân bố phương thức ngữ âm theo từng ý niệm ........................... 75
Biểu đồ 3.16: Tỉ lệ các loại phương thức ngữ âm ........................................................ 76
Biểu đồ 3.17: Tỉ lệ các loại phương thức từ vựng – nghữ nghĩa ................................. 76
Biểu đồ 3.18: Tỉ lệ phân bố phương thức từ vựng – ngữ nghĩa theo từng ý niệm....... 77
Biểu đồ 3.19: Tỉ lệ các loại phương thức ngữ pháp ..................................................... 78
Biểu đồ 3.20: Tỉ lệ phân bố các phương thức ngữ pháp theo từng ý niệm .................. 78
Biểu đồ 3.21: Tỉ lệ các phương thức uyển ngữ ............................................................ 79
Biểu đồ 3.22: Tỉ lệ các loại phương thức uyển ngữ ..................................................... 79
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Uyển ngữ là một hiện tượng ngôn ngữ quen thuộc trong hầu hết các ngôn ngữ
nhưng uyển ngữ chỉ mới được ngôn ngữ học hiện đại nghiên cứu nhiều trong thời gian
gần đây. Uyển ngữ chủ yếu được xem xét trên các bình diện cấu tạo (ngữ pháp) và sử
dụng (ngữ dụng), tuy nhiên uyển ngữ dưới góc độ tri nhận cịn chưa được nghiên cứu
nhiều.
Cách sử dụng uyển ngữ có liên quan đến thế giới tinh thần của cộng đồng sử
dụng ngôn ngữ, hay nói cách khác là cách cộng đồng sử dụng ngôn ngữ tri nhận thế
giới. Nghiên cứu bức tranh ngôn ngữ mà cụ thể là ở khía cạnh uyển ngữ sẽ giúp hiểu
thêm về bức tranh tinh thần của người Việt.
Nghiên cứu uyển ngữ dưới góc độ tri nhận sẽ đem lại những đóng góp liên
ngành cho ngành Văn hóa học, Xã hội học cũng như trong việc giảng dạy tiếng Việt
cho người nước ngồi.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tìm hiểu uyển ngữ về mặt tri nhận nhằm:
Tìm ra những ý niệm mà người Việt thường sử dụng uyển ngữ.
Trình bày các đặc điểm về cách sử dụng của uyển ngữ đối với từng ý niệm. Từ
đó, tìm ra mối quan hệ giữa uyển ngữ được sử dụng và ý niệm có liên quan.
Đồng thời, tìm hiểu xem các phương thức uyển ngữ được sử dụng như thế nào
trong từng ý niệm và ý niệm khác nhau thì các phương thức uyển ngữ sử dụng
có khác nhau hay khơng.
Tìm hiểu những ngun nhân về mặt văn hóa, xã hội chi phối đến q trình tri
nhận của người Việt trong việc sử dụng uyển ngữ.
Đối chiếu với tiếng Anh để thấy được những đặc điểm khác nhau trong cách sử
dụng uyển ngữ giữa tiếng Việt và tiếng Anh dưới ảnh hưởng của bức tranh thế
giới.
2
3. Lịch sử nghiên cứu
Các cơng trình nghiên cứu về uyển ngữ trong tiếng Anh
Thuật ngữ “euphemisms” có nguồn gốc từ từ Hy Lạp “euphemo” có nghĩa là
“lời nói tốt đẹp” (“eu”: tốt; “phemo”: lời nói). Hầu hết các cơng trình nghiên cứu về
uyển ngữ trong tiếng Anh đều xoay quanh các vấn đề định nghĩa uyển ngữ, xác định
nguồn gốc của nó, cách sử dụng và liệt kê uyển ngữ theo các lĩnh vực.
Về vấn đề xác định cách hiểu của thuật ngữ uyển ngữ, Allan and Burridge [2, tr
11] cho rằng uyển ngữ là những từ hoặc cụm từ thay thế cho những từ khác bị cho là
có tính sỉ nhục để tránh làm mất mặt của một trong hai, người nghe hoặc người thứ ba
nào đó. Khi một cụm từ trở thành uyển ngữ, lớp nghĩa thực của nó bị gạt sang một
bên. Như vậy, uyển ngữ là cách sử dụng từ ngữ một cách lịch sự hơn, hoặc tránh
những từ ngữ thô tục. Các tác giả Larson [23], O’grady [25], Harris [46] cũng xác định
cách hiểu thuật ngữ uyển ngữ một cách tương tự. Bên cạnh đó, Harris [46] cịn chia
uyển ngữ thành ba nhóm dựa trên chức năng của chúng: 1) Để bảo vệ phẩm giá; 2) Để
ngăn chặn những phản ứng tiêu cực từ người nghe; 3) Để tránh những ý nghĩa không
mong muốn.
Dưới góc độ tri nhận, theo Gonsalves [45], uyển ngữ thực sự là cánh của sổ mở
ra tâm trí và tình cảm của chúng ta. Chúng vốn mang sắc thái trung hòa, nhưng tùy
thuộc vào người sử dụng hoặc những gì cần phải nói tránh đi mà uyển ngữ trở nên tinh
tế, thú vị hoặc nguy hiểm hay thậm chí là sự lừa dối. Sự tồn tại có tính phổ qt của
uyển ngữ khơng có nghĩa uyển ngữ đồng nhất trong những ngôn ngữ khác nhau. Uyển
ngữ liên quan mật thiết với văn hóa. Những ý niệm trong các cộng đồng ngơn ngữ
khác nhau khơng hồn tồn giống nhau. Những cái cần kiêng kị trong các nền văn hóa
cũng khơng giống nhau do đó uyển ngữ giữa các ngơn ngữ khác nhau sẽ có sự khác
nhau.
Cơng trình đề cập đầy đủ nhất và toàn diện nhất về uyển ngữ trong tiếng Anh là
của hai tác giả Allan và Burridge [2] với đề tài Euphemism and Dysphemism –
Language Used as Shield and Weapon (Uyển ngữ và Thô ngữ - Ngôn ngữ được sử
dụng như chiếc khiên và vũ khí). Các tác giả của cơng trình này đã tìm hiểu về sự phát
triển của uyển ngữ tiếng Anh, các cách cấu tạo và các loại uyển ngữ tiếng Anh, phân
3
biệt uyển ngữ với thô ngữ, mô tả uyển ngữ thông qua các sử dụng của chúng trong các
lĩnh vực khác nhau của cuộc sống.
Ngồi ra, các cơng trình như Enright [5] với Fair of Speech – The Use of
Euphemisms (Sự khéo léo trong lời nói – Sự sử dụng uyển ngữ); Noble [24] với Speak
Softly – Euphemisms and Such (Nói khéo – Uyển ngữ và những biện pháp tương tự)
cũng cung cấp nguyên nhân mà uyển ngữ được sử dụng, cách sử dụng của uyển ngữ ở
các lĩnh vực xã hội. Bên cạnh đó, các tác giả này cũng phân tích một số đề tài mà
người nói thường sử dụng uyển ngữ như chính trị, giới tính, y khoa, v.v. Đồng thời, họ
cũng liệt kê và giải thích các uyển ngữ sử dụng trong các đề tài trên.
Các phương thức uyển ngữ tiếng Anh được tập hợp đầy đủ nhất trong hai cuốn
từ điển uyển ngữ là Oxford Dictionary of Euphemisms của Holder [8] và Bloomsbury
Dictionary of Euphemisms của Ayto [3].
Các cơng trình nghiên cứu về uyển ngữ trong tiếng Anh có đối chiếu
với tiếng Việt
Việc nghiên cứu uyển ngữ chỉ mới được chú ý gần đây trong giới Việt ngữ học.
Cơng trình đầu tiên đáng kể nhất là của Trương Viên [44] với đề tài Nghiên cứu uyển
ngữ trong tiếng Anh và việc chuyển dịch sang tiếng Việt. Đây có thể coi là cơng trình
bằng tiếng Việt đầu tiên nghiên cứu về uyển ngữ một cách toàn diện nhất. Đối tượng
chính của luận án là uyển ngữ tiếng Anh. Tác giả đã trình bày rất chi tiết về các
phương thức cấu tạo của uyển ngữ tiếng Anh và các trường hợp sử dụng của nó. Như
vậy, tác giả đã đứng trên cả hai bình diện ngữ pháp và ngữ dụng để nghiên cứu về
uyển ngữ. Tuy nhiên, vì tiếng Anh là đối tượng nghiên cứu nên cơng trình vẫn chưa hệ
thống những đặc điểm của uyển ngữ tiếng Việt. Tác giả nêu các đặc điểm của uyển
ngữ tiếng Việt một cách rời rạc và chỉ tìm hiểu khi có nhu cầu đối chiếu với tiếng Anh.
Một trong những mục đích của cơng trình là ứng dụng uyển ngữ vào việc chuyển dịch
tiếng Anh sang tiếng Việt. Để làm được điều này, người viết cho rằng việc nghiên cứu
và khái quát đặc điểm của uyển ngữ tiếng Việt cũng không hề kém quan trọng so với
tiếng Anh. Hơn nữa, do xuất phát từ góc độ ngơn ngữ nên luận án chỉ mới dừng lại ở
việc phân tích một số đặc trưng nội dung ngơn ngữ và hồn cảnh kinh tế xã hội của hai
4
ngơn ngữ Anh và Việt có ảnh hưởng đến q trình chuyển dịch chứ chưa đi vào nghiên
cứu uyển ngữ dưới góc độ tri nhận.
Bên cạnh luận án của Trương Viên cịn có các bài viết về uyển ngữ trên các tạp
chí chun ngành như của Nguyễn Viết Tồn [43] với đề tài Uyển ngữ trong cụm từ
diễn đạt cái chết trong tiếng Anh. Trong bài báo của mình, tác giả đã xem xét uyển
ngữ diễn đạt từ “chết” trong các thành ngữ của tiếng Anh. Mục đích của đề tài này là
vạch ra những đặc trưng chính và các đặc điểm về ngữ nghĩa biểu thị từ “chết” trong
tiếng Anh có liên hệ với tiếng Việt. Đề tài vẫn chỉ dừng lại ở góc độ từ vựng – ngữ
nghĩa, vấn đề tri nhận chưa được phát biểu hiển ngôn.
Về mặt cấu tạo của uyển ngữ, trên tạp chí Ngơn ngữ, Đoàn Tiến Lực [33] với
bài viết Về phương thức cấu tạo uyển ngữ đã tập trung đi vào tìm hiểu những phương
thức ngôn ngữ tạo nên uyển ngữ, cụ thể là uyển ngữ tiếng Anh. Sau đó tác giả đối
chiếu với tiếng Việt và chia phương thức cấu tạo uyển ngữ tiếng Việt thành ba nhóm:
1) Phương thức ngữ âm; 2) Phương thức từ vựng – ngữ nghĩa; 3) Phương thức ngữ
pháp. Bài viết này chỉ chú ý về mặt hình thức của các phương thức uyển ngữ tiếng
Việt dựa trên các kết quả có được từ tiếng Anh chứ chưa đi sâu vào phân tích về mặt
ngữ dụng hay tìm hiểu các vấn đề văn hóa xã hội có liên quan.
Việc phân loại uyển ngữ được đề cập đến trong cuốn Understanding of English
Semantics của tác giả Nguyễn Hịa [40, tr 75] ở góc độ từ vựng – ngữ nghĩa. Uyển ngữ
được xác định tác giả xác định là cách dùng những từ ít gây khó chịu hơn thay thế cho
một từ nào đó. Trong hệ thống phân loại từ đồng nghĩa của Nguyễn Hòa, uyển ngữ là
loại thứ bảy, cùng với các loại đồng nghĩa khác.
Các cơng trình nghiên cứu uyển ngữ trong tiếng Việt
Uyển ngữ trong tiếng Việt được nhắc đến trong các cơng trình như Từ vựng học
tiếng Việt của Nguyễn Thiện Giáp [42]; Phong cách học tiếng Việt của Đinh Trọng
Lạc [31]; Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt của Cù Đình Tú [30]. Trong ba
cuốn sách, uyển ngữ hoặc được nhắc đến ở phương diện từ vựng học (Nguyễn Thiện
Giáp) hoặc phong cách học (Đinh Trọng Lạc, Cù Đình Tú). Ở phương diện từ vựng,
uyển ngữ được xem xét như là từ đồng nghĩa, với các sắc thái khác nhau nên được sử
dụng thay thế cho nhau trong một vài trường hợp. Ở phương diện phong cách học,
5
uyển ngữ còn là một biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển, tránh gây
cảm giác thô tục, thiếu lịch sự, giảm sự đau buồn, nặng nề, ghê sợ.
Bài viết của Đoàn Tiến Lực [33] về Sự tri nhận về cái chết của người Việt qua
uyển ngữ đã xem xét uyển ngữ dưới góc độ tri nhận, thơng qua uyển ngữ về cái chết để
tìm hiểu xem người Việt tri nhận thế nào về cái chết. Tác giả cho rằng việc tạo ra và sử
dụng uyển ngữ được thúc đẩy bởi những điều cấm kỵ khác nhau trong xã hội. Tác giả
đưa ra một số miền tri nhận về cái chết của người Việt và tương ứng với mỗi miền tri
nhận sẽ có những uyển ngữ khác nhau phù hợp với miền tri nhận đó. Từ đó, tác giả đối
chiếu với tiếng Anh và chỉ ra những đặc điểm khác nhau giữa người Anh và người
Việt trong cách tri nhận về cái chết.
Như vậy, có thể thấy, uyển ngữ trong tiếng Việt còn chưa được nghiên cứu
nhiều xét trên tất cả các bình diện của ngơn ngữ như cấu tạo của uyển ngữ, cách sử
dụng của uyển ngữ tiếng Việt. Đặc biệt, các nhân tố ngoài ngơn ngữ có tác động đến
cấu tạo và sử dụng uyển ngữ tiếng Việt chưa được tìm hiểu một cách cụ thể và chuyên
sâu.
Nhận xét
Nhìn chung, uyển ngữ là một đề tài mới được các nhà ngôn ngữ học nghiên cứu
gần đây. Đối tượng nghiên cứu chính là tiếng Anh. Các nghiên cứu này tập trung làm
rõ những vấn đề sau:
Nguồn gốc và quá trình phát triển của uyển ngữ.
Đưa ra một cách hiểu chính xác cho thuật ngữ uyển ngữ và phân loại
uyển ngữ dựa trên chức năng.
Nghiên cứu các phương thức cấu tạo của uyển ngữ cũng như cách sử
dụng của nó.
Các đặc điểm của uyển ngữ tiếng Việt vẫn chưa được tìm hiểu một cách
cụ thể và có hệ thống. Vai trị của việc tìm hiểu uyển ngữ tiếng Việt chỉ
dừng lại ở mức độ là để đối chiếu so sánh với tiếng Anh nhằm làm rõ
những đặc điểm của uyển ngữ tiếng Anh. Ngồi ra, vấn đề tri nhận thơng
qua uyển ngữ chỉ mới được đề cập và vẫn còn sơ sài.
6
4. Phương pháp thực hiện đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Trong cơng trình này người viết tập trung tìm hiểu uyển ngữ tiếng Việt về các
mặt:
Các ý niệm tiếng Việt có sử dụng uyển ngữ.
Cách cấu tạo và sử dụng uyển ngữ đối với từng ý niệm.
So sánh đối chiếu với tiếng Anh để làm rõ những đặc điểm của uyển ngữ tiếng
Việt dưới góc độ tri nhận.
Phạm vi nghiên cứu
Nguồn thu thập các uyển ngữ chủ yếu dựa trên báo và tạp chí bao gồm hình
thức xuất bản là online hoặc in ấn và một số diễn đàn khác. Vì giới hạn thời gian nên
người viết chỉ tập trung tìm hiểu các nguồn trong phạm vi 10 năm trở lại đây, từ năm
2004 đến năm 2014. Các trang báo và tạp chí được khảo sát là:
Bên cạnh đó, người viết cịn khảo sát các báo in của báo Tuổi trẻ các năm từ
2004 đến 2012 và một số tác phẩm văn học được viết và xuất bản trong thời gian nói
trên. Do giới hạn về thời gian khảo sát nên người viết chỉ thu thập tương đối những
uyển ngữ khác nhau nhau của một số ý niệm và đó thường là những uyển ngữ xuất
hiện với tần suất cao trong các nguồn dữ liệu.
Trên cơ sở các uyển ngữ khảo sát được từ báo và tạp chí, người viết tiến hành
khảo sát thực tế trên 500 người, sinh sống ở các vùng khác nhau để so sánh đối chiếu
xem các phương thức đó được sử dụng và tri nhận như thế nào ở thời điểm thực hiện
đề tài. Các vùng được khảo sát là: Hà Nội, Đà Nẵng, Buôn Mê Thuột, Thành phố Hồ
7
Chí Minh và xã Cư Yang – Huyện Eakar – Tỉnh Đắc Lắc. Người viết khảo sát ở các
vùng này vì những lí do sau:
- Người viết có đủ điều kiện về người và vật chất để tiến hành khảo sát ở những
nơi này.
- Người viết khảo sát chủ yếu ở các thành phố lớn, rải đều khắp cả nước để đảm
bảo số liệu có tính khái qt cao và cập nhật nhất những uyển ngữ đã và đang được sử
dụng. Ngồi ra, người viết có tiến hành khảo sát ở một vùng nông thôn, xa trung tâm
là xã Cư Yang – Huyện Eakar – Tỉnh Đắc Lắc để lấy số liệu so sánh việc tri nhận và
sử dụng uyển ngữ giữa các vùng miền với nhau và với cả nước có thống nhất hay
khơng. Người viết chọn xã này với lí do thứ nhất đã nêu ở trên.
Các bước thực hiện đề tài
Bước 1: Thu thập dữ liệu sơ cấp từ báo chí và một số tác phẩm văn học
Uyển ngữ của một cộng đồng ngôn ngữ như tiếng Việt là rất nhiều, trong một
thời gian ngắn để thu thập đầy đủ hết tất cả các uyển ngữ của tất cả các đề tài là điều
khó có thể thực hiện được. Bởi vậy, trước khi thu thập dữ liệu sơ cấp, người viết tiến
hành lựa chọn có giới hạn một số chủ đề, ứng với các ý niệm, để tiến hành khảo sát.
Để lựa chọn chủ đề, người viết đã tham khảo hai cuốn từ điển uyển ngữ của John Ayto
[3] và Judith và Carole [16] là Bloomsbury Dictionary of Euphemisms và Kind words –
A Thesaurus of Euphemisms. Các cuốn sách này sắp xếp uyển ngữ theo các đề tài khác
nhau. Cuốn Kind words phân loại như sau:
(1) Các bộ phận cơ thể là vùng cấm, trong đó bao gồm: trạng thái trần truồng,
ngực, hậu môn, cơ quan sinh dục (nam và nữ);
(2) Các bộ phận cơ thể là vùng trung hòa, bao gồm: đầu, bụng, não, nội tạng, đầu
gối, niệu đạo;
(3) Chất tiết, bài tiết và vệ sinh;
(4) Tội lỗi;
(5) Cái chết;
(6) Tôi phạm và trừng phạt;
(7) Tính dục, bao gồm: tính dục khác giới, tính dục đồng giới, các tư thế, cơng
nghệ tính dục và sản phẩm của tính dục;
8
(8) Ngơn ngữ của chính phủ;
(9) Chiến tranh.
Cịn cuốn Bloomsbury Dictionary of Euphemisms thì phân loại uyển ngữ thành 13 chủ
đề, bao gồm:
(1) Tội phạm;
(2) Các loại tội lỗi và hành vi phạm tơi khơng bị truy tố;
(3) Tính dục bao gồm: dạo đầu và kết thúc, tư thế, thủ dâm, biện pháp tránh thai,
mang thai, con hoang, gái mại dâm, nhà thổ, đồng tính luyến ái, lưỡng tính, bạn tình;
(4) Cơ thể và các phần của cơ thể, bao gồm: cơ quan sinh dục (nam và nữ),
mơng, ngực, hói, sự xấu đi, mập;
(5) Che phủ, bao gồm quần áo và sự trần truồng;
(6) Chức năng cơ thể và sự bài tiết;
(7) Bệnh và cơn đau;
(8) Tuổi già và cái chết;
(9) Việc làm, bao gồm: nghề, thị trường, cớ, sa thải, thất nghiệp, phá sản, cơng
đồn, tiền, hối lộ, thuế;
(10) Nghèo;
(11) Chính phủ và chính sách;
(12) Chiến tranh;
(13) Cuộc đua.
Nhìn chung, các tài liệu này có một sự thống nhất trong cách phân chia chủ đề,
khác nhau chủ yếu là ở việc chia các chủ đề này thành những loại nhỏ hơn. Dựa vào
các chủ đề sử dụng uyển ngữ phổ biến như trên, người viết chọn lọc các chủ đề như
dưới đây và theo đó thực hiện thu thập uyển ngữ theo chủ đề. (Xem phụ lục).
(1)
Các bộ phận cơ thể
(2)
Sự bài tiết
(3)
Cái chết
(4)
Tình u
(5)
Hơn nhân
(6)
Tính dục
9
(7)
Bệnh tật
(8)
Sinh sản
(9)
Cơng việc
(10)
Tiền bạc
(11)
Tội lỗi
(12)
Chiến tranh
(13)
Phê bình
Sau khi có được danh sách các chủ đề phổ biến của uyển ngữ, người viết tiếp cận
các nguồn báo chí và tác phẩm văn học khác nhau, đọc và chọn lọc các ngữ liệu phù
hợp với các chủ đề trên. Quá trình thu thập ngữ liệu này kéo dài trong khoảng thời
gian sáu tháng tính từ thời gian bảo vệ đề cương. Dữ liệu sơ cấp thu được từ báo chí và
một số tác phẩm văn học được phân loại và lưu trữ dưới dạng file .exe để làm cơ sở
lập bảng hỏi và cho các phân tích sâu hơn. Kết quả và sự phân chia nhỏ hơn trong mỗi
chủ đề sẽ được trình bày trong Chương II – Kết quả nghiên cứu. Hơn nữa, để tiện đối
chiếu và so sánh, người viết tiến hành phân loại hơn 500 ngữ liệu này theo các phương
thức uyển ngữ khác nhau và chọn lọc các ngữ liệu để làm cơ sở lập bảng hỏi.
Bước 2: Lập bảng hỏi và tiến hành khảo sát thực tế
Từ dữ liệu sơ cấp, người viết tiến hành lập bảng hỏi và tiến hành khảo sát thực tế.
Dựa trên số lượng uyển ngữ của mỗi chủ đề, người viết chỉ khảo sát thực tế từ ngữ
uyển ngữ của năm chủ đề chính – là năm chủ đề có số lượng ngữ liệu đầy đủ hơn cả –
bao gồm:
(1) Các bộ phận cơ thể
(2) Sự bài tiết
(3) Tính dục
(4) Cái chết
(5) Cơng việc
Ngồi 5 chủ đề chính này, người viết có khảo sát một số ít ngữ liệu có liên quan đến
cơng việc của chủ đề Phê bình và Tiền bạc.
Mục đích chính của luận văn là kiểm tra xem ý niệm nào thường xuất hiện uyển
ngữ, ý niệm đó có liên quan như thế nào đến chủ đề cấm kị và uyển ngữ nào là điển
10
hình cho ý niệm đó. Đồng thời luận văn cũng kiểm tra các phương thức uyển ngữ nào
là phương thức chủ yếu để truyền đạt các ý niệm. Uyển ngữ tiêu biểu cho ý niệm đó
thể hiện sự ý niệm hóa như thế nào trong cách tri nhận của người Việt. Do đó, người
viết chia bảng hỏi làm hai phần, phần thứ nhất là khảo sát xem thử trong mười một chủ
đề được lựa chọn để xây dựng dữ liệu sơ cấp những cái nào là chủ đề cấm kị. Đồng
thời kiểm tra xem năm đề tài được lựa chọn để khảo sát thực tế có ứng với chủ đề cấm
kị hay không. Phần thứ hai là khảo sát cách sử dụng các uyển ngữ của năm chủ đề trên
và tìm hiểu những yếu tố tri nhận ẩn đằng sau cách sử dụng đó.
Trước khi xây dựng bảng hỏi, người viết có tham khảo câu hỏi trong bảng hỏi về
chủ đề Chức năng cơ thể, Tính dục và Các phần cơ thể bị cấm trong cuốn Euphemism
and Dyphemism – Language used as shield and weapon [2, tr 69]. Câu hỏi này được
xây dựng gồm các phần như sau:
(1) Câu hỏi (Người làm phiếu khảo sát sẽ đánh giá ngữ liệu hoặc đối tượng của một đề
tài uyển ngữ theo các mức độ khác nhau);
(2) Chú thích (nếu có);
(3) Hướng dẫn trả lời;
(4) Bảng ngữ liệu
Ngữ liệu 1
Mức độ 1
Mức độ 2
Mức độ 3
Ngữ liệu 2
Mức độ 1
Mức độ 2
Mức độ 3
Ngữ liệu 3
Mức độ 1
Mức độ 2
Mức độ 3
v.v
Mức độ 1
Mức độ 2
Mức độ 3
Nhận thấy cấu trúc câu hỏi như trên phù hợp với đề tài luận văn này nên người viết sử
dụng hình thức câu hỏi này cho hầu hết các câu hỏi trong bảng hỏi của mình.
Để xây dựng bảng hỏi, người viết sử dụng công cụ biểu mẫu của Google, bao
gồm 24 câu hỏi, dưới các dạng câu hỏi là: câu hỏi nhiều lựa chọn, câu hỏi lưới, câu hỏi
hộp kiểm và câu hỏi văn bản. Để kiểm tra được nhiều ngữ liệu nhất có thể nên dạng
câu hỏi chủ yếu được người viết sử dụng là câu hỏi lưới kết hợp, dùng thang đo Likert
để đánh giá các mức độ khác nhau của ngữ liệu đưa ra. Thang đo được dùng ở đây là
11
thang đo 4 với các giá trị cực cấp là: “thoải mái nhất”, “thường dùng nhất”, “hạn chế
nhất”, “ghê sợ nhất” và “phù hợp nhất”.
Chẳng hạn như:
Anh/chị sợ nhất điều gì khi nói về cái chết trong những nỗi sợ dưới đây?
Dùng thang đo từ 1 đến 4. 1 cho Không sợ, 2 cho Hơi sợ, 3 cho Sợ và 4 cho rất Sợ.
1
2
3
4
Sợ mất đi những người thân yêu
Sợ cơ thể sẽ mục nát và bị phân hủy sau khi chết
Sợ những gì diễn ra sau khi chết
Sợ ma và linh hồn người đã khuất
Ngoài các đề tài và từ ngữ uyển ngữ, người viết cũng cân nhắc đến các yếu tố
khác có liên quan đến việc phân tích dữ liệu như: giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, nơi
sinh sống, các bối cảnh giao tiếp, v.v. Do vậy, ngoài các câu hỏi về ngữ liệu, bảng hỏi
cũng bao gồm các câu hỏi về các yếu tố trên, với tỉ lệ là 8/24 câu hỏi.
Về câu hỏi độ tuổi, người viết tham khảo độ tuổi được phân chia ở bảng hỏi của
Allan và Burridge như đã nêu trên, bao gồm: 18 – 25; 25 – 45; Trên 45. Các độ tuổi
này đều ổn định về ngơn ngữ nhưng có sự khác nhau về đặc điểm tâm sinh lí, xã hội
do đó có thể có sự khác nhau trong cách sử dụng uyển ngữ và đặc điểm tri nhận ẩn
đằng sau uyển ngữ. Bên cạnh đó, yếu tố về nghề nghiệp, nơi sinh sống, bối cảnh giao
tiếp cũng có tác động đến sự lựa chọn uyển ngữ, quan điểm về uyển ngữ do đó sẽ có
những đặc điểm uyển ngữ sẽ khơng thấy được nếu chỉ phân tích dựa trên ngữ liệu sơ
cấp mà người viết đã thu thập được. Việc khảo sát các yếu tố này sẽ giúp ích rất nhiều
trong việc xác định các mối liên hệ của xã hội, văn hóa với uyển ngữ. Vì giới hạn dung
lượng luận văn, người viết không đưa ra đây bảng hỏi hoàn chỉnh mà để bảng hỏi vào
phần Phụ lục cùng với những kết quả phân tích sâu hơn.
Sau khi hồn thành bảng hỏi, người viết tiến hành khảo sát thực tế và xử lí số
liệu. Các phiếu khảo sát được in ra và đưa ngẫu nhiên cho các đối tượng khác nhau
trong giới hạn đề tài. Các phiếu thu về được phân loại và chọn lọc các phiếu đủ chất
lượng để nhập liệu. Các phiếu chưa đạt chuẩn như làm thiếu câu hỏi, chọn mà không
12
đọc câu hỏi, v.v. được khảo sát lại. Vì bảng hỏi khá dài, với nhiều ngữ liệu nên người
viết mất khá nhiều thời gian để thực hiện khảo sát.
Bước 3: Xử lí dữ liệu
Khi kết thúc khảo sát bằng bảng hỏi người viết nhập các phiếu điều tra này vào
google biểu mẫu, các câu trả lời sẽ được lưu lại trong bảng tính Excel. Dựa vào cơng
cụ goolge biểu mẫu, người viết có được các kết quả thống kê cơ bản của từng địa
phương được khảo sát là Ban Mê Thuột, Cư Yang, Đà Nẵng, Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh. Để có được số liệu của cả nước, người viết gộp các câu trả lời của từng
vùng vào một file và dùng các hàm thống kê của Excel để xử lí số liệu và vẽ biểu đồ.
Các hàm được người viết sử dụng bao gồm: Filter, Count và Countif (đếm và
đếm theo điều kiện), Sum (tổng). Đồng thời dựa vào Pivot table người viết kết hợp các
hàm này với nhau để thống kê số liệu một cách chính xác và nhanh nhất. Ngồi ra với
các câu hỏi dùng thang đo Likert trong phiếu khảo sát, người viết tiến hành tìm giá trị
trung bình ý nghĩa của chúng bằng công thức như sau:
Giả sử người viết dùng thang đo Likert với bậc thang điểm là 4. Khi đó:
Giá trị khoảng cách = (Maximum – Minimum)/n = (4-1)/4 = 0.75
Với: Maximum là thang điểm cao nhất, Minimum là thang điểm thấp nhất; n là
bậc thang điểm của câu hỏi. Khi đó ta có ý nghĩa các mức là như sau:
1 – 1.75: Không ghê; thoải mái; không sợ; v.v.
1.76 – 2.50: Hơi ghê; hơi hạn chế; hơi sợ; v.v.
2.51 – 3.25: Ghê; hạn chế; sợ; v.v.
3.26 – 4: Rất ghê; khơng bao giờ nói; rất sợ; v.v.
Để biết được ý niệm hoặc từ ngữ được khảo sát thuộc mức độ nào, người viết
tính giá trị trung bình ý nghĩa của từ ngữ đó, dựa vào điểm mà người làm khảo sát đã
cho bằng cơng thức: [Tổng điểm/mẫu], sau đó lấy giá trị này so sánh với các mức ý
nghĩa ở trên.
Ví dụ: Với đối tượng là “Hơi ợ”, nó có tổng điểm là 873 điểm trên 500 mẫu
phiếu của cả nước. Như vậy:
13
Giá trị trung bình ý nghĩa = 873/500 = 1.76. So sánh với các mức ý nghĩa ở
trên, “Hơi ợ” có giá trị là “hơi ghê”. Tương tự với các từ ngữ khác trong phiếu khảo
sát.
Sau khi có kết quả thống kê, người viết kết hợp kết quả này với phương pháp
miêu tả, phân tích, tổng hợp để viết các chương II và III – là những kết luận và lí giải
sâu hơn về kết quả nghiên cứu.
5. Bố cục luận văn
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
Chương này tập hợp các lí luận làm nền tảng để thực hiện luận văn. Người viết
tập trung đi sâu làm rõ về khái niệm, chức năng của uyển ngữ và các phương thức tạo
uyển ngữ . Đồng thời, người viết đặt uyển ngữ bên cạnh thơ ngữ để làm rõ những tính
chất và đặc điểm của uyển ngữ. Thêm nữa, người viết cũng tổng hợp những lí thuyết
nền tảng của ngơn ngữ học tri nhận làm cơ sở cho những nghiên cứu sâu hơn về uyển
ngữ.
Chương 2. YẾU TỐ CẤM KỊ VÀ CÁC Ý NIỆM
Đây là một trong hai chương trọng tâm của luận văn. Chương này sẽ tập trung
vào việc đưa ra các số liệu đã được xử lí liên quan đến các đề tài của uyển ngữ; các
yếu tố cấm kị của các ý niệm uyển ngữ. Từ số liệu đã xử lí, người viết đưa ra các bàn
luận sâu hơn về ý niệm cấm kị và bức tranh ngôn ngữ về thế giới của người Việt.
Chương 3. TỪ NGỮ UYỂN NGỮ VÀ CÁC MƠ HÌNH TRI NHẬN
Chương này người viết trình bày các kết quả nghiên cứu có liên quan đến từ ngữ
được sử dụng làm uyển ngữ và những đặc điểm trong cách sử dụng đó. Đồng thời
người viết cũng khảo sát các mối liên hệ giữa từ ngữ và ý niệm thông qua các mức độ
liên hệ và mức độ thường dùng. Kết quả của các phương thức uyển ngữ cũng được nêu
ra trong chương này. Những kết quả về từ ngữ uyển ngữ được phân tích và bàn luận
thơng qua các mơ hình tri nhận mà người viết khái quát được.
14
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm uyển ngữ
1.1.1. Định nghĩa
Uyển ngữ (euphemism) là một hiện tượng ngôn ngữ phổ quát, dễ quan sát
nhưng để đưa ra một định nghĩa khái quát về uyển ngữ lại không đơn giản vì tính chất
đa dạng của nó. Uyển ngữ được xem xét từ nhiều góc độ khác của ngơn ngữ như từ
vựng, phong cách, ngữ dụng nên định nghĩa về uyển ngữ nhìn chung cũng khơng hồn
tồn thống nhất.
Xem xét uyển ngữ ở cấp độ từ vựng, Judith và Carole [16, tr 11], tác giả của
cuốn Kind words – A Thesaurus of Euphemisms (Những từ tử tế - Một kho tàng của
Uyển ngữ) cho rằng “Việc diễn đạt bằng uyển ngữ (…) là việc thay thế một từ vô
thưởng vô phạt, dễ chịu, cho một từ thẳng thắn, có tính xúc phạm, và bằng cách đó, nó
là việc che phủ sự thật bằng việc sử dụng những từ lịch sự.
Tác giả Ralph [27, tr 7-8] trong cuốn Our Love Affair with Euphemisms đã bổ
sung về nguồn gốc của từ Euphemism trong tiếng Hy Lạp. Eupheme là bảo mẫu thần
Muse của người Hy Lạp cổ đại. Tên của bà nghĩa đen là “lời nói tốt đẹp) (eu = good;
pheme = speaking). Đây là gốc rễ của “uyển ngữ” (euphemism) ngày nay. Tác giả này
coi uyển ngữ là “từ hoặc cụm từ thay thế cho những cái khiến chúng ta cảm thấy
không dễ dàng để nói”. Về mặt kĩ thuật, uyển ngữ là một dạng của đồng nghĩa. Như
vậy, tác giả xác định về mặt ngữ pháp uyển ngữ có tư cách của từ và cụm từ, giữa biểu
thức gốc và biểu thức thay thế có mối quan hệ đồng nghĩa.
Theo tác giả của Fair of Speech – the Use of Euphemism (Lời nói tốt đẹp – Sự
sử dụng uyển ngữ) từ “Euphemism” được ghi lại lần đầu tiên trong tiếng Anh ở cuốn
Glossographia của Thomas Blount (1656). Nó được định nghĩa là “sự giải thích tốt đẹp
và t
ạo thi
“s
ửd
chợ) của từ ngữ”. Một cách tích cực, việc dùng uyển ngữ là việc dùng từ của điềm tốt;
một cách tiêu cực, uyển ngữ là việc tránh sử dụng những từ xui rủi [5, tr 2].
15
Các cuốn từ điển tiếng Anh của Oxford và Cambridge cũng chung quan điểm
này. Cambridge English Dictionary (Từ điển tiếng Anh của Cambridge) [47] định
nghĩa uyển ngữ là “Một từ hoặc cụm từ được dùng để tránh việc nói đến một từ thơ lỗ
và gây khó chịu”. Cịn Oxford Advanced Learner’s Dictionary (Từ điển dành cho
người học tiếng Anh nâng cao Oxford) [48] định nghĩa uyển ngữ là “Một từ hoặc cụm
từ gián tiếp mà mọi người thường dùng để chỉ đến điều nào đó gây xấu hổ hoặc khơng
thoải mái, đơi khi khiến điều đó dễ chấp nhận hơn”.
Một nghiên cứu chuyên sâu và bao quát về uyển ngữ là cơng trình Euphemism
and Dysphemism: Language Used as Shield and Weapon (Uyển ngữ và Thô ngữ:
Ngôn ngữ được sử dụng như tấm khiên và vũ khí) của Allan và Burridge [2]. Đây là
cơng trình tiếp cận uyển ngữ từ góc độ ngữ dụng. Hai ông định nghĩa: “Uyển ngữ
được sử dụng để thay thế cho biểu thức không được ưa thích nhằm tránh khả năng mất
thể diện: hoặc là của người nói, hoặc của người nghe vì bị xúc phạm, hoặc của người
thứ ba nào đó” [2, tr 11]. Cùng chung góc độ tiếp cận ngữ dụng, John Ayto [3, tr 1]
trong cuốn Dictionary of Euphemisms (Từ điển uyển ngữ) coi uyển ngữ là “một tập
hợp các chiến lược giao tiếp mà chúng ta tạo ra để đề cập đến một đề tài cấm kị, mà
không thực sự đụng chạm đến các từ ngữ trong đề tài đó”.
Có một số cơng trình của các nhà Việt ngữ học coi uyển ngữ thuộc về địa hạt
phong cách học với cách định nghĩa uyển ngữ như là một biện pháp tu từ. Có thể kể
đến định nghĩa uyển ngữ trong Từ điển tiếng Việt của Hồng Phê [35: 1346], theo đó
uyển ngữ là “phương thức nói giảm nhẹ, thay cho lối nói có thể bị coi là sỗ sàng dễ
làm xúc phạm, làm khó chịu”. Tác giả Đinh Trọng Lạc trong cuốn 99 biện pháp và
phương tiện tu từ [32: 71] xếp uyển ngữ vào nhóm các phương tiện tu từ ngữ nghĩa và
cho rằng “Uyển ngữ thuộc nhóm hốn dụ, là hình ảnh tu từ trong đó người ta thay tên
một đối tượng (hoặc một hiện tượng) bằng sự miêu tả những dấu hiệu cơ bản của nó,
hoặc bằng việc nêu lên những nét đặc biệt của nó”.
Có một số tác giả gọi tên uyển ngữ là khinh từ, khinh ngữ, nhã ngữ, nói giảm,
nói tránh, nói vịng… Tuy nhiên, cùng một hiện tượng nhưng rõ ràng các tên gọi này
không cùng một góc nhìn. Thuật ngữ nói vịng đề cập đến q trình tạo ra uyển ngữ,
cịn các tên gọi khác thì chú trọng đến kết quả đạt được của uyển ngữ. Người viết nêu
16
ra ở đây một số định nghĩa tiêu biểu của uyển ngữ dưới các tên gọi khác nhau. Trước
hết là nhã ngữ, theo tác giả Đinh Trọng Lạc [32, tr 71] thì đó là: một biến thể của uyển
ngữ, trong đó những từ ngữ nhã nhặn, lịch sự được dùng để thay thế những từ ngữ thơ
lỗ, khó nghe, khơng đúng mực. Về tên gọi “nói giảm”, theo Đinh Trọng Lạc [32] nói
giảm là phương tiện tu từ làm giảm nhẹ, làm yếu đi một đặc trưng tích cực nào đó của
đối tượng được nói đến. Với tên gọi “nói vịng”, có tồn tại một số quan điểm khác
nhau. Từ điển Giải thích thuật ngữ ngơn ngữ học [41: 28] định nghĩa cách nói vịng là:
“Lối diễn đạt khơng đi thẳng vào ý chính định nói mà dùng cách nói qua những điều
khác”. Với định nghĩa này thì lối nói vòng khi được sử dụng trong trường hợp cần
tránh điều cấm kị hoặc tế nhị thì nó là uyển ngữ. Tương tự, tác giả Nguyễn Đăng
Khánh [38] cho rằng lối nói vịng (curcumlocution) là cách thức nói ra điều này nhưng
nhằm làm cho người tiếp nhận hiểu ra điều khác thông qua sự chủ động dẫn dắt của
chủ thể, lối nói vịng khác với nói vịng về cấp độ: nói vịng - ngữ và lối nói vịng diễn ngơn. Từ đó, tác giả nhận xét “nói giảm, uyển ngữ, nhã ngữ” cũng có đặc tính của
lối nói vịng.
Như vậy, dù đứng ở góc độ nào thì mục đích tránh điều cấm kị, giảm sự thô tục,
đảm bảo lịch sự của uyển ngữ đều ít nhiều được đề cập đến trong các định nghĩa này.
Người viết cho rằng uyển ngữ không chỉ là vấn đề của phong cách học mà nó còn là
vấn đề của ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng và sâu hơn nữa là vấn đề của tri nhận.
Bởi vậy trong cơng trình này, người viết khơng chỉ đề cập đến một mặt của uyển ngữ
mà sẽ nghiên cứu uyển ngữ ở các góc độ khác nhau để tìm ra đặc điểm tri nhận của
người Việt thơng qua uyển ngữ.
Từ các định nghĩa và các phân tích trên đây, người viết chấp nhận tương đối
định nghĩa của Allan và Buridge [2, tr 11]: “Uyển ngữ được sử dụng để thay thế cho
biểu thức khơng được ưa thích nhằm tránh khả năng mất thể diện: hoặc là của người
nói, hoặc của người nghe vì bị xúc phạm, hoặc của người thứ ba nào đó”. Ngơn ngữ
tránh né và biểu thức gián tiếp là đặc trưng của uyển ngữ; người nói sử dụng từ ngữ
như là một “chiếc khiên” bảo vệ mình khỏi cơn giận hoặc sự phản đối của người khác
hoặc của thế lực siêu nhiên. Nếu đây là cách hiểu có phần tiêu cực thì có một cách
diễn tả khác: uyển ngữ là biểu thức giúp tránh bị mất lòng.
17
1.1.2. Chức năng
Uyển ngữ liên quan mật thiết đến điều cấm kị và chức năng trước hết của nó là
để tránh phải dùng những từ ngữ cấm kị. Theo tín ngưỡng dân gian, cái chúng ta gọi là
“biểu thức không được ưa thích” thường biểu thị những chủ đề bị cấm, do đó có thể
gọi nó là “từ ngữ cấm kị”. Trong tiếng Anh, khái niệm ban đầu của taboo “cấm kị” (từ
taboo được mượn từ Tongan, một ngôn ngữ của người Austronenian) có nghĩa là hành
vi bị cấm. Những hành vi này bị cấm là bởi người ta cho rằng chúng gây nguy hiểm
nhất định cho những cá nhân, hoặc cho tồn bộ xã hội. Người nào đó nếu xúc phạm
điều cấm kị thì khơng chỉ người đó mà cả người thân và bạn bè của người đó sẽ gặp
hạn. Tuy nhiên nhiều từ cấm kị ít được dùng là vì người ta coi việc sử dụng những từ
này sẽ gây phản cảm trong một bối cảnh xã hội nhất định. Chúng khơng được ưa dùng
khơng phải chỉ vì người ta sợ gặp hạn mà cịn vì người nói có thể bị mất mặt do khiến
cho người nghe cảm thấy bị xúc phạm. Một số người cảm thấy nói ra từ cấm kị sẽ xúc
phạm chính bản thân họ vì sự ghê tởm và khó chịu của chính từ ngữ đó. Hock chỉ ra
“sự cải biến có tính cấm kị” của các dạng thức ngữ âm gọi tên bộ phận cơ thể trong
lịch sử của ngôn ngữ Ấn – Âu rõ ràng là xuất phát từ sự mê tín, và một số trường hợp
khác là từ việc xúc phạm người khác [26, tr 12].
Tuy nhiên, có lúc, người nói dùng uyển ngữ để thay thế cho những biểu thức
mà họ chỉ đơn giản là khơng thích sử dụng trong một ngữ cảnh hoặc một loạt các ngữ
cảnh nhất định, tương ứng với một ý định giao tiếp cụ thể, như là nói về thu nhập của
một người nào đó chẳng hạn. Chủ đề cấm kị thường là mùi cơ thể, chức năng cơ thể và
các phần cơ thể có liên quan và đây là những phạm trù có tính phổ quát. Song ngoài
những phạm trù này, mỗi cộng đồng ngơn ngữ có thể có những chủ đề cấm kị khác
nhau. Ở một số nước châu Á như Hồng Công, Singapore, hay Việt Nam nếu ai đó hỏi
“Lương của anh là bao nhiêu thế?” vẫn được cho là lịch sự và không cần phải tránh
trong giao tiếp, tuy nhiên câu hỏi này sẽ bị coi là bất lịch sự ở Anh hoặc Mỹ.
Ngồi ra, có những uyển ngữ khơng có đối tượng bị cấm trong thực tế, những
uyển ngữ này nâng cấp cho từ mà nó thay thế, ví dụ chênh lệch thu chi dương thay cho
“lãi”, chênh lệch thu chi âm thay cho “lỗ”. Hai uyển ngữ này thường được các ngân
hàng sử dụng khi cập nhật tình hình hoạt động trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế
18
hoặc trong các báo cáo tài chính để người nghe/đọc không liên tưởng những con số với
từ “lãi” hay “lỗ”, từ đó tránh được một số phản ứng tiêu cực từ khách hàng. Một số
uyển ngữ được sử dụng vì mục đích tăng thể diện, ví dụ như từ quan ngại thay cho “lo
lắng” thường được dùng trong ngoại giao hay các bản tin thời sự.
Mặc dù định nghĩa cho phép phân tích uyển ngữ như là sự ưa dùng biểu thức
này hơn biểu thức khác nhưng điều đó khơng có nghĩa là một từ ngữ nào đó sẽ ln
ln nhất thiết là không được ưa dùng trong khi cái khác là uyển ngữ. Rõ ràng “qua
đời” là một uyển ngữ trong khi “chết” là một từ không được ưa dùng. Nhưng khơng
phải lúc nào cũng vậy, sẽ khơng có ai nói “Mấy cây hoa đó đã qua đời”, mà người ta
chỉ nói “Mấy cây hoa đó đã chết”. Sự lựa chọn giữa những biểu thức đó tùy thuộc vào
bối cảnh và như vậy chức năng của uyển ngữ cũng phụ thuộc vào bối cảnh.
Tóm lại, uyển ngữ là những cái thay thế cho những biểu thức không được ưa
dùng và chúng được dùng để tránh khả năng bị mất thể diện. Biểu thức khơng được ưa
dùng có thể là điều cấm kị, điều đáng sợ, hoặc một số từ ngữ vì lí do nào đó có q
nhiều ý nghĩa tiêu cực mà người ta buộc phải dùng uyển ngữ để thể hiện một cách
khéo léo ý định giao tiếp của người nói trong một ngữ cảnh nhất định.
1.2.
Uyển ngữ và thô ngữ
1.2.1. Khái niệm thô ngữ
Uyển ngữ là những lựa chọn thay thế cho những biểu thức có quá nhiều nghĩa
tiêu cực nhằm thực hiện một cách khéo léo mục đích giao tiếp của người nói trong một
bối cảnh cụ thể. Thơ ngữ được sử dụng với lí do ngược lại với uyển ngữ và chúng tơi
định nghĩa nó như sau:
“Thô ngữ là một biểu thức với những ý nghĩa nhằm cơng kích hoặc là vật sở
chỉ, hoặc là người nghe, hoặc cả hai, và người ta dùng nó thay thế cho một biểu thức
uyển ngữ chỉ vì lí do cơng kích đó” [2, tr 26].
Thơ ngữ thường được sử dụng trong khi nói chuyện về đối thủ của ai đó, về
điều họ phản đối và họ mong là người đó sẽ bị xuống dốc, mạt vận. Do đó, chúng là
đặc trưng của bè phái và cũng là đặc trưng của bọn du cơn và băng đảng khi nói về đối
thủ. Thơ ngữ dùng để lăng nhục được tìm thấy trong tranh chấp cá nhân thông thường
và chúng thường là: (1) Sự so sánh người với thú vật thường được gán cho những hành