Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Tìm hiểu đoạn văn kết thúc truyện ngắn của nam cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 117 trang )

,( /


LỜI CAM ĐOẠN
Tơi xin cam đoạn đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ một cơng trình
nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu Hằng


Mục Lục
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TRUYỆN NGẮN VÀ ĐOẠN VĂN KẾT
THÚC TRUYỆN NGẮN .................................................................................................... 9
1.1. Những cơ sở lý thuyết về truyện ngắn ...................................................................... 9
1.1.1.

Khái niệm ........................................................................................................ 9

1.1.2.

Một vài đặc điểm của truyện ngắn: ............................................................... 11

1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN KẾT
THÚC TRUYỆN NGẮN ............................................................................................... 12
1.2.1. Khái niệm.......................................................................................................... 12
1.2.2.

Phân loại đoạn văn ........................................................................................ 18



1.2.3.

Đoạn văn kết thúc truyện ngắn: .................................................................... 28

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC ĐOẠN VĂN KẾT THÚC TRUYỆN NGẮN
CỦA NAM CAO ............................................................................................................... 34
2.1. CẤU TẠO ĐOẠN KẾT: ......................................................................................... 35
2.1.1.

Đồn kết có cấu tạo bình thường; ................................................................. 35

2.1.2.

Đoạn kết đặc biệt;.......................................................................................... 38

2.2. CÁC KIỂU CÂU TRONG ĐOẠN KẾT ................................................................ 42
2.2.1.

Các kiểu câu theo cấu tạo ngữ pháp: ............................................................. 42

2.2.2.

Các kiểu câu theo mục đích phát ngôn.......................................................... 47

2.3. CÁC KIỂU LỜI TRONG ĐOẠN KẾT .................................................................. 52
2.3.1. Đoạn lời người trần thuật. ................................................................................. 52
2.3.2.

Đoạn độc thoại nội tâm ................................................................................. 56


2.3.3.

Đoạn đối thoại ............................................................................................... 58

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG - NGỮ NGHĨA ĐOẠN KẾT TRUYỆN NGẮN
CỦA NAM CAO ............................................................................................................... 61
3.1. Nội dung phản ánh của đoạn kết ............................................................................. 61
3.1.1.

Đoạn kết thúc phản ánh sự vật, sự việc, hành động: ..................................... 61

3.1.2.

Đoạn kết phản ánh tâm trang, suy nghĩ, thái độ:........................................... 63

3.2. Các loại nghĩa được thể hiện trong đoạn kết........................................................... 66


3.2.1.

Nghĩa hiển ngôn; ........................................................................................... 66

3.2.2.

Nghĩa hàm ngôn ............................................................................................ 67

3.3. Các kiểu kết thúc ..................................................................................................... 70
3.3.1.


Kiểu đoạn kết thúc khép ................................................................................ 70

3.3.2.

Kiểu đoạn kết thúc mở .................................................................................. 71

3.4. Quan hệ giữa đoạn văn kết thúc với các yếu tố khác thuộc văn bản. ..................... 74
3.4.1.

Quan hệ giữa đoạn kết với tiêu đề văn bản. .................................................. 74

3.4.2.

Quan hệ giữa đoạn kết với đoạn mở đầu truyện; .......................................... 78

3.4.3.

Quan hê gtữa đoạn kết với chủ đề; ................................................................ 87

THƯ MỤC ......................................................................................................................... 94
PHỤ LỤC ........................................................................................................................ 100


1

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Văn bản Là một chỉnh thể phức tạp và thống nhất. Chính thể ấy được thể hiện rõ
qua ba bình diện; hình thức (ngữ âm, văn tự), cấu trúc (ngữ pháp), nội dung (ngữ nghĩa),
cấp độ ngữ pháp của nó tương đối ổn định và được tạo lập bởi các đơn vị bậc dưới (câu.

đoạn văn). Đoạn văn là đơn vị tồn tại thường xuyên và ổn định trong văn bản.
Đoạn văn với tư cách là đơn vị trực tiếp cấu thành văn bản, có mối quan hệ đa chiều
với các yếu tố khác trong văn bản và với độc giả, luôn hướng tới đích giao tiếp. Nó là
một tín hiệu, là tiểu chủ đề giúp người đọc xâu chuỗi lại để tìm ra chủ đề của văn bản. Vì
vậy, khi tìm hiểu, phân tích tác phẩm, đoạn văn trở thành đối tượng được nhiều người
quan tâm.
Đoạn văn ở những vị trí khác nhau nên vai trò, chức năng của chúng cũng khác
nhau. Dù có cấu tạo bình thường hay khơng bình thường, đoạn văn bao giờ cũng mang
trong mình một lượng thơng tin cần thiết làm nên tính hồn chỉnh của văn bản. Hay nói
cách khác, mỗi đoạn văn là một tiểu chủ đề cùng góp phần thể hiện chủ đề chung của văn
bản. Đoạn văn kết thúc có vai trị chức năng đóng khép văn bản và xét về mặt ngữ nghĩa,
đoạn văn bao chứa một nội dung thông tin quan trọng. Tùy theo kiểu loại văn bản, đoạn
văn kết thúc sẽ có tính đặc thù riêng, có một vị thế riêng trong mối quan hệ với toàn văn
bản.
Đối với văn bản phi nghệ thuật, đoạn văn kết thúc ít nhiều mang tính khn mẫu.
Cịn đối với văn bản nghệ thuật, đoạn văn kết thúc được thể hiện rất linh hoạt và mang
đậm dấu ấn sáng tạo cá tính của nhà văn.
Việc nghiên cứu đoạn văn kết thúc văn bản, cụ thể là đoạn văn kết thúc truyện ngắn
giúp ta hiểu sâu hơn bản chất của đơn vị ngôn ngữ này, đồng thời hiểu sâu hơn lối kết
thúc mà tác giả thường sử dụng trong truyện ngắn của mình. Đây cũng là cơ sở để lý giải
mối quan hệ đa chiều giữa đoạn văn kết thúc với toàn văn bản, với các yếu tố ngồi nó,


2

với độc giả. Nghiên cứu đoạn văn kết thúc cũng góp phần tích cực vào việc phân tích và
tạo lập văn bản trong nhà trường.
Trong khuôn khổ luận văn này, bằng việc khảo sát, phân tích và tổng hợp để rút ra
kết luận bước đầu về các mặt: hình thức, nội dung, kiểu kết, quan hệ, chúng tôi cố gắng
làm nổi bật đặc trưng của đoạn văn kết thúc tnyện ngắn của Nam Cao. Từ đó, sẽ có cái

nhìn sâu sắc hơn, chính xác hơn, tồn diện hơn về đơn vị ngôn ngữ này.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. Khái quát về tình hình nghiên cứu đoạn văn:
Đơn vị trực tiếp tham gia tạo lập văn bản nên đoạn văn có vai trị rất quan trọng
trong việc tìm hiểu, tiếp cận, phân tích văn bản. Nó được nhiều nhà ngơn ngữ học quan
tâm.
Trước hết có thể kể đến một số nhà nghiên cứu nước ngoài: N.S-Pospelop, Loseva,
L.Abulakhovskij, I.R.Galperin, O.I.Maskalskaja, L.G.Plman ... Trong những cơng trình
của mình, các tác giả đã đưa ra những kiến giải về hình thức cũng như cấu trúc đoạn, về
quan niệm đoạn văn so với chỉnh thể cú pháp trên câu (còn gọi là thể thống nhất cú pháp
...). Nhìn chung, các ý kiến cịn gây nhiều tranh cãi và chưa đi đến thống nhât.
Trong nước, từ những năm 80 của thế kỷ XX trở lại đây, vấn đề đoạn văn được
nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm:
Trần Ngọc Thêm trong bài Bàn về đoạn văn như một đơn vị ngơn ngữ (tạp chí
Ngơn ngữ, số 3-1984) đã đưa ra những luận chứng khẳng định đoạn văn là một đơn vị
ngôn ngữ. ông đưa ra ba tiêu chuẩn:
Thứ nhất, một đơn vị phải có khả năng khu biệt, tức là phải có một hình thức nhất
định với những ranh giới rõ ràng cho phép có thể nhận diện và sử dụng một cách dễ dàng.


3

Thứ hai, một đơn vị thì phải có sự thống nhất giữa hai mặt hình thức và nội dung
(Theo Saussure, khi xác định một đơn vị thì "những sự phân chia trên dòng âm thanh
phải tương ứng với những sự phân chia trên dòng khái niệm").
Thứ ba, một đơn vị ngơn ngữ phải có khả năng sản sinh và có tính biến thể trên
những mơ hình cấu trúc nhất định.
Như vậy, “Chỉ có chấp nhận đoạn văn là đơn vị mới thỏa mãn được tiêu chuẩn một.
Và chỉ có chấp nhận nó là đơn vị duy nhất mới có khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn hai
và ba ".

Quan điểm trên được ông khẳng định lại lần nữa trong công trình Ngữ pháp văn
bản và việc phân tích ngơn phẩm (2004). Trong cơng trình này, tác giả đưa ra vấn đề
chỉnh thể trên câu (Cockoe CHHxaKCH MecKoe Uejioe - chỉnh thể cú pháp phức hợp;
CeepxộpasoBoe E/IHHCTBO - thế thống nhất trên câu; Kommunikat...) và đoạn văn
(Aõsau =paragraph) và chỉ thừa nhận đoạn văn, không thừa nhận chỉnh thể trên câu. Tác
giả cịn khảo sát các vấn đề có liên quan đến đoạn văn như: đoạn văn - đơn vị ngôn ngữ
học giữa văn bản và phát ngơn, loại hình đoạn văn xét theo độ hoàn chỉnh cấu trúc, đoạn
văn xét theo độ phức tạp cấu trúc, đoạn văn xét theo độ hoàn chỉnh nội dung, tách văn
bản thành đoạn văn.
Nguyễn Trọng Báu-Nguyễn Quang Ninh-Trần Ngọc Thêm với cơng trình Ngữ
pháp văn bản và việc dạy làm văn (1985) cũng bàn rất nhiều về đoạn văn và chỉnh thể
trên câu. Các tác giả này cho rằng đoạn văn và chỉnh thể trên câu là những khái niệm
khác nhau. “Đoạn văn không phải là một đơn vị ngữ pháp câu thành văn bản kiểu như
chỉnh thể trên câu. Nó có thể trùng nhưng cũng có thể khơng trùng với chúng” [117,112].
Diệp Quang Ban với cơng trình Văn bản và liên kết văn bản trong tiếng Việt
(1998) đã thâu tóm một cách hệ thống những vấn đề về ngữ pháp văn bản. Trong đó, về
vấn đề đoạn văn đáng chú ý là cấu trúc đoạn, chia tách đoạn và liên kết trong đoạn văn và
giữa các đoạn văn.


4

Bên cạnh các cơng trình trên, nhiều tác giả cũng đề cập đơi nét đến vấn đề này trong
giáo trình ngơn ngữ học của mình như: Đinh Trọng Lạc, Bùi Minh Toán - Tiếng Việt, tập
2 (1995), Bùi Tất Tươm, Nguyễn Văn Bằng, Hồng Xn Tâm - Giáo trình cơ sở ngơn
ngữ học và tiếng Việt (1997)...
Nhìn chung, các nhà ngữ pháp, nhất là các nhà ngữ pháp văn bản đã quan tâm
nghiên cứu khá đầy đủ những biểu hiện về hình thức và nội dung của đoạn văn. Tuy giữa
các giải pháp có một số ý kiến chưa hồn tồn thống nhất nhưng có thể ghi nhận rằng
những tiền đề lý thuyết mà họ đưa ra có ý nghĩa rất lớn đối với ngôn ngữ học và giáo học

pháp.
2.2. Khái quát về tình hình nghiên cứu đoạn văn kết thúc văn bản nghệ thuật:
Vấn đề đoạn văn kết thúc văn bản nghệ thuật nói chung và đoạn văn kết thúc trun
ngắn nói riêng đã được một sơ người nghiên cứu đề cập đến.
Lê Thị Hường với bài viết Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hơm nay (Tạp chí
Văn học, số 4-1995) đã bàn đến các kiểu kết thúc có tính chất thường gặp trong truyện
ngắn hơm nay:
1. Kết thúc để ngỏ.
2. Kết thúc có nhiều đoạn kết.
3. Kết thúc đối nghịch,
4. Khơng có kết thúc.
Ở đây, tác giả đưa ra những dẫn chứng có sức thuyết phục về đoạn văn kết thúc với
tư cách là một yếu tố của cốt truyện. Quan niệm của tác giả là đoạn văn kết thúc trùng với
phần kết.


5

Còn tác giả Bùi Việt Thắng trong bài viết Nơi tác phẩm kết thúc là nơi cuộc sống
bắt đầu (Tạp chí Văn học, số 9-1998) đã đề cập đến vai trò của đoạn văn kết thúc. Tác
giả cũng chứng minh sự tồn tại của các kiểu kết thúc:
1. Kết thúc khép.
2. Kết thúc mở.
3. Kết thúc bất ngờ.
4. Khơng có kết thúc.
Ông viết: “Cách kết thúc nào trong truyện ngắn cũng đều nhằm tái hiện nghệ thuật
sự đa dạng vả phức tạp của cuộc sống. Điều quan trọng hơn cả là đằng sau mỗi cách kết
thúc tác phẩm, tác giả phải gieo vào lòng người đọc những dự cảm về tương lai, về cái
đẹp và khả năng thấu thị đời sống trong dịng chảy liên tục của nó".
Tìm hiểu đoạn văn kết thúc văn bản của một hoặc một số tác giả cụ thể, ta bắt gặp

tác giả Trần Anh Hào với bài viết Vai trò của đoạn mở, đoạn kết với tiếng cười trong
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan (Tạp chí Ngơn ngữ, số 8-1999). Bài viết này xét
cơ chế gây cười của đoạn mở, đoạn kết trong một số truyện ngắn trào phúng tiêu biểu của
Nguyễn Công Hoan trên hai quan hệ: hướng nội và hướng ngoại (đặt đoạn mở, đoạn kết
trong quan hệ với chính chúng với nhau, với tồn truyện). Tiếng cười đả kích, châm biếm
đó góp phần “lột mặt nạ”, “lộn trái” xã hội nhơ bẩn trước Cách mạng. Tiếng cười đó thể
hiện một phong cách trào phúng - Nguyễn Cơng Hoan.
Tác giả đã tìm hiểu, phân tích sâu sắc về vấn đề này là Tạ Mai Anh với cơng trình
Đặc điểm đoạn văn kết thúc truyện ngắn Vô Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị
Vàng Anh (2002). Cơng trình khoa học này đã làm nổi bật đặc trưng của đoạn văn kết
thúc, những kết quả nghiên cứu về hinh thức, nội dung, kiểu kết, quan hệ của đơn vị ngôn
ngữ này trong một số truyện ngắn hiện nay của lực lượng sáng tác nữ nêu trên.


6

2.3. Qua tình hình nghiên cứu đoạn văn kết thúc văn bản, chúng tôi thấy rằng
phương diện đước nhiều người quan tâm là đoạn văn kết thúc văn bản xét trong mối quan
hệ ngữ nghĩa với toàn bộ văn bản. Tình hình trên đặt ra vấn đề cần nghiên cứu đoạn văn
kết thúc một cách tồn diện hơn, đặt nó trong mối quan hệ đa chiều với các yếu tố khác
trong văn bản và với độc giả.
Những kết quả nghiên cứu trên về đoạn văn kết thúc văn bản là những gợi ý quan trọng
cho tơi trong q trình thực hiện đề tài của mình.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Thơng qua việc khảo cứu các đoạn văn kết thúc truyện ngắn, cụ thể là truyện ngắn
của Nam Cao, luận văn hướng tới những mục đích .sau :
- Khảo sát đoạn văn kết thúc truyện ngắn ở các mặt : cấu tạo, vai trò ngữ nghĩa,
quan hệ, kiểu kết ... để từ đó tìm ra những cứ liệu cụ thể làm sáng tỏ bản chất của đơn vị
này.
- Thống kê, phân loại, phân tích những chứng liệu, số liệu thu thập được và đi đến

những nhận xét tổng quát về đặc điểm đoạn văn kết thúc truyện ngắn của Nam Cao nói
riêng và đặc điểm đoạn văn kết thúc truyện ngắn nói chung (hình thức, nội dung, quan hệ,
các kiểu kết phổ biến)
- Tìm hiểu, nghiên cứu đoạn văn, đặc biệt là đoạn văn kết thúc, chúng tơi mong
muốn góp phần vào việc phân tích, bình giá văn bản nghệ thuật nói chung, nhất là văn
bản thuộc loại hình tự sự, đồng thời góp phần vào việc dạy và học mơn làm văn trong nhà
trường.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI KHẢO SÁT
- Luận văn lấy đối tượng khảo sát là đoạn văn kết thúc truyện ngắn và đặt đối tượng
này trong mối quan hệ với các yếu tố khác thuộc phạm trù nội dung và hình thức nghệ
thuật của văn bản. Vì truyện ngắn là một thể tài điển hình trong loại hình tự sự. Để tạo


7

lập nó, người viết phải cân nhắc kỹ lưỡng từng yếu tố nội dung cũng như từng yếu tố
nghệ thuật, đặc biệt là sự dồn nén nội dung thông tin trong số lượng trang nhất định nào
đó. Truyện ngắn khi viết ra phải làm sao để người tiếp nhận hiểu được ý định của người
viết, nắm được tinh thần chủ đạo, cơ bản của tác phẩm. Đoạn văn kết thúc cũng khơng
nằm ngồi sự lựa chọn cân nhắc đó. Đoạn văn kết thúc góp phần tạo dư âm cho văn bản
nghệ thuật trong lòng độc giả.
- Tư liệu khảo sát chính của luận văn lấy từ truyện ngắn của nhà văn Nam Cao. Ông
là một nhà văn nổi tiếng, một cây bút sắc sảo của trào lưu văn học hiện thực phê phán
1930 - 1945. “Trong các nhà văn hiện thực, ơng là cây bút có ý thức sâu sắc nhất về
quan điểm nghệ thuật của mình", xứng đáng "là một trong số những nhà văn lớn của nền
văn xuôi hiện đại Việt Nam Trần Đăng Xuyền, 6-1998]. Tác phẩm của ơng đã đem lại
nhiều thiện cảm trong lịng độc giả.
_ Ngồi ra, chúng tơi cũng lấy tư liệu ở một số nhà văn khác để làm cơ sở chứng
minh những khái niệm cơ bản.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tơi sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu sau :
• Phương pháp thống kê.
Việc nghiên cứu đặc điểm đoạn văn kết thúc buộc phải dùng phương pháp thống kê
để chỉ ra sự lặp đi lặp lại của việc sử dụng những phương tiện hình thức cũng như những
yếu tố nội dung, giúp cho việc khái qt các luận điểm có cơ sở hơn.
• Phương pháp phân tích tổng hợp.
Từ sự thống kê, ta tổng hợp các quan điểm, các nhận định, các hình thức thể hiện
của các các đoạn văn kết thúc ... để phân loại chúng một cách chi tiết hơn và đảm bảo
được tính khoa học.


8

• Phương pháp so sánh, đơi chiếu.
So sánh các đoạn văn kết thúc khác nhau của truyện ngắn Nam Cao để thấy được
cấu trúc hình thức biểu đạt và nội dung ngữ nghĩa của chúng.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Luận văn cố gắng góp phần làm rõ bản chất, đặc trưng của đoạn văn kết thúc
truyện ngắn nói riêng và đoạn văn kết thúc văn bản thuộc loại hình tự sự nói chung trên
cơ sở các ngữ liệu cụ thể, xác thực.
- Đồng thời, chứng minh sự đa dạng, phong phú của đoạn văn kết thúc văn bản nghệ
thuật, nhất là ở truyện ngắn, ở các mặt: hình thức biểu hiện và nội dung ngữ nghĩ với đối
tượng khảo sát cụ thể là truyện ngắn Nam Cao.
7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương :
Chương 1 : Những cơ sở lý thuyết về truyện ngắn và đoạn văn kết thúc truyện
ngắn.
Chưctng 2 : Đặc điểm hình thức đoạn văn kết thúc truyện ngắn của Nam Cao
Chương 3 : Đặc điểm nội dung -ngữ nghĩa đoạn văn kết thúc truyện ngắn của Nam Cao.



9

Chương 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TRUYỆN NGẮN VÀ ĐOẠN
VĂN KẾT THÚC TRUYỆN NGẮN
1.1. Những cơ sở lý thuyết về truyện ngắn
1.1.1. Khái niệm
Với hình thức tự sự “cỡ nhỏ”, truyện ngắn luôn bắt kịp tốc độ vận động của đời
sống xã hội, thể hiện được mọi khía cạnh của đời sống, mọi tâm tư tình cảm của con
người trong một khoảng không gian, thời gian nhất định. Nội đung thể loại truyện ngắn
có thể rất khác nhau: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Nó có
thể kể về cả cuộc đời hay một đoạn đời, một sự kiện hay một “chốc lát” trong cuộc .sống
nhân vật, nhưng cái chính của truyện ngắn không phải ở hệ thống sự kiện mà là ở cái
nhìn tự sự đối với cuộc đời. Có thể nói, truyện ngắn có rất nhiều ưu thế trong xã hội hiện
đại như Bê linxki đã viết: "Nếu có những tư tưởng của thời đại thì cũng có những hình
thức của thời đại". Và truyện ngắn chính là hình thức của thời đại, là một kiểu tư duy khá
mới.
Chính vì truyện ngắn thu hút nhiều đối tượng quan tâm nên nó có nhiều cách nghĩ,
cách cảm, nhiều quan niệm khác nhau.
Đối với các nhà văn thì truyện ngắn được hiểu như sau:
K. Pautôpxki nhận xét; "Thực chất truyện ngắn là gì? Tơi nghĩ rằng truyện ngắn là
một truyện viết ngắn gọn, trong đó cái gì khơng hình thường hiện ra như một cài gì bình
thường, và cái gì hình thường hiện ra như một cái gì khơng hình thường". Như vậy,
Pautôpxki chỉ cho chúng ta thấy dung lượng của truyện ngắn là ngắn gọn, cái bình
thường và cái khơng bình thường ln đan xen nhau như hai mặt của cuộc đời. Và chính
chúng làm ra giá trị thực sự của tác phẩm, thu hút sự quan tâm của độc giả.
Đứng ở góc độ của người nghiên cứu và tiếp nhận, các nhà biên soạn từ điển đã giải
thích, nêu khái niệm về truyện ngắn như sau:
Từ điển văn học (tập 2 - Nxb KHXH, Hà Nội, 1984, tr.457) mục truyện ngắn:



10

"Hình thức tự sự loại nhỏ. Truyện ngắn khác với truyện vừa ở dung lượng nhỏ hơn,
tập trung mô tả một mảnh của cuộc sống: một biến cố hay một vài hiển cố xảy ra trong
một giai đoạn nào đó của đời sống nhân vật, thế hiện một khía cạnh nào đó của vấn đề
xã hội.
Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một không gian và thời gian hạn
chế. Kết cấu của truyện ngắn cũng không chia thành nhiều tuyến phức tạp. Truyện ngắn
được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ, nên đặc điểm nổi bật của
truyện ngắn là tính ngắn gọn. Để nổi bật tư tưởng chủ đề, khắc họa sắc nét tính cách
nhân vật, địi hỏi nhà văn viết truyện ngắn phải có trình độ điêu luyện, biết mạnh dạn gọt
tỉa và dồn nén. Do đó, trong khn khổ ngắn gọn, những truyện ngắn thành cơng có thể
biểu hiện được những vấn đề xã hội có tầm khái quát rộng lớn”
Từ điển thuật ngữ văn học (Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1988), mục truyện
ngắn:
“ Tác phẩm tự sự cờ nhỏ. Nội dung thể loại của truyện ngắn hao trùm hầu hết các
phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, những cái độc đáo của nó là ngắn.
Truyện ngắn được viếi ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ.
...Truyện ngắn hiện đại là một kiểu tư duy mới, một cách nhìn cuộc đời, một cách
nắm hắt đời sống rất riêng mang tính chất thể loại.
Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một không gian, thời gian hạn
chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra một điều gì đó sáu sắc về cuộc đời và tình
người. Kết cấu của truyện ngắn thường không chia thành nhiều tầng, nhiều tuyến mà
thường được xây dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc liên tưởng. Bút pháp trần thuật
của truyện ngắn là chấm phá.
...Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cơ đặc, có dung
lượng lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói
hết”.



11

Các nhà Lý luận văn học Trần Đình sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam cũng
đồng quan niệm với các nhà từ điển thuật ngữ văn học.
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội,
1992, tr 1034), mục truyện ngắn:
"Truyện bằng văn xi có dung lượng nhỏ, số trang ít, miêu tả một khía cạnh tính
cách, một mẩu trong cuộc đời của nhân vật".

1.1.2. Một vài đặc điểm của truyện ngắn:
Từ những ý kiến trên, ta rút ra được một vài đặc điểm chính về truyện ngắn như
sau:
Về dung lượng, truyện ngắn thuộc loại tự sự cỡ nhỏ. Nhỏ ở đây đồng nghĩa với
ngắn gọn, súc tích, tinh lọc. Truyện ngắn là hình thức ngắn của tự sự, tái hiện cuộc sống
trong một dung lượng nhất định mà nhiều người gọi là “khiêm tốn” - “cỡ nhỏ”. Nhưng
''Hình thức nhỏ khơng có nghĩa là nội dung khơng lớn lao" (L.Tơnxtơi). Có khi chỉ trong
một lượng ít trang giây mà hiện lên cả cuộc đời, tạo được một khơng khí trong một giai
đoạn lịch sử.
Về nội dung, truyện ngắn thể hiện hầu hết mọi phương diện của đời sống, nhưng nó
thường chỉ tập trung vào một mặt nào đó của đời sống, xoay quanh một vài biến cố, sự
kiện nào đó trong một khơng gian, thời gian nhất định.
Về kết cấu, cốt truyện:
Kết cấu là một kiến trúc của tác phẩm, là quan hệ hữu cơ giữa toàn thể và bộ phận,
giữa bộ phận với bộ phận nhằm biểu đạt nội dung. Nắm rõ điều này, các nhà văn phải
biết cách sắp xếp các cảnh huống, tính cách nhân vật, khơng gian, thời gian, sự kiện ...
theo một trình tự nhất định nào đó hoặc theo cách riêng của mình nhằm thể hiện tư tưởng
nghệ thuật, về mặt hình thức ngơn từ, các câu, các đoạn, các phần phải tương ứng với
từng ý lớn. Nó cịn gọi là bố cục. Kết cấu truyện ngắn khơng chia thành nhiều tuyến phức



12

tạp nên nhà văn có điều kiện tập trung tạo sức dồn nén có tính liên tục của các sự kiện,
cảnh huống ... tạo nhiều mối quan hệ với nhau để thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện.
Cốt truyện của truyện ngắn là đơn tuyến. Thường có năm thành phần: trình bày,
khai đoạn (thắt nút), phát triển, đỉnh điểm (cao trào) và kết thúc (mở nút). Tuy thế, không
phải truyện ngắn nào cùng có đầy đủ năm thành phần và được sắp xếp theo trật tự như
thế. Mối quan hệ nội tại sẽ quy định sự tiến triển các thành phần cốt truyện. "Trong thực
tiễn sáng tác truyện ngắn thì thường các nhà vân chú ý đến hai khâu quan trọng nhất khi
xây dựng cốt truyện: chi tiết và đoạn kết" [64,84 ].
Về nhân vật, truyện ngắn thể hiện một tâm thế, một “lát cắt” số phận của con người
trong cuộc sống.

1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN
KẾT THÚC TRUYỆN NGẮN
1.2.1. Khái niệm
1.2.1.1. Vấn đề đơn vị ngôn ngữ trên câu:
Trong việc xác định các đơn vị văn bản, phần lớn các nhà nghiên cứu cho rằng có
hai cấp độ: cấp độ tột cùng là văn bản, còn cấp độ dưới văn bản là đơn vị nào chưa thể
xác định ngay trong thời điểm hiện nay. Do đó, trong ngữ pháp học văn bản cịn có một
loại đơn vị trung gian nằm giữa câu và văn bản.
Đơn vị trung gian gian này hiện nay trong ngữ pháp học văn bản có một số tên gọi
như sau: chỉnh thể trên câu, nhất thể trên câu, chỉnh thể cú pháp phức hợp, đoạn văn ...
Những thuật ngữ này chỉ các khái niệm khác nhau hay là những tên gọi khác nhau của
một khái niệm? Thật ra khơng phải chỉ có sự khác nhau về tên gọi mà cịn có sự khác
nhau về quan niệm. Sự khác nhau về quan niệm dẫn đến sự phân biệt hai loại đơn vị.
quan niệm thứ nhất cho rằng đơn vị trên câu chỉ là đoạn văn. Còn quan niệm thứ hai cho
rằng phải phân biệt hai loại đơn vị trên câu: đoạn văn và chỉnh thể trên câu (Chỉnh thể



13

trên câu là tên gọi tạm thời thay thế cho một loạt tên gọi: thể thống nhất trên câu, nhất thể
trên câu, chỉnh thể cú pháp phức hợp).
Đoạn văn là một đơn vị trên câu có thể là một câu hoặc bao gồm một số câu tập
trung vào việc thể hiện cùng một tiểu chủ đề và có đặc trưng hình thức rõ rệt nhất: bắt
đầu bằng chữ cái viết hoa thụt đầu dòng và kết thúc bằng dấu chấm sang dòng. Như vậy,
đoạn văn được hiểu là một kết câu mang màu sắc phong cách, là phương tiện để phân
đoạn văn bản về mặt phong cách học. Đoạn văn có khả năng thể hiện đặc trưng của
phong cách chức năng ngôn ngữ, của thể loại văn bản và đặc trưng của phong cách tác
giả.
Chỉnh thể trên câu là một nhóm câu có sự liên kết chặt chẽ với nhau để thể hiện một
tiểu chủ đề - bộ phận của chủ đề chung của văn bản (chủ đề bộ phận).Đặc trưng nhấn
mạnh nhất của chỉnh thể trên câu là tính thống nhất và tính hồn chỉnh của tiểu chủ đề mà
nó thể hiện. Chừng nào các câu kế tiếp nhau trong một văn bản cịn tiếp tục nói về một
tiểu chủ đề thì chừng đó chúng vẫn nằm trong cùng một chỉnh thể trên câu, cho dù chúng
có tách xuống dịng hay khơng. Khi nào chuyển sang tiểu chủ đề khác thì mới bắt đầu
một chỉnh thể trên câu khác. Như vậy, chỉnh thể trên câu được quan niệm là ''một chuỗi
câu đóng được tổ chức một cách đặc biệt thể hiện một phát ngôn thống nhất" [56,26].
Chỉnh thể trên câu được quan niệm là một đơn vị ngữ pháp chứ khơng mang màu sắc
phong cách. Nó là một thực thể cấu trúc - nghĩa - giao tiếp.
Theo Tạ Mai Anh thì "Đoạn văn và chỉnh thể trên câu là những đơn vị tách biệt,
song không phải là phạm trù đối lập" [10,14]. Tác giả này đã dựa vào ý kiến của L.M.
Lôxeva” “Không nên đối lập đoạn văn với chỉnh thể cú pháp phức hợp, bởi vì đó khơng
phải là những phạm trù đối lập mà những phạm trù tương tác lẫn nhau", và “Một đoạn
văn có thể được giải thích như kết hợp của những chính thể cú pháp phức hợp, ngược lại,
một chỉnh thể cú pháp phức hợp có thể bao gồm trong mình vài đoạn văn".[10.14]
Sự phân biệt trên dẫn đến hệ quả chỉnh thể trên câu có thể trùng với đoạn văn, cũng

có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn đoạn văn.


14

i.Trường hợp chúng trùng nhau khi nào đoạn văn thể hiện hồn chỉnh một tiểu chủ
đề. Lúc này nó có tính chất khép kín tương đối về nội dung ngữ nghĩa. Tuy vậy, mỗi đoạn
văn - chỉnh thể trên câu ln có mối liên kết với những đoạn văn cịn lại thuộc phạm trù
văn bản.
Ví dụ:
“Thợ cày và tuần phu đều biết cái hách dịch của ông Lý, ai nấy chỉ đáp lại những
câu chửi trùm chửi lợp bằng sự nín im.
Trâu, bị nhiều con vẫy tai như muốn chào một người chức việc chăm chí phận sự
trong khi người ấy qua trước mặt chúng”.
(Ngơ tất Tố-Tắt đèn) ở ví dụ trên, mỗi đoạn văn có một cấu trúc khép kín, thể hiện
một nội dung vừa có tính tách biệt vừa có sợi dây ràng buộc với đoạn văn cịn lại. Cả hai
đoạn thể hiện thái độ của cả làng Đông Xá trước sự hống hách, ức hiếp ... của bọn cường
hào, ác bá:
1. Thái độ chịu đựng câm nín của con người (thợ cày, tuần phu).
2. Thái độ chào đón của con vật (trâu, bị).
ii. Chỉnh thể trên câu có thể nhỏ hơn đoạn văn.
Ví dụ:
“Nghệ thuật thơ trong “Nhật ký trong tù ” rất phong phú. Có bài là lời phát biểu
trực tiếp, đọc hiểu ngay. Có bài lại dùng lối ngụ ngơn viết rất thâm thúy. Có bài tự sự.
Có bài trữ tình hay vừa tự sự vừa trừ tình. Lại có bùi châm biếm. Nghệ thuật châm biếm
cũng rất đa dạng. Khi là tiếng cười mỉa mai. Khi là tiếng cười phẫn nộ. Cùng có khi đằng
sau nụ cười là nước mắt’’.
(Trích giảng văn học lớp 12, 1980)



15

Ở ví dụ này chỉ có một đoạn văn nhưng có đến hai chỉnh thể trên câu với hai tiểu
chủ đề: Nghệ thuật thơ nói chung và nghệ thuật châm biếm nói riêng. Hai tiểu chủ đề này
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Tiểu chủ đề sau là bộ phận của tiểu chủ đề trước.
iii. Chỉnh thể trên câu lớn hơn đoạn văn:
Ví dụ:
“Bây giờ tồn dân ta ai cũng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội phải làm gì?
Nhất định phải tảng gia sản xuất cho thật nhiều. Muốn sản xuất nhiều thì phải có
nhiều sức lao động. Muốn có nhiều sức lao động thì phải giải phóng sức lao động của
phụ nữ”.
(Hồ Chí Minh)
Ví dụ trên có đến hai đoạn văn. Đoạn nêu câu hỏi và đoạn trả lời. Nhưng cả hai
cùng thể hiện một tiểu chủ đề: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải giải
phóng sức lao động của phụ nữ.
Không phải mọi đơn vị đều phải hồn chỉnh về ba mặt (hình thức, cấu trúc, nội
dung) như nhau, chỉ cần đơn vị trên cùng hồn chỉnh về ba mặt là đủ.
Ví dụ:
“Nửa đêm, những người lính gác lấy lưỡi lê vặn gây khóa trại giam. Cả lính và mấy
chị Mường Giơn, mấy người Mèo bò xuống chân đồn. Họ theo người Mèo chạy lên núi
(...)
Họ trèo tới một làng Mèo ở khuất chân một đám mây trên đỉnh núi.
Nhưng sốt ruột quá không ở được. Các chị bàn nhau, rồi chỉ có bọn lính ở lại, còn
các chị chia nhau mỗi người một ngã, tìm đường trở về dưới lùng đón tin


16

( Tơ Hồi - Truyện Tây Bắc)

Ví dụ này có ba đoạn văn. Đoạn văn I hoàn chỉnh về ba mặt (hình thức-cấu trúc-nội
dung), đoạn văn II chưa hồn chỉnh về mặt nội dung, đoạn văn III chưa hoàn chỉnh về
mặt nội dung và cấu trúc.
Chúng ta có thể khẳng định rằng giữa câu và văn bản chỉ có một loại đơn vị ngơn
ngữ, đó là đoạn văn. L.G. Pritman cho rằng: '"Chúng tôi cho rằng đơn vị cú pháp trên
câu có bộ các dấu hiệu tương thích khu biệt nó về mặt phẩm chất với những đơn vị thuộc
cấp độ thấp hơn - các câu - đó tả đoạn văn” [52,47]. cố vấn Phạm Văn Đồng đã từng
nói: "Sau từ thì đến câu, nhiều câu thành một đoạn, nhiều đoạn thành một bài, rồi một
cuốn sách” (Tạp chí Ngơn ngữ số 3-1984).
Như vậy, đoạn văn là đơn vị được bao hàm bởi chỉnh thể văn bản, thuộc cấp độ nhỏ
hơn văn bản và lớn hơn câu. Nó là đơn vị cơ sở để tạo nên văn bản. Ý kiến này được
nhiều nhà ngôn ngữ học Việt Nam chấp nhận (Trần Ngọc Thêm, Bùi Minh Toán, Đỗ
Hữu Châu, Nguyễn Quang Ninh, Nguyễn Văn Hào, Bùi Tất Tươm...).
1.2.1.2. Khái niệm về đoạn văn:
Trên phương diện lý thuyết, khái niệm đoạn văn nhìn chung cịn nhiều điều gây
tranh cãi. Với những tiêu chí xác định cụ thể, các nhà nghiên cứu đưa ra quan niệm riêng
của mình.
Trong “Từ điển - Sách tra cứu các thuật ngữ ngôn ngữ học” do Nhà xuất bản Giáo
dục Liên Xô ấn hành, đoạn văn được định nghĩa như sau: “Là một đoạn của văn bản viết
hoặc in nằm giữa hai chỗ thụt đầu dòng, thường hao gồm một chỉnh thể trên câu hoặc
một bộ phận của nó, đơi khi bao gồm một câu dưn hoặc một câu phức” 115,127].
Theo Hà Thúc Hoan, tác giả giáo trình “Đoạn văn - lý thuyết và thực hành” thì
đoạn văn được định nghĩa như sau: “Đoạn là tập hợp nhiều câu diễn tả tương đối trọn
vẹn một ý và có quan hệ với nhau về ngôn ngữ và tư duy”. Sau đó tác giả lại giải thích


17

thêm: “Trong một bài văn, đoạn được nhận biết bằng một chỗ xuống dòng và một dấu
chấm xuống dòng” [56,59).

Trong “Giáo trình tiếng Việt” (Nguyễn Văn Hào chủ biên), các tác giả xác định
đoạn văn như sau: “ Đoạn văn là một kết cấu văn bản được cấu tạo bởi các đơn vị văn
bản nhờ các phương tiện và phương thức liên kết nhằm thế hiện một chủ ”[56,59].
Nguyễn Quang Ninh đưa ra cách hiểu đoạn văn như sau:
Về hình thức: Đoạn văn bao giờ cũng có dấu hiệu tự nhiên dễ nhận biết. Đó là một
hình thức hồn chỉnh (khơng phụ thuộc vào nội dung), có dấu hiệu mở đoạn (lùi đầu
dòng, viết hoa) và dấu hiệu kết thúc đoạn (dấu ngắt câu, xuống dòng).
- Về nội dung: Đoạn văn có thể hồn chỉnh hoặc chưa hồn chỉnh. Tùy từng loại
văn bản và phong cách tác giả, mức độ hồn chỉnh của đoạn văn có khác nhau. Khi đoạn
văn chứa nội dung hoàn chỉnh, đoạn văn thể hiện một ý. Đoạn văn trong trường hợp này
là một đoạn ý. Khi đoạn văn chứa nội dung chưa hồn chỉnh, thì hai ba đoạn văn mới thế
hiện đầy đủ một ý. Lúc này đoạn văn không trùng với đoạn ý ” [56,60].
Sau này, tác giả cịn hồn thiện thêm tiêu chí nội dung đoạn văn trong cuốn sách
“150 bài tập rèn luyện kỹ năng dựng đoạn văn”: "Khi đoạn văn đạt đến một mức độ
tương đối hoàn chỉnh về nội dung, đoạn văn đó sẽ có những đặc điểm kết cấu đồng dạng
ở mức cao nhất với văn bản. Trong những trường hợp này, mỗi đoạn văn được gọi là một
đoạn ý (hay đoạn nội dung. Ngược lại, đoạn văn không có sự hồn chỉnh về nội dung
được gọi là đoạn lời (hay đoạn diễn đạt)" [57 ,7-8].
Nhóm tác giả Bùi Tất Tươm, Nguyễn Văn Bằng, Hồng Xn Tâm thì quan
niệm: "Đoạn văn là tập hợp nhiều câu thể hiện một chủ đề" [73,377].
Cịn tác giả Diệp Quang Ban thì xác nhận “ Đoạn văn thông thường được hiểu là
một phần của văn bản tách từ chỗ viết hoa, thường lui vào ở đầu dòng cho đến chỗ chấm
xuống dòng" [11,203].


18

Tác giả Đỗ Hữu Châu thì cho rằng: ''Đoạn văn được xem là đơn vị cơ sở của văn
bản phải là đoạn văn chỉnh thể. Đoạn văn chỉnh thể có cấu trúc đầy đủ và nội dung
tương đối hoàn chỉnh; là đoạn văn có cấu trúc ba phần: phần mà đoạn, phần triển khai

và phần kết, thể hiện trọn vẹn một tiểu chủ đề" [20,66].
Hiện nay, dù có nhiều cách hiểu khác nhau về đoạn văn nhưng ta có thể hiểu đơn vị
ngôn ngữ này theo một quan niệm chung nhất;
Đoạn văn là một bộ phận của văn bản, gồm một chuỗi phát ngôn được xây dựng
theo một cấu trúc và mang một nội dung nhất định (đầy đủ hoặc khơng đầy đủ) được
tách ra một cách hồn chỉnh về mặt hình thức: ở dạng nói, nó có kiểu ngữ điệu nhất
định và kết thúc bằng quãng ngắt hơi dài; ở dạng viết, nó bắt đầu bằng dấu mở đoạn
(gồm thụt đầu dòng, viết hoa) và kết thúc bằng dấu ngắt đoạn (gồm dấu ngắt phát
ngơn, xuống dịng) [66,127].

1.2.2. Phân loại đoạn văn
Đoạn văn trong các văn bản được tổ chức rất đa dạng, nhiều hình nhiều vẻ. Muốn
sử dụng chúng một cách có hiệu quả thì ta phải biết cách phân loại chúng, mơ hình hóa
cấu trúc đoạn văn và quy chúng về một số dạng cơ bản. Sau đây là một số cách phân loại
chính:
1.2.2.1. Dựa theo độ hồn chỉnh cấu trúc:
Dựa vào cấu trúc thì đoạn văn chia làm hai loại lớn; loại hoàn chỉnh về cấu trúc
(chỉnh ngơn) và loại khơng hồn chỉnh về cấu trúc (đoạn trực thuộc).
Đoạn văn có cấu trúc hồn chỉnh là đoạn văn phải chứa tối thiểu hai phần: phần mở
đoạn và phần triển khai. Hai thành phần này có thể được thể hiện bằng một bộ phận của
câu, một câu hoặc một chuỗi câu.
Đoạn văn có cấu trúc khơng hồn chỉnh là đoạn văn khơng có đủ hai thành phần
này.


19

Ví dụ:
“Chắc có người nghĩ: Cụ Hồ đưa nghệ thuật vào chính trị.
Đúng lắm. Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác khơng thế đứng

ngồi, mà phải ở trong kinh tế vả chính trị”.
(Hồ Chí Minh)
Ví dụ này có hai đoạn văn. Đoạn văn I là chỉnh ngơn vì nó có đầy đủ hai thành
phần. Đoạn văn 11 là đoạn trực thuộc.
Dựa theo nội dung, ta chia nhỏ làm sáu loại đoạn như sau:
1) Đoạn tối giản:
Đoạn tôi giản là đoạn chỉ có một câu nhưng đủ tư cách là một đoạn văn với điều
kiện nó phải có mối liên kết ngữ nghĩa chặt chẽ với đoạn trước. Nó được tách ra với dụng
ý nhấn mạnh, thuộc phạm vi quan tâm của phong cách học.
Ví dụ:
“Khoảng hai năm sau chị Phượng về.
Chị mang về theo giấy xuất viện của trại phong Quy Hịa.
Khn mặt chị buồn rượi những vẫn đẹp như xưa”.
(Võ Thị Hảo - Phiên chợ người cùi)
Ví du trên có 3 đoạn văn. Mỗi đoạn văn có cấu tạo là một câu.
2) Đoạn văn diễn dịch:
Đoạn văn diễn dịch là đoạn văn có nội dung phát triển theo hướng từ câu có ý
chung, khái quát đến những câu có ý riêng, cụ thể. Câu đầu là câu quan trọng nhất nên
còn gọi là câu chủ đề, câu nịng cốt, câu chốt, câu khóa. Nó là đầu mối của mọi liên kết


20

trong tồn đoạn. Những câu đi sau có nhiệm vụ cụ thể hóa triển khai chủ đề bằng cách
giải thích, chứng minh, phân tích, nêu nguyên nhân - kết quả ...
Ví dụ:
“Hoa mận vừa tàn thì mùa xn đến. Bầu trời càng thêm xanh. Nắng vùng ngày
càng rực rỡ. Vườn cây lại đâm chồi này lộc. Rồi vườn cây ra hoa. Hoa bưởi nồng nàn.
Hoa nhãn ngọt. Hoa cau thoáng qua. Rồi vườn cây lại đầy tiếng chim và bóng chim bay
nhảy. Những thím chích chịe nhanh nhảu. Những chú khướu lắm điều. Những anh chào

mào đỏm dáng. Những bác cu gáy trầm ngâm
(Nguyễn Kiên - Mùa xuân đến)
Câu đầu trong ví dụ trên là câu chủ đề. Các câu cịn lại giải thích, tường minh cho
câu đầu.
3) Đoạn văn quy nạp:
Đoạn văn quy nạp là đoạn văn có nội dung phát triển theo hướng từ những câu có ý
nghĩa riêng, cụ thể đến câu có ý nghĩa chung, khái quát. Nghĩa là nó được thiết lập ngược
hẳn với đoạn văn diễn dịch.
Ví dụ:
“Phong trào cách mạng lơi cuốn hàng chục triệu người. Cơng việc cách mạng là
nghìn điều muốn loại phức tạp khó khăn. Để cân nhắc mọi hồn cảnh phức tạp, nhìn rõ
các mâu thuẫn, để giải quyết đúng các vấn đề thì chúng ta phải cố gắng học tập lý luận
Mác - Lênin
(Hồ Chí Minh - Đạo đức cách mạng).
4) Đoạn văn song hành:
Đây là đoạn văn có các câu triển khai những nội đung song song với nhau. Không
nội dung nào bao trùm nội dung nào. Tức là các câu trong đoạn ngang hàng với nhau về


21

mặt nội dung và tất cả các câu ấy cùng tập trung thể hiện chủ đề của đoạn. Loại đoạn này
khơng có phần mở đầu và phần kết thúc, khơng có câu chủ đề.
Ví dụ:
“Nước của ơng là nước Đại Việt "vốn xưng nền văn hiến từ lâu". Nước của ông là
một lãnh thổ riêng biệt vài “cõi bờ sông núi đã chia" và “phong tục Bắc Nam cũng
khác”. Nước của ơng là một nền chính trị riêng biệt, đã “cùng Hán, Đường, Tống,
Nguyên mỗi bên làm đế một phương”. Nước của ơng là một đỉnh cao của trí tuệ và tài
năng với “những hào kiệt không bao giờ thiếu”.
(Vũ Khiêu - Người trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử).

Đoạn văn trên khơng có câu chủ đề. Ta có thể viết ra câu chủ đề:
“Viết Bình Ngơ đại cáo, Nguyễn Trãi có nhận thức đầy đủ và sâu sắc về đất nước”.
5) Đoạn văn móc xích:
Đây là đoạn văn mà các câu được nối tiếp nhau về ý theo kiểu chuỗi xích; hệ quả
của câu trước là tiền đề của câu sau, chúng kết nối với nhau như những mắt xích.
Ví dụ:
“Ơng chủ Dụ vốn là nhà đại doanh nghiệp. Mà đại doanh nghiệp là cái máy làm
tiền nhiều hơn một người. Đã là cái máy làm tiền, thì một khi thấy tiền nong suy suyễn
một tý, tất nó đè nghiến lấy Dụ. Sự suy suyễn về tiền nong có thể xảy ra bất ngờ, ai giữ
hết được! Cho nên Dụ chỉ muốn bỏ việc”
(Nguyễn Công Hoan - Thụt két),
Ở đoạn văn này thì câu chủ đề cũng được hiểu ngầm. Ta có thể hiểu: Ơng chủ Dụ
vốn là nhà đại doanh nghiệp cho nên ông Dụ chỉ muốn bỏ việc.
6) Ngoài năm loại đoạn văn trên, ta còn bắt gặp loại đoạn văn diễn dịch - quy nạp.


×