BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Hồ Thanh Liêm
VÙNG ĐẤT BẠC LIÊU
THỜI PHÁP THUỘC
(1867 - 1945)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
Thành phố Hồ Chí Minh – 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Hồ Thanh Liêm
VÙNG ĐẤT BẠC LIÊU
THỜI PHÁP THUỘC
(1867 - 1945)
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số
: 60 22 03 13
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ HUỲNH HOA
Thành phố Hồ Chí Minh - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết qủa nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận của luận văn chưa từng
được ai cơng bố trong bất kì cơng trình nào khác.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 9 năm 2015
Tác giả luận văn
Hồ Thanh Liêm
LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến TS. Lê Huỳnh Hoa, người hướng
dẫn khoa học và trực tiếp giảng dạy, đã tận tình giúp đỡ cho tơi trong suốt q
trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí
Minh, phịng Sau Đại học, khoa Lịch sử đã tạo điều kiện cho tôi được học tập và
nghiên cứu. Quý thầy cô khoa Lịch sử trực tiếp giảng dạy tôi trong thời gian
qua, đã giúp tôi bồi dưỡng thêm kiến thức, phương pháp nghiên cứu khoa học và
giúp đỡ tôi trong suốt q trình học tập và hồn thành luận văn.
Tơi cũng xin cảm ơn Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bạc Liêu, Ban giám hiệu
trường THPT Ninh Quới tỉnh Bạc Liêu và các đồng nghiệp đã tạo điều kiện
thuận lợi giúp tơi hồn thành việc học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng xin tỏ lịng biết ơn đối với gia đình, thầy cô và bạn bè đã giúp đỡ
động viên tôi trong suốt q trình học tập và hồn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1. LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT BẠC LIÊU TRƯỚC NĂM 1867 ............. 9
1.1. Đặc điểm địa lý tự nhiên ................................................................................ 9
1.1.1. Vị trí địa lý ............................................................................................... 9
1.1.2. Địa chất - đất đai ...................................................................................... 9
1.1.3. Khí hậu ................................................................................................... 10
1.1.4. Địa hình - Sông rạch - Bờ biển .............................................................. 11
1.1.5. Thủy văn và tình trạng ngập mặn .......................................................... 12
1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội ............................................................................. 13
1.2.1. Về hành chính và dân cư ........................................................................ 13
1.2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội ....................................................................... 18
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 27
Chương 2. BIẾN ĐỔI VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA BẠC LIÊU
GIAI ĐOẠN 1867 - 1918 ........................................................................ 28
2.1. Tình hình kinh tế - xã hội vùng đất Bạc Liêu trước cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ nhất (1867 - 1897) ......................................................... 28
2.1.1. Bộ máy hành chính ................................................................................ 28
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội ....................................................................... 30
2.2. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1913) ................................... 34
2.2.1. Bối cảnh ................................................................................................. 34
2.2.2. Chính sách khai thác ở Nam Kỳ và Bạc Liêu ........................................ 34
2.3. Những biến đổi về kinh tế của tỉnh Bạc Liêu .............................................. 35
2.3.1. Cơ sở hạ tầng ở Bạc Liêu 1897 - 1913 .................................................. 35
2.3.2. Tình hình ruộng đất ................................................................................ 42
2.3.3. Ngư nghiệp ............................................................................................. 44
2.4. Những biến đổi về xã hội ............................................................................. 45
2.4.1. Đời sống của người Hoa, Khmer ........................................................... 45
2.4.2. Đời sống của người Việt ........................................................................ 46
2.4.3. Sự hình thành gia cấp địa chủ ................................................................ 48
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 50
Chương 3. BIẾN ĐỔI KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BẠC LIÊU
GIAI ĐOẠN 1919 - 1945 ........................................................................ 51
3.1. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1918 - 1939) ..................................... 51
3.1.1. Bối cảnh ................................................................................................. 51
3.1.2. Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ................................ 51
3.2. Những biến đổi về kinh tế trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu ................................. 52
3.2.1. Phát triển cơ sở hạ tầng trong cuộc khai thác thuộc địa lần hai
(1918 - 1939)......................................................................................... 52
3.2.2. Kinh tế nông nghiệp .............................................................................. 64
3.2.3. Thương mại ........................................................................................... 67
3.2.4. Các ngành kinh tế khác ......................................................................... 74
3.3. Đời sống xã hội và đời sống dân cư ............................................................. 76
3.3.1. Cơ cấu dân số ......................................................................................... 76
3.3.2. Thành phần giai cấp trong xã hội........................................................... 77
3.3.3. Đời sống xã hội của cư dân ở Bạc Liêu ................................................. 81
3.3.4. Hoạt động giáo dục - y tế ....................................................................... 87
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 89
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 94
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do khoa học
Bạc Liêu là một vùng đất đầy tiềm năng, rất thuận lợi cho việc phát triển
kinh tế. Ngay từ khi thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất, thì vùng đất Bạc Liêu đã đóng một vai trò quan trọng, trong việc cung cấp
lúa, gạo phục vụ cho mục tiêu khai thác.
Bạc Liêu có nền văn hóa cộng cư lâu đời của 3 dân tộc Việt - Hoa - Khmer
hết sức phong phú và độc đáo. Lịch sử khẩn hoang vùng đất Bạc Liêu không thể
tách rời lịch sử hình thành vùng đất Nam Bộ, tuy nhiên trong cái chung có
những cái riêng, cái đặc trưng của vùng đất này.
Từ khi Bạc Liêu được hình thành, trên vùng đất này đã diễn ra nhiều thay
đổi, với ưu thế là một vùng đất tiềm năng. Người dân nơi đây đã làm nên nhiều
kỳ tích xây dựng và bảo vệ q hương.
Việc nhìn lại một cách tồn diện, đánh giá một cách nghiêm túc lịch sử
hình thành và phát triển của vùng đất Bạc Liêu cịn có ý nghĩa thực tiễn là giúp
địa phương vạch ra những chính sách, giải pháp và nhiệm vụ phù hợp thế mạnh
của tỉnh trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước, trước xu thế hội nhập
quốc tế.
Qua luận văn, tìm hiểu về vùng đất Bạc Liêu nhằm giúp cung cấp thêm
nguồn tư liệu về lịch sử địa phương, qua đó giúp thế hệ trẻ Bạc Liêu hiểu biết
sâu sắc về lịch sử q hương mình, về cơng cuộc khai phá và bảo vệ vùng đất
này của ơng cha. Từ đó hình thành lịng u q hương đất nước, xóm làng gắn
bó và có trách nhiệm với quê hương. Từ bài học trong quá khứ, góp phần tạo
niềm tin và động lực trong tương lai, đây là một yếu tố cần thiết vì nó là nội lực
thúc đẩy việc xây dựng và kiến thiết đưa Bạc Liêu tiến nhanh trên con đường
cơng nghiệp hóa hiện đại hóa.
2
1.2. Lý do thực tiễn
Được sinh ra và lớn lên tại vùng đất Bạc Liêu và làm công các giảng dạy ở
địa phương, nên việc nghiên cứu vùng đất Bạc Liêu thời Pháp thuộc là rất cần
thiết. Kết quả nghiên cứu sẽ giúp tôi giảng dạy tốt môn lịch sử địa phương. Do
vậy, việc nghiên cứu đề tài nhằm giúp cho bản thân tôi hiểu biết cụ thể hơn, đầy
đủ hơn về lịch sử của vùng đất quê hương, cũng như vai trị của nó đối với lịch
lịch sử phát triển của vùng đất Nam Kỳ.
Với tất cả những lý do trên tôi đã chọn đề tài “Vùng đất Bạc Liêu thời
Pháp thuộc (1867 - 1945)”.
2. Mục đích nghiên cứu vấn đề
- Tìm hiểu cơng cuộc đầu tư và khai thác vùng đất Bạc Liêu của thực dân
Pháp cùng những hậu quả của công cuộc đầu tư và khai thác này mang lại.
- Qua luận văn, thấy được hệ quả của sự biến đổi kinh tế - xã hội đối với
lịch sử phát triển vùng đất Bạc Liêu nói riêng và vùng đất Nam Kỳ nói chung.
Từ đó rút ra những bài học nhằm góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển
kinh tế của vùng này hiện tại và trong tương lai.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề và nguồn tư liệu
3.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu “Vùng đất Bạc Liêu thời Pháp thuộc (1867 - 1945)” là một
nội dung quan trọng trong quá trình tìm hiểu chế độ cai trị của thực dân Pháp ở
Nam Kỳ nói chung và ở vùng đất Bạc Liêu nói riêng. Do tầm quan trọng của nó,
mảng nghiên cứu lịch sử kinh tế - xã hội trong nội dung nghiên cứu này luôn
được quan tâm. Tuy vậy, cho đến nay những cơng trình nghiên cứu trực tiếp về
kinh tế - xã hội của vùng đất Bạc Liêu trước năm 1945 vẫn chưa nhiều. Hiện có
những cơng trình nghiên cứu về nội dung này ở các góc độ khác nhau. Những
cơng trình đã được cơng bố ở nhiều thời điểm như:
3
La Cochinchine et ses habitants, provinces de L’Ouest của J.C. Baurac
xuất bản năm 1894 tại Sài Gịn, giới thiệu tồn xứ Nam Kỳ tổng quan về địa lý,
lịch sử, dân cư, kinh tế… mơ tả từng tỉnh trong đó có Bạc Liêu.
Cuốn Monographie de la province de Bac Lieu (1925), của tác giả Louis
Girerd giới thiệu một cách có hệ thống tất cả các mặt: lịch sử dân cư, kinh tế,
chính trị, đời sống văn hóa xã hội… của Bạc Liêu từ trước đến những năm đầu
của thế kỷ XX. Đây là nguồn chỉ dẫn và tư liệu quý giúp bạn đọc hình dung
được vùng đất Bạc Liêu những năm đầu của thế kỷ XX.
Rapport au conseil Colonial sur I’état de la Cochinchine pendant la
période 1927-1928 (1928), Saïgon, Impr. Nouv. A. Portail. Nói về tình hình các
tỉnh miền Tây Nam Kỳ, trong đó có báo cáo tình hình tỉnh Bạc Liêu về hành
chính, dân số, ruộng đất, thương mại, cơng nghiệp và quỹ tín dụng nơng nghiệp.
Provinces d’Indochine: Bac Lieu (1945), IHI. Mơ tả về địa lý hình thể và
nhân văn tỉnh Bạc Liêu.
Ngoài các sách nghiên cứu như trên, vào thập niên 1960 trở đi cịn có các
tác phẩm:
Huỳnh Minh viết nhiều sách khảo cứu về các tỉnh, thành ở Nam Bộ, trong
đó có cuốn Bạc Liêu xưa và nay (1963), khắc họa vùng đất Bạc Liêu qua một số
chi tiết về lịch sử, địa lý, nhân vật, giai thoại, huyền thoại, di tích, thắng cảnh,
địa danh năm xưa…
Tiểu thuyết Nọc Nạn (1965), của Phúc Văn được xuất bản ở Sài Gòn, một
tác phẩm thể hiện lịch sử, xã hội về cuộc tranh đấu giữa người tiểu địa chủ
chống cường hào, để giữ lại phần tư hữu tài sản mà chính ơng bà họ đã tạo ra.
Qua đó, tác phẩm khắc họa hình ảnh người nơng dân xứ Bạc Liêu trong thời kỳ
này.
Quê hương yêu dấu: Bạc Liêu (1971), của Minh Huy được đăng trên báo
Hoa Tình Thương xuất bản tại Sài Gòn năm 1968 - 1971, đã giới thiệu tỉnh Bạc
Liêu qua các mặt lịch sử, địa lý, chính trị, kinh tế văn hóa xã hội…
4
Địa phương chí tỉnh Bạc Liêu (1974), viết về lịch sử, địa lý, nhân văn,
hành chính. Qua sách đã khái quát được một phần tình hình kinh tế - xã hội của
tỉnh Bạc Liêu thời kỳ trước năm 1975.
Tác phẩm Lịch sử khẩn hoang miền Nam (1973), Sơn Nam nghiên cứu về
các vấn đề lịch sử của vùng đất Nam Bộ. Trong những phần liên quan trực tiếp
có các số liệu về vùng đất Bạc Liêu vào những năm cuối thế kỷ XIX đến giữa
thế kỷ XX. Tác giả đã căn cứ vào những số liệu cụ thể về việc khẩn hoang lập
làng trong từng thời điểm lịch sử, vạch ra các chặng đường phát triển của Bạc
Liêu trong tiến trình định cư, khai phá ở vùng đất này.
Nguyễn Huy - Huỳnh Tư (1974), Les marais salants de la province de
Bac Lieu, BSEI. Tác giả trình bày về các ruộng muối tại Bạc Liêu với nhiều đặc
điểm về kỹ thuật lấy nước biển và tính chất mà ruộng muối duyên hải khác
khơng có. Đây là trung tâm sản xuất và cung cấp muối (cách xa bờ biển khoảng
10 km) cho dân cư đồng bằng sơng Cửu Long.
Minh Hải địa chí (1985), của Trần Thanh Phương mơ tả bức tranh tồn
cảnh về Minh Hải trên tất cả các lĩnh vực: thiên nhiên, lịch sử, kinh tế - xã hội.
Một cơng trình có giá trị về mặt khoa học của Nguyễn Đình Đầu Nghiên
cứu địa bạ Triều Nguyễn - Hà Tiên (Kiên Giang, Minh Hải) (1995) và Nghiên
cứu địa bạ Triều Nguyễn - An Giang (An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Sóc
Trăng) (1995). Tác giả đã miêu tả kỹ lưỡng, chân xác địa lý lịch sử An Giang Hà Tiên, đóng góp căn bản vào việc tìm hiểu tình hình kinh tế - xã hội An Giang
- Hà Tiên, trong đó có phần đất của Bạc Liêu ngày nay ở thập kỷ 30 của thế kỷ
XIX.
Năm 2001, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Bạc
Liêu tổ chức hội thảo khoa học về sự kiện “Cuộc nổi dậy vũ trang của nông dân
Ninh Thạnh Lợi năm 1927 chống ách thống trị thực dân Pháp và bọn tay sai”.
Các tham luận của hội thảo tập trung khắc họa hình ảnh của người nông dân Bạc
5
Liêu dưới chính sách thống trị của thực dân Pháp, cung cấp những dữ kiện về sự
phản kháng của nông dân đối với chính quyền thuộc địa.
Đề tài nghiên cứu Lịch sử khẩn hoang vùng đất Bạc Liêu (2003), của
Phan Trung Nghĩa, Trần Phước Thuận nêu các yếu tố cơ bản trong quá trình
khẩn hoang, di dân lập ấp; bước đầu tìm hiểu về vùng đất Bạc Liêu trong buổi
đầu khai khẩn. Tuy nhiên đề tài chưa đi sâu vào lĩnh vực sản xuất (đối tượng sản
xuất và phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất...), mặt khác chưa hệ thống hóa
được những bài học kinh nghiệm cần thiết trong việc đoàn kết các dân tộc, sự ưu
đãi, khắc nghiệt của thiên nhiên và ảnh hưởng của thiên nhiên đối với tính cách
con người Bạc Liêu...
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu 1927 - 1975 (Tập I, 2002), trong phần mở
đầu và từ chương 1 đến chương 4 đã trình bày các vấn đề liên quan đến vùng
đất, con người và quá trình đấu tranh của nhân dân Bạc Liêu qua hai cuộc khánh
chiến, trong đó có giai đoạn trước năm 1945.
Cơng trình Văn học dân gian Bạc Liêu (2005), sưu tập kho tàng văn học
dân gian của các cộng đồng dân tộc ở Bạc Liêu để thấy được bức tranh văn hóa xã hội của nó trong q trình khai khẩn và phát triển vùng đất này.
Sách Nam Bộ đất và người (Tập I, 2007), có bài viết: “Tâm lý tin vào ma
thuật trong cuộc đấu tranh của nông dân Ninh Thạnh Lợi năm 1927” của tác giả
Mạc Đường.
Hai bài viết “Phác thảo diện mạo Bạc Liêu” của tác giả Trần Thuận và
“Tại sao người Pháp lập tỉnh Bạc Liêu muộn” của Nguyễn Đình Tư trong sách
Nam Bộ đất và người (Tập V, 2007), góp phần vào việc làm rõ lịch sử hình
thành và phát triển của Bạc Liêu, nhất là ở giai đoạn 1867 - 1945.
Năm 2010, Từ điển địa chí Bạc Liêu xuất bản, đã đúc kết toàn bộ những
hiểu biết về đất nước và con người Bạc Liêu trên các lĩnh vực: địa lý, dân cư,
lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là một cơng trình nghiên cứu khá tồn diện
6
trên nhiều lĩnh vực từ xưa đến nay với sự đóng góp của nhiều học giả, nhà
nghiên cứu...
Ngồi ra, trên các báo, tạp chí cịn có nhiều bài viết đề cập đến một số lĩnh
vực kinh tế - xã hội của vùng đất Bạc Liêu thời Pháp thuộc như: Trần Phước
Thuận (1999), “Nguồn gốc người Triều Châu ở Bạc Liêu”, Tạp chí Xưa & Nay,
số 64, năm 1999; Trần Phước Thuận (1999), “Nghệ sỹ đất Bạc Liêu: Trịnh
Thiên Tư”, Tạp chí Xưa & Nay, số 65 B, năm 1999; Ngọc Minh (2002), “Giáo
dục Bạc Liêu những thập niên đầu thế kỷ 20”, Báo Bạc Liêu, số xuân Nhâm
Ngọ, năm 2002; Trần Phước Thuận (2002), “Cổ nhạc Bạc Liêu nửa đầu thế kỷ
20”, Báo Bạc Liêu, số xuân Nhâm Ngọ, năm 2002; Nguyễn Hữu Hiếu (2010),
“Bán đảo Cà Mau”, Tạp chí Xưa & Nay, số 361, năm 2010...
Ngồi ra cịn có các bài viết của Phan Trung Nghĩa trên Báo Bạc Liêu với
chủ đề Phác thảo một vùng đất (tháng 9-11/1997): “Người Việt ở Bạc Liêu;
Tỉnh Bạc Liêu được thành lập và chiến lược khai thác của người Pháp; Giai
đoạn sản xuất lớn của Bạc Liêu; Người Khmer Nam Bộ ở Bạc Liêu; Chất phóng
khống trong văn hóa Bạc Liêu.
Nhìn chung, theo chúng tơi được biết, đã có một số cơng trình nghiên cứu
liên quan đến vùng đất Bạc Liêu trong thời kỳ Pháp thuộc. Song cho đến nay
vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu vùng đất Bạc Liêu
với những biến đổi kinh tế - xã hội trong thời kỳ Pháp thuộc cũng như hệ quả
của sự biến đổi này đối với lịch sử phát triển của vùng đất Bạc Liêu.
3.2. Nguồn tư liệu
Các nguồn tư liệu được chúng tôi khai thác và sử dụng trong luận văn
này gồm:
1. Nguồn thư tịch của triều Nguyễn:
- Gia Định thành thơng chí (1972) của Trịnh Hồi Đức.
- Đại Nam nhất thống chí (1973) của Quốc sử quán triều Nguyễn.
7
2. Tài liệu lưu trữ thời Pháp thuộc trong phông Thống đốc Nam Kỳ (1859
- 1945) tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
3. Các cơng trình khoa học được cơng bố trên sách, báo chí, các tác phẩm
xuất bản tại Pháp và Sài Gòn của người Pháp viết về Nam Kỳ.
4. Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ liên quan đến kinh tế - xã hội Nam
Kỳ thời Pháp thuộc.
5. Tư liệu hình ảnh thu thập được trong thực tế các chuyến thực địa tại
Bạc Liêu nhằm bổ sung thêm cho nguồn tài liệu thành văn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Với đối tượng nghiên cứu được nêu rõ trong tên đề tài, luận văn này sẽ
tìm hiểu về sự biến đổi trong lĩnh vực kinh tế - xã hội của Bạc Liêu, góp phần
phục dựng lại bức tranh toàn cảnh về đất và người Bạc Liêu trong suốt chiều dài
lịch sử từ 1867 - 1945 với tư cách là một đơn vị hành chính.
- Về phạm vi nghiên cứu lịch sử vùng đất nay gọi là Bạc Liêu, từ triều
Nguyễn đến khi thực dân Pháp xâm lược gồm địa giới phủ Ba Xuyên tỉnh An
Giang và phủ An Biên tỉnh Hà Tiên. Bạc Liêu thời Pháp thuộc có diện tích rộng
hơn ngày nay gồm có cả vùng đất Cà Mau và Vĩnh Châu (Sóc Trăng). Tuy
nhiên, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề về sự biến đổi kinh tế xã hội thuộc trong phạm vi không gian địa giới tương ứng với tỉnh Bạc Liêu
ngày nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, phương pháp lịch sử và phương pháp logic được
xác định là những phương pháp cơ bản để tiến hành nghiên cứu.
- Phương pháp lịch sử là phương pháp xem xét các hiện tượng, sự vật qua
các giai đoạn cụ thể của nó (nguyên nhân, các giai đoạn phát triển, kết quả…) để
khôi phục và miêu tả đúng như nó đã từng tồn tại.
8
- Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng trong
hình thức tổng quát, nhằm vạch ra bản chất, quy luật, khuynh hướng chung
trong sự vận động của sự vật, hiện tượng trong quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp liên ngành: Tác giả đặc biệt chú trọng phương pháp này
trong quá trình thực hiện đề tài bằng việc kết hợp các tài liệu có tính kế thừa
thành tựu nghiên cứu của các ngành: địa lí học, khảo cổ học, dân tộc học.
- Phương pháp điền dã, khảo cứu địa danh, nhân vật, sự kiện, đặc điểm
lịch sử của vùng đất...
6. Đóng góp của đề tài
Luận văn góp phần phục dựng toàn diện, cụ thể và hệ thống về vùng đất
Bạc Liêu thời Pháp thuộc trong giai đoạn 1867 - 1945.
Việc nghiên cứu về biến đổi kinh tế - xã hội của luận văn góp phần cung
cấp thêm những thông tin về lịch sử của vùng đất Bạc Liêu thời Pháp thuộc, bổ
sung tư liệu cho việc nghiên cứu vùng đất này và làm cơ sở để biên soạn, giảng
dạy lịch sử địa phương. Luận văn cũng góp phần cho việc bồi dưỡng, giáo dục
thế hệ trẻ lòng yêu quê hương, đất nước, ý thức trân trọng, giữ gìn và phát huy
những thành quả, truyền thống mà các thế hệ cha ông đã xây dựng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn rút ra những bài học lịch sử góp phần
cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong tương lai.
7. Bố cục luận văn
Về cấu trúc của luận văn, ngoài Phần mở đầu (8 trang), Kết luận (4 trang),
Tài liệu tham khảo (12 trang) và Phụ lục (21 trang), luận văn được chia thành ba
chương:
Chương 1. Lịch sử vùng đất Bạc Liêu trước năm 1867 (19 trang).
Chương 2. Biến đổi kinh tế - xã hội giai đoạn 1867 - 1918 (23 trang).
Chương 3. Biến đổi kinh tế - xã hội tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 1919 - 1945
(39 trang).
9
Chương 1
LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT BẠC LIÊU TRƯỚC NĂM 1867
1.1. Đặc điểm địa lý tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Bạc Liêu là vùng đất thuộc bán đảo Cà Mau ở Đồng bằng sông Cửu Long,
miền đất cực nam của Tổ quốc. Đây là nơi tiếp giáp giữa các con sông và biển.
Bạc Liêu được thiên nhiên đặc biệt ưu đãi cho một bờ biển dài hơn 56 km với
các cửa biển lớn như cửa Gành Hào, cửa Cái Cùng, cửa Nhà Mát, tạo điều kiện
để thực hiện giao thương, trung chuyển hàng hóa ra bên ngồi.
Ngày nay về địa giới hành chính, vùng đất Bạc Liêu thuộc tỉnh Bạc Liêu.
Tổng diện tích tự nhiên là 2541.9 km2. Tọa độ địa lý từ 105014’15’ đến
105051’54 kinh độ Đông và từ 9000’ đến 9038’9’ vĩ độ Bắc [108, tr.49].
Tỉnh Bạc Liêu bao gồm 1 thành phố (Bạc Liêu) và 6 huyện (Vĩnh Lợi,
Hịa Bình, Giá Rai, Đơng Hải, Hồng Dân, Phước Long). Phía Bắc giáp tỉnh Hậu
Giang và Kiên Giang, phía Đơng và Đơng Bắc giáp tỉnh Sóc Trăng, phía Tây và
Tây Nam giáp tỉnh Cà Mau, phía Đơng và Đơng Nam giáp biển Đơng. Tồn tỉnh
được bao bọc bởi nhiều loại đước khác nhau. Những bờ rìa của bán đảo nhơ lên
thành những con dốc bùn, trải dài theo biển được hình thành bởi thủy triều, đơi
khi người ta khơng thể phân biệt được đâu là nước hay bãi bùn khi trời tờ mờ
sáng [138, tr.253].
Như vậy, về vị trí địa lý của tỉnh Bạc Liêu rất thuận lợi cho việc phát triển
kinh tế, từ Bạc Liêu người ta có thể dễ dàng liên lạc giao thương với các tỉnh lân
cận bằng đường thủy hoặc đường bộ.
1.1.2. Địa chất - đất đai
Bạc Liêu nằm trong vùng “đất mới”, là vùng đồng bằng rìa châu thổ.
Vùng đất này gồm 3 khu vực chính là khu vực rừng U Minh, rừng sác Cà Mau
và dải đất bằng chạy dọc từ Sóc Trăng qua Bạc Liêu. Theo đó, nền đất chưa thực
10
sự vững chãi, cho nên khi tiến hành xây dựng con đường nối liền Bạc Liêu với
Cà Mau, người ta phải đào sâu xuống đến vài mét, lấp kín bằng những bao vôi
bột và đá hộc [107, tr.226].
Do cấu tạo địa hình cịn yếu, khơng ổn định, các lớp đất phù sa dày đặc,
nên hiện nay người dân muốn có nước sạch phải khoan giếng để có nước ngầm
sử dụng. Ở Bạc Liêu người ta phải khoan xuống lòng đất đến 87 m, cịn ở Cà
Mau thì đến tận 169 m mới có thể tìm thấy được nguồn nước sạch.
Diện tích đất canh tác của tỉnh chủ yếu là đất phù sa mặn và nhiễm mặn,
phân bố ở hầu khắc các địa bàn trong tỉnh. Nhóm đất này có đặc điểm là độ phì
nhiêu cao, dễ thốt nước trong mùa mưa, nhưng lại thường xuyên bị thiếu nước
ngọt vào mùa khơ; Riêng nhóm đất phèn, được phân bố ở những nơi có địa hình
tương đối thấp, điều kiện thốt nước khó như vùng trũng ở phía Tây và Tây
Nam, dọc bờ biển. Canh tác trên loại đất này rất vất vả, tốn kém nhiều cơng sức
nhưng hiệu quả thấp; Ngồi ra, trong tỉnh cịn có một số giồng cát nổi, dải đất
này nhỏ và hẹp nằm ven biển thuộc khu bãi nhãn Vĩnh Lợi và ven biển thành
phố Bạc Liêu ngày nay. Tuy ít về diện tích, nhưng đây là nhóm đất được tạo
thành bởi cát biển đã dần dần bớt mặn và trở nên khá phì nhiêu. Trên giồng cát
này, người ta trồng các loại cây ăn quả, các loại rau và một số cây trồng khác
như nhãn, mía, bắp và bông vải…
Sự đa dạng và phong phú của các loại đất canh tác ở tỉnh Bạc Liêu đã tạo
điều kiện cho cư dân trên vùng đất này làm rẫy trên các giồng cao. Những cánh
đồng rộng mênh mông cịn hoang hóa, trong tương lai sẽ là những cánh đồng
trồng lúa.
1.1.3. Khí hậu
Bạc Liêu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết chia thành
hai mùa rõ rệt: mùa khô (mùa nắng) bắt đầu từ tháng 10 - 11 năm trước đến
tháng 4 - 5 năm sau; mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 - 5 đến tháng 10 - 11.
11
Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1867.8 mm. Độ ẩm khơng khí
trung bình 80% vào mùa khơ và 85% vào mùa mưa. Nhiệt độ trung bình năm
26.50C, nhiệt độ thấp nhất trong năm là 22.50C (vào mùa mưa), nhiệt độ cao
nhất trong năm là 31.50C (vào mùa nắng).
Bạc Liêu có khí hậu tương đối ổn định, ở đây nóng ấm quanh năm nên rất
thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Mưa thuận, gió hịa đã tạo điều kiện đặc biệt
cho hoạt động nông nghiệp. Thời tiết ở đây rất lý tưởng cho sự sinh trưởng và
phát triển cây lúa.
1.1.4. Địa hình - Sơng rạch - Bờ biển
Bạc Liêu có địa hình tương đối bằng phẳng và thấp từ Đơng Bắc xuống
Tây Nam. Độ dốc trung bình từ 1 - 1.5 cm/km. Độ cao trung bình từ 0.30 m đến
0.50 m[108, tr.53].
Dạng địa hình trên tạo thuận lợi cho việc tận dụng thủy triều đưa nước
mặn vào ruộng phục vụ ni trồng thủy sản và làm muối.
Sơng ngịi của tỉnh có 2 sơng chính là:
- Sơng Bạc Liêu chảy từ Bạc Liêu về hướng Đông Bắc rồi nhập với sông
Cổ Cị (Vĩnh Châu), dài 35 km, có những nhánh phụ lưu như rạch Trà Nỏ Nhỏ,
rạch Cần Thăng, rạch Thào Lạng Ba, rạch Vàm Xu…
- Sông Gành Hào chảy qua địa bàn Bạc Liêu, khởi đầu từ Cà Mau đổ ra
cửa biển Gành Hào, dài 55 km. Sông này là ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Cà
Mau và Bạc Liêu.
Hệ thống kênh đào khá dày đặc, đóng vai trị quan trọng, làm cho giao
thông thuận lợi, rửa phèn, rửa mặn cho các vùng đất xưa kia hoang hóa của Bạc
Liêu, tạo điều kiện lập các làng mới... Các kênh đào quan trọng như: Bạc Liêu Cà Mau; kênh Bạc Liêu - Cổ Cò - Bãi Xàu; kênh Bạc Liêu - Ngan Dừa; kênh
Vĩnh Mỹ - Phước Long; kênh Chùa Phật; kênh Giá Rai - Phó Sinh - Cạnh Đền;
kênh Hộ Phịng - Chủ Chí; kênh Quản Lộ [3, tr.420-42].
12
Bạc Liêu có bờ biển dài 56 km, phần lớn bờ biển ở đây được phù sa bồi
đắp nên nhiều bùn lầy, tạo điều kiện cho cây cối, nhất là mấm, đước, vẹt, bần…
phát triển. Hàng năm, bờ biển được thiên nhiên bồi đắp, mở rộng thêm diện tích.
Vùng nội thủy của tỉnh Bạc Liêu có nhiều hệ thống kênh rạch chằng chịt
và nối với các sông lớn nên thuận lợi cho việc phát triển giao thông đường thủy.
Bờ biển dài nối liền từ Sóc Trăng đến Cà Mau, nên Bạc Liêu có thể giao lưu
kinh tế và văn hóa với các tỉnh lân cận bằng đường thủy hoặc đường bộ. Xa hơn
nữa, bằng giao thông đường bộ, đường biển và đường thủy, Bạc Liêu có thể giao
thương với vùng Sài Gịn - Chợ Lớn.
1.1.5. Thủy văn và tình trạng ngập mặn
Là một tỉnh ven biển có nhiều sơng, rạch, kênh đào và có bờ biển dài
56 km, do đó chế độ thủy văn của Bạc Liêu bị chi phối bởi chế độ dịng chảy
của sơng Gành Hào, thủy triều của biển Đông nên chế độ bán nhật không đều
(trong một ngày đêm có hai lần thủy triều lên xuống). Tình trạng ngập mặn vào
mùa khơ và đầu mùa mưa, nước mặn xâm nhập vào nội vùng qua các hệ thống
sông và kênh đào ven biển Đông, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.
Sự xâm nhập của nguồn nước mặn diễn ra thường xuyên, ngày càng xâm
nhập sâu vào vùng nước ngọt từ các đợt thủy triều và thấm dần vào lòng đất, đe
dọa đến những vùng đất trũng, làm cuộc sống người dân ln ở tình trạng khó
khăn. Vì vậy, cuộc sống ở đây đòi hỏi họ phải xây dựng những bể chứa, hầm
chứa nước ngọt vào mùa mưa để tích trữ cho mùa khơ. Vào các mùa khơ, khi
nguồn nước dự trữ vơi cạn dần, người dân ở đây phải mua nước sạch được
chuyên chở từ những vùng khác đến, vì thế mà giá nước khơng phải rẻ
[138, tr.253].
Do thiếu ngước ngọt, giao thơng đường bộ cịn hạn chế, nên ruộng nương
vùng Rạch Giá, cũng như vùng Bạc Liêu - Cà Mau không phát triển được. Sản
xuất lúa, gạo trong vùng không đem lại giá trị, nên người nông dân chỉ canh tác
đủ để sử dụng cho gia đình của họ, vì việc chuyên chở lúa, gạo từ Bạc Liêu đến
13
các nơi khác gây nhiều tốn kém, không mang lại giá trị thương mại. Trước khi
người Pháp đến, lúa gạo chưa phải là món hàng xuất cảng ra nước ngồi với quy
mơ lớn, do đó vùng Bạc Liêu, Cà Mau và Rạch Giá bấy giờ chưa phải là vựa lúa
[71, tr.380].
Những điều kiện tự nhiên của Bạc Liêu như trên, vừa là những điều kiện
thuận lợi, nhưng cũng gây nhiều khó khăn cho ngành nơng nghiệp nói riêng và
việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
1.2.1. Về hành chính và dân cư
* Hành chính
Là một vùng đất trẻ, trong lịch sử khai phá và hình thành vùng đất Nam
Kỳ, ba vùng đất Bạc Liêu, Sóc Trăng và Cà Mau tuy là ba nơi khác nhau nhưng
lại có mối quan hệ rất mật thiết với vùng đất Bạc Liêu. Trong một thời gian dài,
Bạc Liêu bao gồm cả Cà Mau, nhưng cũng có thời gian chỉ là một phần của tỉnh
Sóc Trăng. Tiền thân của Bạc Liêu là vùng đất thuộc trấn Hà Tiên, sau thuộc An
Giang và Rạch Giá. Như vậy, trong suốt 300 năm qua, địa danh Bạc Liêu tương
ứng với những đơn vị và địa giới hành chính khác nhau. Sau cùng là tỉnh Bạc
Liêu như ngày nay.
Cho đến giữa thế kỷ XVIII, vùng đất Bạc Liêu về cơ bản vẫn cịn hoang
hóa, một bãi biển âm u với cánh rừng ngập mặn trải dài, dân cư thưa thớt. Danh
từ “Bạc Liêu”, đọc theo tiếng Hoa, giọng Triều Châu gọi là Pơ-Léo, có nghĩa là
xóm nghèo, làm nghề hạ bạc, tức nghề chài lưới, đánh cá đi biển. Pô phát âm
theo tiếng Hán - Việt là “Bạc” và Léo phát âm thành “Liêu”. Một thuyết khác
cho rằng Pó là bót, đồn; Liêu là Lào (Ai Lao) theo tiếng Khmer, vì trước khi
người Hoa đến sinh sống, nơi đây có một đồn lính của người Lào. Người Pháp
dựa theo tiếng Triều Châu Pô-Léo, nên đã phiên âm theo nghĩa ấy là PêcherieChaume (đánh cá và cỏ tranh) [67, tr.15].
14
Từ năm 1757, vùng đất Ba Thắc (Bassac) khi ấy về cơ bản tương ứng với
địa phận 2 tỉnh Bạc Liêu và Sóc Trăng như hiện nay. Đất Ba Thắc chính thức trở
thành một đơn vị hành chính thuộc lãnh thổ của Việt Nam và được chúa Võ
Vương Nguyễn Phúc Khoát phiên vào Châu Định Viễn, Dinh Long Hồ, Phủ Gia
Định.
Năm 1832, vua Minh Mạng bãi bỏ Gia Định thành, đổi các trấn ra thành
các tỉnh gồm: Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên
(gọi là Nam Kỳ lục tỉnh). Theo sự chia đặt mới, một phần đất của tỉnh Bạc Liêu
hiện nay, lúc đó thuộc về tỉnh An Giang, nhưng phần còn lại vẫn thuộc về Hà
Tiên.
Năm 1835, Phủ Ba Xuyên được thành lập. Đây là một trong ba phủ của
tỉnh An Giang, trong đó Phủ Ba Xuyên vẫn bao gồm toàn bộ vùng đất Ba Thắc.
Vào năm Minh Mạng thứ 20 (1839), triều đình cho lập An Phủ sứ, trích địa phận
huyện Vĩnh Định ra làm ba huyện gồm: Phong Nhiêu, Phong Thạnh và Vĩnh
Định. Tổng Định Khánh (thuộc huyện Vĩnh Định) tỉnh An Giang có thơn Châu
Hưng [22, tr.212]. Riêng huyện Phong Thạnh có 3 tổng là Thạnh An, Thạnh
Hịa và Thạnh Hưng. Đây là những đơn vị hành chính tiền thân của các huyện
Thạnh Trị, Vĩnh Châu, Vĩnh Lợi và thành phố Bạc Liêu ngày nay.
Theo Địa bạ của nhà Nguyễn năm 1836, tỉnh Hà Tiên gồm 1 phủ (An
Biên), 3 huyện và 11 tổng. Trong đó tổng Thanh Giang (huyện Kiên Giang) có
thơn Vĩnh Lộc; tổng Long Thủy (huyện Long Xun) có thơn Hịa Thạnh, Mỹ
Thuận, Phước Thạnh, Tân Long, Thạnh Hòa, Long Điền, Phong Thạnh, Tân
Trạch, Mỹ Chánh, Vĩnh Thạnh [20, tr.103]. Đây là vùng đất Bạc Liêu còn lại mà
thời bấy giờ thuộc phủ An Biên (tỉnh Hà Tiên), ngày nay tương ứng với vùng
Vĩnh Lợi và Giá Rai của tỉnh Bạc Liêu.
Như vậy, từ năm 1835, Bạc Liêu là một bộ phận đất đai của phủ Ba
Xuyên, một trong ba phủ của tỉnh An Giang (Tuy Biên, Tân Thành, Ba Xuyên)
và phủ An Biên tỉnh Hà Tiên. Tuy nhiên, năm 1867, thực dân Pháp đánh chiếm
15
An Giang, theo Nghị định ngày 15/7/1867 của Thống đốc Nam Kỳ, phủ Ba
Xuyên được đổi thành hạt Tham biện (Inspection).
Sau khi đánh chiếm tồn bộ Nam Kỳ, chính quyền thực dân Pháp tiến
hành phân chia lại địa giới hành chính ở Nam Kỳ. Năm 1876, chiếu theo Điều 2
của Sắc lệnh ngày 10/2/1873 của Thống đốc Nam Kỳ cho thấy việc cần thiết mở
rộng thuộc địa bằng cách thành lập các khu hành chính để dễ dàng cho các quan
Tham biện cai quản. Thực dân Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính
lớn (circonscription administrative), mỗi khu vực lại được chia nhỏ thành các
“hạt” (arrondissement) gồm có 4 khu hành chính: Sài Gịn, Mỹ Tho, Vĩnh Long
và Ba Thắc [147]. Dưới các khu hành chính lớn là các hạt Tham biện. Vùng đất
Bạc Liêu bấy giờ thuộc hạt Sóc Trăng và một phần của hạt Rạch Giá.
Theo Nghị định ngày 18/12/1882 của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de
Villers, tách tổng Thạnh Hòa và Thạnh Hưng của hạt Sóc Trăng và 3 tổng Long
Thủy, Quảng Long và Quản Xuyên của hạt Rạch Giá để thành lập một hạt mới,
đó là hạt Bạc Liêu (hạt thứ 21 ở Nam Kỳ trong thời kỳ Pháp thuộc). Bạc Liêu
lúc đó là một hạt lớn ở cuối miền đất nước có diện tích bằng tổng diện tích của 2
tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau hiện nay.
Từ khi thành lập hạt Bạc Liêu năm 1882, đến năm 1897, toàn địa bàn Bạc
Liêu cũng chỉ có 5 tổng với 67 làng. Trong đó, tổng Thạnh Hịa có 14 làng, tổng
Thạnh Hưng có 12 làng, tổng Quảng Xuyên có 14 làng, tổng Long Thủy có 18
làng, tổng Quảng Long có 9 làng. Hạt Bạc Liêu khi ấy có diện tích canh tác
810.000 ha, dân số có 25.531 người. Trụ sở của hạt đặt ở Vĩnh Lợi (khu vực chợ
Bạc Liêu ngày nay) [3, tr.67-68].
Một Nghị định khác của Tồn quyền Đơng Dương ban hành ngày
20/12/1899, đổi tên từ hạt tham biện Bạc Liêu thành tỉnh Bạc Liêu. Từ năm
1900 đến 1945, cơ cấu hành chính của tỉnh Bạc Liêu ln bị xáo trộn. Từ năm
1900 đến 1910 tỉnh Bạc Liêu được chia làm 3 quận (Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Cà
Mau) với 5 tổng (theo Nghị định ngày 16/2/1910); Từ năm 1910 đến 1923, theo
16
đề nghị của Chủ tỉnh Bạc Liêu, bằng Công văn số 20C ngày 3/9/1917 và số 942
ngày 24/9/1917, Thống đốc Nam Kỳ ban hành Nghị định ngày 5/10/1917, chia
địa bàn tỉnh Bạc Liêu thành 4 quận (Cà Mau, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu và Giá Rai).
Hơn 5 năm năm sau (ngày 6/4/1923), theo Nghị định số 1078 của Thống đốc
Nam Kỳ, tổ chức hành chính tỉnh Bạc Liêu được sắp xếp lại, nhiều làng nhỏ
được sáp nhập; Từ năm 1923 đến 1944, thêm nhiều lần sắp xếp lại tổ chức hành
chính của tỉnh, nhưng 4 quận (Cà Mau, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu và Giá Rai) vẫn
tồn tại cho đến hết thời Pháp thuộc [3, tr.70].
Như vậy, tuy có nhiều lần thay đổi về tên gọi và diện tích, nhưng tỉnh Bạc
Liêu ln có những đóng góp to lớn góp phần phát triển các lĩnh vực kinh tế,
văn hóa, xã hội… cho tồn vùng Nam Kỳ.
* Về dân cư
Đồng bằng sơng Cửu Long có cơ cấu dân cư được hình thành trong quá
trình khai hoang lập ấp, và “những ai mộ dân khẩn đất thì trở thành địa chủ lớn,
cịn phần nhiều dân được mộ thì trở thành tá điền, người làm thuê, ở đợ, quan
hệ chủ tớ là quan hệ bóc lột” [32, tr.198]. Lịch sử hình thành và phát triển của
vùng đất Bạc Liêu cũng gắn liền với lịch sử khẩn hoang và hình thành các cộng
đồng cư dân nơng nghiệp Việt - Hoa - Khmer ở vùng đất này nói riêng và cả
Nam Kỳ nói chung.
Cho đến nay vẫn chưa có được những số liệu cụ thể về dân số ở Bạc Liêu
trong buổi đầu khai phá. Từ khi có mặt các quan tham biện thực dân đầu tiên ở
Bạc Liêu, họ đã ghi lại khung cảnh hoang vắng ở vùng đất này, người dân nơi
đây hễ nghe tiếng máy tàu là ai nấy đều chạy trốn. Nhà cửa thường khuất lấp ở
ngọn rạch, nơi giồng đất cao, vàm rạch là bãi bùn đầy cây cỏ. Nếu cho tàu chạy
ngồi sơng cái, nơi nước sâu thì khó bề nắm được tình hình. Việc kê khai về đất
ruộng và dân số của hương chức làng thường sai lệch… [69, tr.279].
Tác giả Nguyễn Thế Anh trong cuốn Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các
vua triều Nguyễn có dẫn ra số liệu dân đinh Nam Kỳ lục tỉnh vào năm 1847 là
17
165.598 người, trong đó An Giang có 22.998 người. Trong số liệu trên, không
biết dân số Bạc Liêu chiếm tỷ lệ là bao nhiêu, chỉ biết rằng cho đến năm 1882,
dân bộ trong tỉnh phỏng chừng 25.000 người (có thể là 30.000) tức là bằng số
dân ở tỉnh Tây Ninh, cao hơn số dân Rạch Giá thời bấy giờ [69, tr.283]. Thế
nhưng, từ khi thực dân Pháp đặt chân đến vùng đất này, họ đẩy mạnh tốc độ
khai thác thì dân số Bạc Liêu đã tăng một cách đột biến: năm 1896 là 46.498
người; năm 1927 tăng lên 196.424 người; năm 1931 là 231.000 người; năm
1936 có 244.000 người; năm 1943 con số lên đến 317.000 người [69, tr.294].
Chỉ số gia tăng dân số còn tiếp tục tăng nhanh trong những năm sau đó.
Bạc Liêu là một tỉnh đa dân tộc. Các dân tộc chủ yếu là Kinh, Hoa,
Khmer, ngoài ra cịn có một số dân tộc khác như Chăm, Ấn, Mã Lai… Các số
liệu cụ thể cho biết: vào năm 1927 tại tỉnh có 139.221 người Kinh; 30.432 người
Khmer; 10.054 người Hoa và 16.282 người Minh Hương (người Hoa lánh nạn
sang Việt Nam theo phong trào phản Thanh phục Minh); 201 người từ những
dân tộc khác như Chăm, Mã Lai và Ấn Độ [140, tr.460]. Mười năm sau đó
(1937), số lượng người Kinh tăng lên 186.500 người; Khmer là 32.500 người và
người Minh Hương là 17.500 người… [149].
Quá trình hình thành và phát triển vùng đất mới này gắn liền với dấu chân
của 3 dân tộc Việt - Hoa - Khmer. Tuy khác nhau về nguồn gốc và trình độ phát
triển, nhưng giữa họ vẫn ln có sự đồng cảm cùng chung lưng đấu cật, khai
phá, xây dựng và bảo vệ vùng đất này. Trong quá trình phát triển cộng đồng, văn
hóa của các dân tộc đã hịa quyện vào nhau trên cơ sở tơn trọng tơn giáo, tính
ngưỡng, phong tục và tập quán của nhau. Chính những điểm chung đó đã tạo
nên sự cố kết cộng đồng, tạo nên sự hài hòa trong cuộc sống kinh tế, xã hội, văn
hóa của 3 dân tộc Việt - Hoa - Khmer. Đó cũng chính là nét đẹp, nét đặc sắc của
văn hóa Bạc Liêu - sự thống nhất trong da dạng của văn hóa tộc người.
18
1.2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Vùng đồng bằng sơng Cửu Long nói chung và An Giang nói riêng là vùng
đất đã có lịch sử lâu đời. Trước khi người Việt đến sinh sống vùng đất này vẫn
còn hoang vu. Từ thế kỷ XVII, bắt đầu có người Việt vào khai khẩn lập làng, lập
ấp. Do cùng tồn tại trên vùng đất này, nên các cư dân thuộc nhiều thành phần
dân tộc khác nhau đều chung lưng đấu cật để khẩn hoang và phát triển
kinh tế - xã hội.
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất tiếp nhận và nuôi sống những lớp
nông dân nghèo cùng cực. Phần đông trong số họ là những nông dân nghèo bị
phá sản từ miền Trung kéo đến. Vì có chung hồn cảnh và thân phận, nên những
lưu dân người Việt đã tiếp xúc với người Khmer và cùng với họ đẩy mạnh công
cuộc chinh phục vùng đồng bằng sông Cửu Long [66, tr.32].
Từ cuối thế kỷ XVII, việc khai phá vùng đất này ngày càng được mở rộng
hơn trước, song vì điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, lực lượng lao động lại q
ít, thêm vào đó các lần xâm lược của phong kiến Xiêm La, những trận đánh giữa
Nguyễn Ánh và Tây Sơn đã làm hạn chế sự phát triển của vùng đất này. Cho đến
cuối thế kỷ XVIII, chỉ mới có một số khu vực nhỏ cao ráo ở ven biển và số
giồng nhỏ ven các con sông ở bán đảo Cà Mau là được khai phá, nên kết quả
còn nhiều hạn chế [65, tr.71-72].
Riêng vùng đất Bạc Liêu được khai phá muộn bởi ban đầu triều Nguyễn
chỉ chú trọng việc chiêu mộ lưu dân đến khai khẩn vùng An Giang để phục vụ
việc bảo vệ biên giới Tây Nam và các đồn binh, quan quân người Việt cai quản
ở vùng Tiền Giang. Theo các nguồn sử liệu cho thấy, rừng phía Sóc Trăng, Bạc
Liêu được triều đình áp dụng cơ chế tự trị rất thoáng đối với người Khmer, khi
thực dân Pháp đến chiếm đóng, các quan phủ và huyện của vùng này vẫn còn là
người Khmer.
Cũng vào thế kỷ XVIII, vùng đất Bạc Liêu còn tiếp nhận thêm một lớp cư
dân mới đó là những người Hoa.
19
Người Hoa đến Bạc Liêu theo nhiều đợt. Tuy nhiên, đợt đầu vào năm
1757 là đợt di cư tập trung theo kế hoạch của triều Nguyễn; những đợt sau trong
suốt thế kỷ XIX và XX đều là di cư tự phát, đa số với mục đích tìm sinh kế. Hoa
kiều dù là người Triều Châu thuộc Minh Hương hay những người Triều Châu
đến trong các thế kỷ sau đó đều đóng góp cơng sức của mình cho q hương
Bạc Liêu, nhất là trong hai mặt kinh tế và văn hoá [111, tr.34].
Số người Triều Châu đến Bạc Liêu đa số là dân lao động nghèo. Họ làm
việc cần cù, tạo ruộng, lập vườn. Khi có chút ít vốn liếng, họ chuyển sang buôn
bán, trao đổi với những vùng xung quanh, dần dần biến vùng này thành một thị
trấn nhỏ, khá sầm uất, thu hút đông đảo người Việt, người Hoa và người Khmer
các nơi khác tụ hội về đây sinh sống.
Chính sách khuyến khích khẩn hoang các vùng đất mới của triều Nguyễn
đã tác động rất lớn đến khu vực An Giang - Hà Tiên, nhờ đó nơi đây trở thành
điểm thu hút lưu dân đến khẩn hoang lập làng. Dân cư tập trung ngày một đông,
khiến cho diện mạo vùng đất này có sự thay đổi nhanh chóng, mà người Việt
đóng vai trị chủ yếu. Kết quả đạc điền của nhà Nguyễn vào năm 1836 cho thấy:
- Tổng Long Thủy (huyện Long Xuyên) có 10 làng
- Tổng Thanh Giang (huyện Kiên Giang) có 1 làng
- Tổng Định Khánh (huyện Vĩnh Định) có 1 làng
Các số liệu cụ thể như sau [20, tr.211-272]:
* Long Điền thôn (xứ Cần Bãi):
Đông giáp 2 thôn Phong Thạnh và Mỹ Thuận; Tây giáp thôn Phong
Thạnh; Nam giáp thôn Phong Thạnh; Bắc giáp thôn Mỹ Thuận và thôn Phong
Thạnh.
Thực canh điền thổ: 66 mẫu 7 sào 5 thước 3 tấc.
+ Sơn điền: 43 mẫu 7 sào.
+ Ruộng muối: 23 mẫu 5 thước 3 tấc (2 chủ phân canh là 20 mẫu 6 sào 10
thước và 2 mẫu 3 sào 10 thước 3 tấc)