Tải bản đầy đủ (.pdf) (168 trang)

Giao lưu văn hóa việt hoa ở sài gòn thành phố hồ chí minh từ thế kỉ xvii đến đầu thế kỉ xxi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.91 MB, 168 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Đinh Thị Bích

GIAO LƯU VĂN HĨA VIỆT-HOA Ở SÀI GỊNTHÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ THẾ KỈ XVII
ĐẾN ĐẦU THẾ KỈ XXI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh – 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Đinh Thị Bích
GIAO LƯU VĂN HĨA VIỆT-HOA Ở SÀI GỊNTHÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ THẾ KỈ XVII
ĐẾN ĐẦU THẾ KỈ XXI

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 03 13

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ THANH THANH

Thành phố Hồ Chí Minh – 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả được trình bày trong luận văn này là trung thực và chưa được ai cơng bố trong bất
kì cơng trình nào.

Tác giả luận văn


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ
HỘI ẢNH HƯỞNG QUAN HỆ VĂN HĨA VIỆT – HOA ......................................11
1.1. Q trình di cư, cộng cư của người Việt và người Hoa .........................................11
1.1.1. Quá trình di cư, cộng cư của người Việt vào vùng đất Nam Bộ nói chung
và Sài Gịn-Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng .............................................................11
1.1.2. Q trình di cư, cộng cư của người Hoa vào vùng đất Nam Bộ nói chung
và Sài Gịn - Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng ...........................................................15
1.2. Những điều kiện ảnh hưởng đến quá trình giao lưu văn hóa Việt – Hoa..............26
1.2.1. Điều kiện tự nhiên.......................................................................................26
1.2.2. Điều kiện xã hội ..........................................................................................28
1.3. Những đặc trưng văn hóa vật chất và tinh thần của người Việt, người Hoa trên
vùng đất Nam Bộ ...........................................................................................................31
1.3.1. Đặc trưng văn hóa của người Việt trên vùng đất Nam Bộ .........................31
1.3.2. Đặc trưng văn hóa của người Hoa trên vùng đất Nam Bộ .........................33
CHƯƠNG 2. QUÁ TRÌNH GIAO LƯU VIỆT - HOA TRONG LĨNH VỰC VĂN
HĨA VẬT CHẤT Ở SÀI GỊN - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ THẾ KỈ
XVII ĐẾN ĐẦU THẾ KỈ XXI ....................................................................................39
2.1. Các khái niệm văn hóa và giao lưu văn hóa ...........................................................39

2.1.1. Khái niệm văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần .......................................39
2.1.2. Khái niệm giao lưu, tiếp xúc, tiếp biến văn hóa .........................................41
2.2. Giao lưu Việt - Hoa trên lĩnh vực văn hóa vật chất trong các thế kỷ XVII - XXI..............43
2.2.1. Trang phục ..................................................................................................43
2.2.2. Ẩm thực ......................................................................................................48
2.2.3. Nhà ở ...........................................................................................................54
2.2.4. Văn hoá sản xuất .........................................................................................57


CHƯƠNG 3. QUÁ TRÌNH GIAO LƯU VIỆT - HOA TRONG LĨNH VỰC VĂN
HĨA TINH THẦN Ở SÀI GỊN - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ THẾ KỈ
XVII ĐẾN ĐẦU THẾ KỈ XXI ....................................................................................68
3.1. Giao lưu văn hóa qua nghi lễ chuyển đổi của người Hoa ......................................68
3.1.1. Lễ đầy tháng................................................................................................68
3.1.2. Lễ khai học..................................................................................................69
3.1.3. Nghi lễ đám cưới ........................................................................................69
3.1.4. Lễ mừng thọ ................................................................................................72
3.1.5. Tang lễ ........................................................................................................74
3.2. Âm nhạc ..................................................................................................................79
3.3. Hội họa ...................................................................................................................80
3.4. Lĩnh vực tín ngưỡng, tơn giáo ................................................................................82
3.4.1. Tín ngưỡng..................................................................................................82
3.4.2. Tơn giáo ......................................................................................................93
3.5. Lễ hội ....................................................................................................................108
3.5.1. Lễ hội của người Hoa ở Sài Gịn-Thành phố Hồ Chí Minh .....................108
3.5.2. Lễ hội của người Việt ở Sài Gịn-Thành phố Hồ Chí Minh .....................110
3.6. Văn học .................................................................................................................114
3.7. Ngôn ngữ, giáo dục ..............................................................................................115
3.7.1. Giao lưu văn hóa qua lĩnh vực ngơn ngữ..................................................115
3.7.2. Giao lưu văn hóa qua lĩnh vực giáo dục ...................................................118

CHƯƠNG 4. GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT - HOA TRONG XU THẾ HỘI
NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN .........................................................................................121
4.1. Vai trò của người Hoa và người Việt ...................................................................121
4.1.1. Vai trò của người Hoa...............................................................................121
4.1.2. Vai trò của người Việt ..............................................................................124
4.2. Những thuận lợi và khó khăn của giao lưu văn hóa Việt - Hoa ...........................125
4.2.1. Thuận lợi ...................................................................................................125
4.2.2. Khó khăn ...................................................................................................130


4.3. Biện pháp thúc đẩy quan hệ giao lưu văn hóa Việt - Hoa ở Thành phố Hồ Chí
Minh ............................................................................................................................133
4.3.1. Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc Việt - Hoa .......................................133
4.3.2. Phát huy tiềm lực kinh tế của người Hoa .................................................136
4.3.3. Phát triển văn hóa, giáo dục ......................................................................137
4.3.4. Tín ngưỡng, tôn giáo: ...............................................................................138
KẾT LUẬN ................................................................................................................143
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................149


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học
kĩ thuật và công nghệ, nhu cầu tiếp xúc văn hóa và q trình giao lưu văn hóa đang
ngày càng diễn ra phổ biến, đã đặt ra nhiều vấn đề về quan hệ giữa văn hóa và dân tộc,
liên quan mật thiết và cấp thiết đến chính sách đối nội và đối ngoại của nhiều quốc gia
trên thế giới.
Việt Nam cũng khơng là ngoại lệ. Sài Gịn - Thành phố Hồ Chí Minh của Việt

Nam từng được mệnh danh là “hịn ngọc Viễn Đơng”, là điểm đến và giao lưu của
nhiều giá trị văn hóa trên thế giới. Diện mạo của Sài Gịn –TP Hồ Chí Minh, một
thành phố năng động và có nhiều giá trị văn hóa như ngày nay là kết tinh thành quả
sáng tạo không mệt mỏi của nhiều thế hệ là cư dân của vùng đất này từ bao đời, từ
thuở khai hoang mở đất đến tận ngày nay, biến một vùng hoang vu đầm lầy thành một
trung tâm chính trị- kinh tế- văn hóa giáo dục lớn nhất Việt Nam. Vùng đất này với
lịch sử hơn 300 năm còn là nơi hội tụ, gặp gỡ và giao lưu văn hóa của nhiều cộng đồng
dân tộc trên đất nước ta. Theo Trịnh Hòa Đức trong “Gia Định thành thơng chí”: “Gia
Định là đất phương Nam của người Việt, khi mới khai thác lưu dân nước ta cùng
người kiều ngụ như Đường (Hoa), người Cao Miên, người Tây Phương, người Phú
Lang Sa (Pháp), người Hồng Mao ( Anh), Mã Cao, người Đồ Bà (Giava) ở lẫn
lộn”[38, tr2b-3a]. Như một hiện tượng lịch sử tự nhiên, mỗi cộng đồng tộc người đến
đây sinh sống đều mang theo giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Trong
quá trình cộng cư, quá trình giao lưu văn hóa giữa các tộc người đã diễn ra làm cho
vùng đất Sài Gịn có một nền văn hóa hết sức phong phú và đa dạng.
Trong cộng đồng các dân tộc ở Sài Gịn-TP Hồ Chí Minh, người Việt và người
Hoa là hai tộc người có dân số nhiều hơn cả. Theo số liệu thống kê gần đây, người
Việt chiếm 89,91% 1 dân số thành phố. Họ vốn là những lưu dân từ miền Bắc, miền
Trung đi khai phá vùng đất mới, là lực lượng quan trọng nhất trong công cuộc khai
1

Theo kết quả điều tra dân số năm 2009


2

phá vùng đất Nam Bộ. Văn hóa Việt đã có một vai trị chủ đạo, có sức lan tỏa và ảnh
hưởng đến các cộng đồng tộc người khác, đồng thời lĩnh hội các giá trị của các tộc
người cộng cư để làm phong phú thêm bản sắc văn hóa của mình.
Ở Việt Nam, người Hoa có mặt ở hầu hết các tỉnh nhưng đơng nhất là thành

phố Hồ Chí Minh chiếm 9,8% dân số thành phố-tỉ lệ cao thứ hai sau người Việt.Vì
nhiều lý do khác nhau họ đến Sài Gòn khi người Khmer và người Việt đã định cư
trước đó. Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, họ ln chủ động, tích cực hịa
nhập đồng thời giữ được những nét đặc thù của dân tộc mình. Ngày nay người Hoa trở
thành một bộ phận cư dân quan trọng và năng động trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, có những đóng góp đáng kể trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
đổi mới đất nước.
Đề tài này nghiên cứu quá trình giao lưu văn hóa Việt-Hoa ở Sài Gịn- Thành
phố Hồ Chí Minh với mục đích đánh giá được khách quan, khoa học về vị trí, vai trị
và đóng góp của hai dân tộc Việt-Hoa trong q trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam
giàu bản sắc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Việc nghiên cứu đề tài cũng
nhằm phục dựng bức tranh giao lưu văn hóa ở thành phố Hồ Chí Minh từ xưa đến nay
một cách chân thực, sinh động, góp phần làm rõ nét hơn văn hóa Sài Gịn, văn hóa
Thành phố Hồ Chí Minh, một mảng màu tươi đẹp của bức tranh văn hóa phương nam,
bức tranh văn hóa Việt Nam…
Tìm hiểu q trình giao lưu văn hóa giữa dân tộc Việt, Hoa ở thành phố Hồ Chí
Minh góp phần làm phong phú thêm lịch sử vùng đất Sài Gịn, vùng đất có bề dày lịch
sử-văn hóa hơn 300 năm có q trình giao lưu, tiếp biến văn hóa diễn ra với tốc độ
mau lẹ.
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là văn hóa ( văn hóa vật chất và văn hóa tinh
thần) của người Việt, người Hoa và quá trình giao lưu, tiếp biến giữa hai dân tộc này ở
Thành phố Hồ Chí Minh.


3

2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian : Thành phố Hồ Chí Minh. Đơi khi tác giả cũng nghiên cứu

một số nơi khác như ở Nam Bộ để so sánh.
- Vế thời gian : từ thế kỉ XVII đến nay. Người viết chọn mốc thời gian thế kỉ
XVII vì gắn với sự kiện 1698-mốc thời gian xem như Sài Gịn được thành lập.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của đề tài là phục dựng bức tranh văn hóa của người
Việt và người Hoa ở Sài Gòn- Thành phồ Hồ Chí Minh nói riêng và vùng đất Nam Bộ
nói chung. Trên cơ sở đó phát hiện ra những nét riêng biệt, thấy được sự giao lưu, ảnh
hưởng lẫn nhau cũng như những nét tương đồng của hai dân tộc Việt-Hoa.
- Đánh giá một cách khách quan, khoa học về vị trí, vai trị và đóng góp của hai
dân tộc Việt- Hoa trong q trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam giàu bản sắc, một
nền văn hóa thống nhất trong đa dạng.
- Cung cấp thêm những tư liệu làm phong phú lịch sử vùng đất Sài Gịn- Thành
phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu về lịch sử di cư, tụ cư của cộng đồng dân tộc Việt, Hoa vào vùng
đất Sài Gịn nói chung và Nam Bộ nói riêng.
- Nghiên cứu văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người Việt, người Hoa
đồng thời tìm ra những biểu hiện của sự giao lưu, tiếp biến văn hóa. Qua đó tìm ra
những nét riêng, những nét tương đồng về giao lưu văn hóa Việt- Hoa ở Sài GịnThành phố Hồ Chí Minh.
- Đề tài cũng nêu ra vị trí, vai trị của văn hóa Việt, Hoa đối với lịch sử văn hóa
dân tộc Việt Nam và đưa ra những phương hướng, giải pháp, kiến nghị để phát huy giá
trị văn hóa truyền thống của dân tộc trong xu thế hội nhập và phát triển.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Những cơng trình nghiên cứu về văn hóa người Hoa
Tài liệu quan trọng và hầu như duy nhất về vùng Sài Gịn-Gia Định nói riêng và
Nam Bộ nói chung là“Gia Định thành thơng chí”, Trịnh Hồi Đức. Ngồi ra cịn có


4


sách của các giáo sĩ, thương nhân y sĩ Tây phương viết về Sài Gòn khi họ viếng thăm
nơi này vào cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX như John White, George
Finlayson…Không chỉ ghi chép về lịch sử sài Gịn trong “Gia Định thành thơng chí”
cịn đề cập đến sự di dân của người Hoa các phong tục tập quán, tín ngưỡng, sinh hoạt
vật chất một cách khái quát của người Hoa ở Đồng Nai- Gia Định.
Tác giả Khương Hữu Điểu trên tạp chí “Cấp Tiến” ở Sài Gịn 1970 có bài
“Người Việt gốc Hoa và nền kinh tế Việt Nam” phân tích vai trị của người Hoa trong
hoạt động kinh tế ở Việt Nam nói chung và Sài Gịn-Chợ Lớn nói riêng.
Bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo năm 1973 bộ “Đại Nam nhất thống chí :
Lục tỉnh Nam Việt” cũng nói đến sự di dân của người Hoa vào Đồng Nai và Nam Bộ
cùng với sinh hoạt kinh tế, văn hóa của người Hoa ở vùng đất mới này.
Từ sau 1975 nghiên cứu về hoạt động kinh tế người Hoa có nhiều cơng trình
được cơng bố. Năm 1987 tác giả Trần Khánh đã bảo vệ luận án phó tiến sĩ “Những
khuynh hướng cơ bản phát triển xã hội và chính trị tộc người cộng đồng người Hoa ở
Việt Nam (từ nửa sau thế kỉ XIX đến năm 1945 ở miền Bắc và đến năm 1975 ở miền
Nam )”. Năm 1989, Viện khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh và Ban cơng tác
người Hoa đã hợp tác nghiên cứu chương trình “Những biến đổi kinh tế-xã hội của
người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh từ sau 1975”
Từ những năm 90 của thế kỉ XX đến nay ngày càng có nhiều cơng trình nghiên
cứu tiêu biểu là các tác giả: Phan An, Trần Hồng Liên, Phan Thị Yến Tuyết, Phan
Ngọc Nghĩa …với tiêu đề “Chùa Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh”, xuất bản 1990.
Cuốn sách trình bày chi tiết về quá trình hình thành các cơ sở tín ngưỡng, tơn giáo của
người Hoa cùng với kiến trúc, nghệ thuật trang trí, điêu khắc và sinh hoạt lễ hội của
các cơ sở tín ngưỡng tơn giáo này.
Nguyễn Cơng Bình, Lê Xn Diện, Mạc Đường, “Văn hóa và cư dân đồng
bằng sông Cửu Long”, 1990 miêu tả văn hóa tinh thần của các dân tộc trong đó có
người Hoa ở Nam Bộ với những nội dung đề cập đến hệ thống thờ tự của người Hoa.
Bia chữ Hán trong Hội quán người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh của các tác
giả Litana, Võ Văn Sổ, Nguyễn Cẩm Thúy (chủ biên), Cao Tự Thanh, Nhà xuất bản

Khoa học xã hội 1999 gồm có hai phần : phần nghiên cứu và phần văn bản. Phần


5

nghiên cứu gồm 3 bài. Phần văn bản là một sưu tập gồm 49 bia của 11 Hội quán
người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh được phiên dịch từ chữ Hán ra chữ Việt. Mỗi
Hội quán lại có một bản tóm tắt lịch sử xây dựng, trùng tu Hội quán, có ảnh, có sơ đồ
và có bản tóm tắt các Hội quán. Đây là những cứ liệu gốc giúp các nhà nghiên cứu về
sử học, dân tộc học, xã hội học, kinh tế học... tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về đề tài
người Hoa.
Vũ Lê, Văn hóa người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh , Tạp chí văn hóa nghệ
thuật số 12/2004 trình bày những nét khái qt quá trình người Hoa gia nhập cộng
đồng dân tộc Việt Nam, những đóng góp về văn hóa của họ đối với sự phát triển kinh
tế, văn hóa.
Phan An, Người Hoa ở Nam Bộ, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2005 là một cơng
trình nghiên cứu khá đầy đủ về quá trình di cư, tụ cư của người Hoa ở Nam Bộ và thành
phố Hồ Chí Minh, những đặc trưng về sinh hoạt kinh tế, văn hóa xã hội của họ.
Châu Thị Hải, Người Hoa Việt Nam và Đông Nam Á hình ảnh hơm qua và vị
thế hơm nay, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2006. Đây là một cơng trình có chiều sâu
lịch sử tạo dựng bộ mặt kinh tế, văn hóa đầy triển vọng của người Hoa ở Việt Nam và
khu vực Đông Nam Á.
Phan Thị Yến Tuyết, Cao Tự Thanh, Người Hoa ở Sài Gòn-Thành Phố Hồ Chí
Minh, Nhà xuất bản văn hóa văn nghệ 2013 giới thiệu những vấn đề, sự kiện, nhân vật
nổi bật trong lịch sử phát triển của cộng đồng người Hoa ở Gia Định, từ đó nêu ra
những đặc điểm lịch sử về kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng dân tộc này.
Nghiên cứu về văn hóa của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng có
nhiều cơng trình tiêu biểu như : Đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người Hoa
ở Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Ngô Tuấn Phương-Trường đại học khoa
học Xã Hội và Nhân Văn, 2007; Giao lưu văn hóa Việt-Hoa qua các cơ sở tín

ngưỡng-tơn giáo của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Trần
Hạnh Minh Phương- Trường đại học khoa học Xã Hội và Nhân Văn, 2003; Tín
ngưỡng của người Hoa ở Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Trần
Đăng Kim Trang, Trường đại học khoa học Xã Hội và Nhân Văn, 2008; Văn hóa hội


6

quán của người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học
khoa học Xã Hội và Nhân Văn, 2008.
Ngồi ra cịn một số bài báo, tạp chí viết về người Hoa ở thành phố như : Mạc
Đường, Người Hoa trong quá trình phát triển ở Thành phố Hồ Chí Minh, Dân tộc học,
1994. Tác giả Châu Hải với bài viết : “ Người Hoa ở Việt Nam trong âm mưu bành
trướng của các hoàng đế Trung Hoa (từ thế kỉ XI-XIX), Dân tộc học, “Tính dung hợp
trong tơn giáo tín ngưỡng của người Hoa ở Việt Nam, Văn hóa dân gian; Lê Quốc
Lâm, Những nét đẹp văn hóa người Hoa thành phố Hồ Chí Minh, Văn hóa các dân
tộc, 2001…Dương Văn Huề, Thêm đơi điều về các nhóm người Hoa ở Gia Định thời
các chúa Nguyễn, Kỉ yếu hội thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế
kỉ XVII-XIX, 2002
Tình hình nghiên cứu lịch sử hình thành vùng đất Nam Bộ nói chung và Sài
Gịn nói riêng có các cơng trình sau :
“Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ”của Huỳnh Lứa, Nhà xuất bản Thành phố
Hồ Chí Minh, 1987 trình bày tiến trình nhân dân ta khai khẩn và mở mang vùng đất
Nam Bộ từ đầu thế kỉ XVII đến giữa thế kỉ XX.
Hội khoa học Lịch sử Việt Nam, Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, Nhà xuất
bản Thế giới, 2008 nghiên cứu vùng đất Nam Bộ từ thế kỉ I (nhà nước Phù Nam ra
đời) đến nay, quá trình xác lập chủ quyền, những bằng chứng pháp lý của Việt Nam.
Đồng thời trình bày cuộc sống của cư dân Nam Bộ, mối quan hệ đoàn kết, giao thoa
văn hóa của các cư dân.
Bến Nghé xưa, Sơn Nam, Nhà xuất bản trẻ 1997 tìm hiểu tồn diện về đất và

con người Gia Định-Sài Gòn dưới thời Gia Long đến nay. Huỳnh Ngọc Tráng, Sài
Gòn Gia Định xưa, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1997; Vương Hồng Sển,
Sài Gòn năm xưa, Nhà xuất bản Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh nói về q trình hình
thành vùng đất Sài Gòn, lịch sử di cư, tụ cư của cư dân Sài Gòn, nguồn gốc từ “Sài
Gòn”…GS. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh
tập 1, 2, 3, 4, Nhà xuất bản TP.Hồ Chí Minh, 1998 là bộ sách khái quát đầy đủ và có
hệ thống diện mạo, văn hóa của thành phố qua ba thế kỉ hình thành và phát triển.


7

Sài Gòn xưa và nay của tác giả Trần văn Giàu, Trần Bạch Đằng…, Nhà xuất
bản trẻ 1998 tập hợp nhiều bài viết về Sài Gòn xưa và nay trên nhiều lĩnh vực : lịch
sử, xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa…
TS. Trần Thị Thanh Thanh, Nhìn lại việc khai phá của người Việt trên đất Gia
Định thế kỉ XVII-XVIII, Kỉ yếu hội thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ những vấn đề lịch
sử thế kỉ XVII-XIX, 2002; Lý Tùng Hiếu, Ngơn ngữ-Văn hóa vùng đất Sài Gịn và
Nam Bộ, Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh 1992; Đồn Thanh Hương, Hồ Hữu Nhật,
Lược sử 300 năm Sài Gòn-TP. Hồ Chí Minh (1698-1998), Nhà xuất Bản trẻ 1999 ;
PGS – TS Phan Xuân Biên (2006), Sài Gòn – Tp.HCM con người và văn hóa trên
đường phát triển, Viện nghiên cứu xã hội TpHCM, Nxb. Đại học Quốc gia TpHCM.
PGS.TS. Bùi Xuân Đính, Các tộc người ở Việt Nam, Nhà xuất bản Thời Đại,
2012 trình bày một cách khái quát những yếu tố văn hóa vật chất và tinh thần của
cộng đồng các dân tộc trên đất nước Việt Nam, riêng vùng đất Nam Bộ tập trung vào
bốn tộc người Việt, Khmer, Chăm, Hoa.
Ở nước ngồi : ơng Tsai Mawkuey bảo vệ luận án Tiến sĩ “Người Hoa ở miền
Nam Việt Nam”, tại Paris năm 1968. Đây là một công trình nghiên cứu về người Hoa ở
miền Nam tập trung ở Sài Gịn. Cơng trình có nhiều tư liệu q báu.
“Người Hoa tại Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Văn Huy xuất bản tại Pari 1993
cung cấp một nguồn tư liệu về hoạt động của người Hoa tại Việt Nam qua các thời kì

lịch sử nhất là các chính sách của chính quyền đối với người Hoa ở Việt Nam qua các
giai đoạn lịch sử.
Tại Singapore, Trần Khánh xuất bản sách “ Cộng đồng người Hoa với sự phát
triển kinh tế ở Việt Nam”, tác giả đã hệ thống các số liệu thống kê kinh tế của người
Hoa ở Sài Gịn trước năm 1975 và ở Thành phố Hồ Chí Minh sau năm 1975.
Viết về văn hóa người Việt ở Nam Bộ nói chung và Sài Gịn nói riêng có
nhiều cơng trình đề cập tới như :
Luận án tiến sĩ của tác giả Trần Hồng Liên “Đạo Phật trong cộng đồng người
Việt ở Nam Bộ Việt Nam (từ thế kỉ XVII-1975)”, Viện khoa học xã hội Thành phố Hồ
Chí Minh, 1993, tìm hiểu tiến trình phát triển của đạo Phật ở Nam Bộ qua từng giai


8

đoạn lịch sử. Vai trò của đạo Phật trong đời sống văn hố người Việt tai đây. Làm rõ
đặc tính địa phương và tính dân tộc của Phật giáo Nam Bộ trong Phật giáo Việt Nam.
Ngô Văn Lệ (2010), Văn hóa truyền thống làng Việt Nam Bộ, trong Hội
thảo: Những vấn đề kinh tế – xã hội trong lịch sử Nam Bộ, Viện Phát triển bền vững
vùng Nam Bộ – Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử tổ chức, tháng 5; Thạch Phương – Hồ
Lê – Huỳnh Lứa – Nguyễn Quang Vinh (1992), Văn hóa dân gian người Việt ở Nam
Bộ, Nxb. KHXH, Hà Nội. Hội Khoa học lịch sử thành phố Hồ Chí Minh (2005), Nam
Bộ đất và người, Tập 3, 4,5,6, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tóm lại hầu hết các cơng trình nghiên cứu về văn hóa ở Nam Bộ nói chung và
Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng từ thế kỉ XVII đến nay khá phong phú. Tác giả luận
văn có kế thừa những kết quả nghiên cứu trên cơ sở phân tích, so sánh, nhận định của
bản thân. Hơn nữa người viết còn sử dụng kết quả điền dã, thực tế ở thành phố.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn người viết đã vận dụng quan điểm duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử đồng thời dựa trên quan điểm của Đảng cộng sản Việt

Nam về việc nghiên cứu dân tộc.
Luận văn sử dụng những phương pháp sau :
- Phương pháp lịch sử là phương pháp chủ yếu: khi tìm hiểu về văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần của các dân tộc Việt, Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh
-Phương pháp logic: rút ra những nét chung của dân tộc Việt, Hoa trong q
trình giao lưu văn hóa cùng những nét riêng về văn hóa của họ ở Thành phố Hồ Chí
Minh so với Nam Bộ.
- Phương pháp điền dã cũng được sử dụng khi người viết quan sát trực tiếp
những cơ sở kinh tế, nhà cửa, cơ sở tín ngưỡng, những lễ hội văn hóa tiêu biểu của hai
dân tộc này ở thành phố Hồ Chí Minh.
- Ngồi ra còn sử dụng phương pháp của những ngành liên quan: xã hội học,
dân tộc học, thống kê…Ngoài ra các biện pháp kĩ thuật như : chụp ảnh, quay
phim…cũng được tác giả sử dụng khi cần thiết.


9

5.2. Nguồn tài liệu
- Nguồn tài liệu thư tịch : Luận văn sử dụng những tư liệu của các nhà nghiên
cứu từ thế kỉ XIX bao gồm các xuất bản phẩm chuyên khảo về người Hoa ở Việt Nam,
miền Nam, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngồi ra cịn sử dụng một số bài báo được đăng
trên các tạp chí như : Dân tộc học, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, Xưa và nay, tạp chí
nghiên cứu tơn giáo, Văn hóa nghệ thuật…cùng một số trang web có liên quan đến nội
dung đề tài. Các nguồn tài liệu tìm ở thư viện Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh, Thư viện khoa học xã hội và nhân văn, Thư viện khoa học tổng hợp Thành phố
Hồ Chí Minh, Thư viện Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh…Ngồi ra cịn sử
dụng một số văn bản, pháp lệnh tơn giáo, tín ngưỡng, các chỉ thị của Nhà nước, của
Chính phủ, của Ban dân vận Trung ương.
- Nguồn tài liệu thu thập qua phương pháp điền dã : tác giả đã tiến hành khảo
sát một số cơ sở sản xuất tiêu biểu của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh, một số

ngành nghề truyền thống, khảo sát một số cơ sở tín ngưỡng tơn giáo tiêu biểu ở Thành
phố Hồ Chí Minh : chùa Minh Hương, miếu Tuệ Thành, Ơn Lăng, Hà
Chương…Ngồi ra người viết cịn phỏng vấn, trao đổi về những vần đề về hoạt động
kinh tế, văn hóa tinh thần của một số gia đình, hội quán ở Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn “Giao lưu văn hóa Việt-Hoa ở Sài Gịn-Thành phố Hồ Chí Minh
từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XXI” góp phần cung cấp những hiểu biết khoa học về
văn hóa của cộng đồng người Việt, Hoa ở thành phố.
Góp phần nhận định vị trí, vai trị của người Việt, người Hoa trong quá trình
khai phá, xác lập chủ quyền, xây dựng, bảo vệ, kiến tạo nền văn hóa vùng đất Nam Bộ
nói chung và Sài Gịn- Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần ứng dụng cho các ban ngành, Mặt
trận Tổ Quốc thành phố Hồ Chí Minh có một cái nhìn khoa học về vị trí vai trị của các
dân tộc trong xây dựng và phát triển thành phố.Từ đó hoạch định chính sách dân tộc
tồn diện, đúng đắn. Đồng thời luận văn cịn có giá trị tham khảo trong công tác
nghiên cứu giảng dạy ở các trường Đại học, Cao đẳng, THPT (phần lịch sử địa
phương)…Bồi dưỡng tư tưởng đại đoàn kết dân tộc cho thế hệ trẻ thành phố…


10

7. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm :
Phần mở đầu
Phần nội dung gồm 4 chương
Chương 1 : Bối cảnh lịch sử và những điều kiện tự nhiên- xã hội ảnh hưởng
quan hệ văn hóa Việt-Hoa
Chương 2 : Q trình giao lưu văn hóa Việt- Hoa trong lĩnh vực vật chất ở Sài
Gịn-Thành phố Hồ Chí Minh từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XXI
Chương 3 : Quá trình giao lưu văn hóa Việt- Hoa trong lĩnh vực tinh thần ở Sài

Gịn-Thành phố Hồ Chí Minh từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XXI
Chương 4 : Giao lưu văn hóa Việt-Hoa trong xu thế hội nhập và phát triển
Phần kết luận
Phụ lục
Tài liệu tham khảo


11

CHƯƠNG 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN-XÃ HỘI ẢNH
HƯỞNG QUAN HỆ VĂN HÓA VIỆT – HOA
1.1. Quá trình di cư, cộng cư của người Việt và người Hoa
1.1.1. Quá trình di cư, cộng cư của người Việt vào vùng đất Nam Bộ nói
chung và Sài Gịn-Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng
Vùng đất Nam Bộ vào thế kỉ đầu công nguyên thuộc quyền cai quản của đất
nước Phù Nam- đế quốc hùng mạnh thời cổ đại, là chủ nhân của nền văn hóa Ĩc Eo
độc đáo.
Đến thế kỉ VII, Phù Nam suy yếu, bị Chân Lạp thơn tính. Chân Lạp đất rộng
người thưa, người dân lại quen sống ở vùng cao xung quanh khu vực biển hồ nên
không mấy ai dám phiêu lưu, mạo hiểm đến vùng đầm lấy đầy nguy hiểm, bất trắc.
Kết quả khảo cổ học cho thấy trong vòng mười thế kỉ (VII-XVI) dấu ấn người Khmer
trên vùng đất Nam Bộ hết sức mờ nhạt.
Vào thế kỉ XIII, ngay khi Chân Lạp bước vào thời kì rực rỡ với nền văn minh
Ăng Co thì Nam Bộ vẫn cịn là vùng đất hoang dã. Trong “Chân Lạp phong thổ kí”Châu Đạt Quan viết : “Bắt đầu vào Chân Bồ là bụi rậm của rừng thấp, những cửa
rộng của con sông lớn chảy dài hàng trăm dặm, bóng mát um tùm…Khắp nơi vang
tiếng chim hót và tiếng thú kêu…Hàng trăm, hàng nghìn trâu rừng tụ họp từng bầy”.
[97, tr.80]. Nhà truyền giáo người Pháp Alexandre de Rhodes cho biết: khoảng đầu thế
kỉ XVI, vùng đất này vẫn cịn quạnh hiu, hoang mạc, khơng có vật gì thuộc về sự sống.
Trong “Phủ biên tạp lục”- Lê Q Đơn, “Lịch triều hiến chương loại chí”- Phan Huy

Chú cũng nhận xét đây là vùng đất hoang xấu, quạnh hiu, đầy rắn độc và thú dữ không
ai đặt chân đến.
Như vậy ngay cả thời đại huy hoàng các vua Chân Lạp cũng chưa khai phá, cải
tạo vùng đất này, chưa vươn tay quản lý nó. Dân bản địa là người Khmer, một số ít
dân tộc thiểu số sống thưa thớt ở một số sóc. ... Những lưu dân người Việt đầu tiên tìm
đến mưu sinh nơi đất Sài Gịn thuở xa xưa là những người từ miền Bắc, miền Trung
vào vì nhiều lý do. Quá trình nhập cư của người Việt diễn ra liên tục cùng với mức độ


12

ngày càng khốc liệt của cuộc chiến tranh Trịnh- Nguyễn cũng như mỗi ngày một gay
gắt của mâu thuẫn xã hội. Đồng thời tiến trình nhập cư ấy cũng được diễn ra có khi lẻ
tẻ, có khi ồ ạt do chủ trương khai khẩn của triều Nguyễn. Những người rời bỏ quê
hương nguồn cội vào Nam Bộ phần lớn là những người nghèo phải tha phương cầu
thực vì mục đích cơm áo, trốn tránh luật lệ hà khắc hoặc vì sưu cao thuế nặng. Ngồi
ra cịn có các thành phần trốn lính, đào ngũ hoặc binh lính của nhà Nguyễn vào Nam
khai khẩn trong chính sách dinh điền, mở thêm đất mới và trấn giữ phên dậu phía
Nam. Khi đến vùng đất mới họ mang theo nhiều khát vọng: khát vọng được đổi đời,
được thốt khỏi đói nghèo, được tự do thốt khỏi ách áp bức, bóc lột. Một địa điểm mà
sử sách thường nhắc đến là Mơ Xồi có lẽ là vùng đất Bà Rịa hiện nay đã được người
Việt chọn làm nơi cư trú đầu tiên. Đất đai ở đây tương đối cao, lại gần sông biển thuận
lợi cho việc định cư của họ. Từ đất Mơ Xồi, các lưu dân đã nhanh chóng mở rộng
phạm vi cư trú, khai khẩn đất đai sang các khu vực, nay thuộc Đồng Nai và Thành phố
Hồ Chí Minh. Điều kiện tự nhiên ở những nơi này không khác mấy với đất Mơ Xồi,
các sơng rạch khá thuận tiện cho việc di chuyển của các lưu dân. Vào những thập kỉ
giữa các thế kỉ XVII, các cư dân Việt đã hiện diện ở vùng đất Nam Vang (Phnom
Penh) hiện nay. Năm 1665, theo giáo sĩ Chevreuil nhận thấy khi đến Phnom Penh đã
có hai làng người Việt nằm bên kia sơng, ước khoảng hơn 500 người. Điều đó cho
thấy cơng cuộc Nam tiến của người Việt khá sớm, ít ra là từ cuối thế kỉ XVI. Một vài

tư liệu khác của giáo sĩ phương Tây cũng cho thấy cùng với sự hiện diện của người
Việt ở Nam Vang, thì ở vương quốc Xiêm La (Thái Lan), ngay vùng ven kinh đô cũng
đã xuất hiện các khu vực định cư của khoảng 300 người Việt.
Có hai hình thức di cư: di cư tự phát từng nhóm nhỏ di dân người Việt ở miền
Bắc, miền Trung đi lẻ tẻ vào theo hai hướng đường biển và đường bộ, chỉ dừng lại ở
miền Đông khai khẩn những vùng đất cao ven sơng, nơi có nước ngọt hay ở những
vùng giáp ranh con nước giữa ngọt mặn mới có thể sinh hoạt và trồng trọt. Di cư do
Nhà nước tổ chức (từ 1698, đến cuối thế kỉ XVIII): việc khai hoang lập đồn điền của
binh lính quan lại và kẻ giàu có - "dân có vật lực" - chiêu mộ dân từ Đàng Trong vào
lập nên những điền sản lớn - những đồn điền quân sự hay dân sự. Chính quyền họ
Nguyễn tỏ ra rất dễ đối với dân chúng trong việc khẩn hoang đến mức theo Gia Định


13

thành thơng chí, dân vùng này có thể tự do đến khai khẩn đất ruộng ở các vùng khác,
ai muốn đến ở đâu, khai khẩn ruộng gò, ruộng thấp ở nơi nào tùy thích. Lựa chọn đất
đai rồi chỉ cần khai báo với nhà cầm quyền là mình trở thành nghiệp chủ, chính quyền
cũng khơng đo đạc xem diện tích bao nhiêu, không cần biết đất ấy tốt xấu thế nào chỉ
cần tùy theo khoảnh đất mà mình chiếm rộng hay hẹp mà tự nguyện nạp thuế nhiều
hay ít mà nạp thuế bằng thóc dùng hộc già hay hộc non đong cũng được. Điều này
giúp cho quá trình khai phá phát triển khi tạo ra nguồn nhân lực lớn.
Biên niên sử Khmer chép: Năm 1618, vua Chey Chettha II lên ngôi. Ngài liền
cho xây cung điện nguy nga tại U Đông, rồi cử hành lễ cưới trọng thể với một công
chúa Việt Nam rất xinh đẹp con chúa Nguyễn (người ta phỏng đốn đó là cơng nữ
Ngọc Vạn con chúa Sãi, Nguyễn Phước Nguyên). Hoàng hậu Sam Đát Việt Nam cho
đem nhiều người đồng hương tới Campuchia, có người được làm quan lớn trong triều,
có người làm các nghề thủ cơng và có người bn bán hay vận chuyển hàng hóa.
Năm 1623, chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu vua Chey Chettha II cho lập đồn
thu thuế tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé). Đây là vùng rừng rậm

hoang vắng nhưng cũng là địa điểm qua lại và nghỉ ngơi của thương nhân Việt Nam đi
Campuchia và Xiêm La. Việc thiết lập hai đồn quan thuế sau này đã mang lại cho
ĐạiViệt - Đàng Trong những mối lợi to lớn về nhiều mặt, không chỉ có ý nghĩa về
phương diện kinh tế, xã hội mà cịn có ý nghĩa cả về mặt chính trị, qn sự để mở đầu
cho cuộc khai phá rộng lớn miền đất phía Nam. Đây có thể là một sự hợp thức hóa q
trình định cư tự phát của người Việt đã diễn ra từ rất lâu. Chẳng bao lâu, hai đồn thu
thuế trở thành thị tứ trên bến dưới thuyền, công nghiệp và thương nghiệp sầm uất.
Tháng hai năm Mậu Dần 1698 chúa Minh Nguyễn Phúc Chu phái trấn thủ dinh
Bình Khương là Lễ thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh làm thống suất kinh lược xứ Đồng
Nai. Song song với việc khẩn hoang Thống suất Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh thi
hành ngay việc chia ranh định vùng mong sớm đưa chúng dân vào nề nếp an cư. Về
hành chính: ơng chia đất Đông Phố lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng
dinh trấn biên (Biên Hòa ngày nay). Lấy xứ Sài Gịn làm huyện Tân Bình, dựng dinh
Phiên Trấn (tức Sài Gịn). Mỗi trấn có lưu thủ quản trị, dưới có cai bạ coi về ngân khố
và ký lục coi về hình án. Trấn Biên bao gồm từ Bình Thuận đến Nhà Bè, Phiên Trấn


14

bao gồm từ Tân Bình đến Cần Giuộc (Long An), Phủ Gia Định ngày đó là gồm từ
Bình Thuận, Sài Gịn, Đồng Nai, Nhà Bè đến Long An. Khi đó địa bàn Đồng Nai Gia
Định được nới rộng thêm ra hàng ngàn dặm vuông, các chủng dân được quy tụ dựng
thành chịm xóm. Dân số có đến 40.000 hộ. Liền đó, Thống suất Lễ Thành Hầu
Nguyễn Hữu Cảnh vạch ra quy hoạch: thiết lập làng xã, khóm ấp, lập sổ đinh, sổ điền,
định mức tượng trưng về thuế tô, thuế dung. Riêng người Hoa tập trung làm hai xã: xã
Thanh Hà ở huyện Phước Long (Đồng Nai Biên Hòa), xã Minh Hương ở huyện Tân
Bình (Sài Gịn Bến Nghé). Tất cả dân số người Hoa cũng đều nhập sổ bộ Đại Việt.
Như vậy năm 1698 được coi là năm khai sinh ra mảnh đất Sài Gòn.
Để Sài Gòn- Gia Định và mảnh đất Nam Bộ có diện mạo như ngày hôm nay là
công lao của biết bao thế hệ lưu dân người Khmer, Việt, Chăm, Hoa… cùng tham gia

vào quá trình khai phá vùng đất Nam bộ, trong đó người Việt có vai trị chủ yếu và
quan trọng nhất. Vai trị đó được thể hiện trên các mặt:
Về phát triển kinh tế: Nhờ quá trình khai phá mà bộ mặt của Nam bộ đã thay
đổi rõ rệt, những vùng rừng rậm rập, những đầm lầy hoang vu dần biến thành những
cánh đồng màu mỡ, những vườn cây ăn trái trĩu quả. Vai trò của người Việt trong phát
triển kinh tế chủ yếu là trong nông nghiệp, họ là lực lượng lao động to lớn, mang theo
những kinh nghiệm sản xuất của người Việt ở Bắc, Trung bộ cùng với khối óc, bàn tay
và sự chăm chỉ, cần cù đã tạo ra cho vùng đất này một diện mạo hoàn toàn mới kể từ
khi họ đặt chân đến đây.
Đến năm 1865, trong Đại Nam nhất thống chí đã ghi lại tổng diện tích đất đai
đã khai phá được của tồn Nam Kì lục tỉnh chỉ cịn 568.840 mẫu.
Trong việc cố kết cộng đồng: Người Việt là tộc người chủ đạo đã gắn kết các
tộc người khác trên vùng đất này thành một cộng đồng chung và từ đó làm gia tăng hệ
thống làng xã, củng cố hệ thống hành chính ở Nam bộ.
Với truyền thống đoàn kết tương trợ, lưu dân Việt tự động sống quần cư, tự
động lập nên những thôn, ấp, làng xã....để chống lại thú dữ, trộm cắp...Buổi đầu 5, 10
nóc nhà kết lại với nhau thành xóm. Thơn xóm ban đầu này mang tính tự phát, tổ chức
tự quản, khơng có tổ chức chặt chẽ của hương ước, lệ làng...Hệ thống hành chính cịn
mang tính tự phát, không thống nhất.


15

Phát triển văn hóa: Có thể nói văn hóa người Việt tại Nam Bộ vừa là yếu tố
chủ đạo, vừa là yếu tố gắn kết văn hóa của các tộc người như Khmer, Hoa… Khi các
khu vực cư trú và sản xuất của cộng đồng người Việt hình thành, ngơn ngữ chính dần
được sử dụng là tiếng Việt. Ngơn ngữ này được các tộc người như Khmer, Hoa … học
để giao tiếp và giao lưu kinh tế. Người Việt mang theo nền tảng văn hóa của mình đến
vùng đất mới hình thành nên dịng chảy văn hóa xi về phương Nam, kết hợp với các
yếu tố tại chỗ đã tạo nên một nền văn hóa Nam Bộ mang những đặc trưng riêng, đa

dạng và phong phú.
Khẳng định chủ quyền quốc gia: Quá trình khai hoang của người Việt ở Nam
bộ cũng chính là q trình mà người Việt từng bước khẳng định chủ quyền của mình
đối với vùng đất mới này trên mọi phương diện, trong đó có vấn đề lãnh thổ. Sự định
cư của người Việt là cơ sở cho các chính quyền chúa Nguyễn và nhà Nguyễn xác lập
chủ quyền của mình đối với vùng đất này.
Tóm lại: Kể từ thế kỷ XVII trở đi, bộ mặt vùng đất Nam bộ bắt đầu biến đổi
mạnh mẽ khi có sự xuất hiện một lớp dân cư mới - lưu dân người Việt. Đến và định cư
trên vùng đất mới từ nhiều nguyên nhân khác nhau, song, các thế hệ lưu dân người
Việt khi đã quyết định dừng chân trên mảnh đất này đều gắn bó máu thịt với đất đai và
với cộng đồng. Với tinh thần cần cù, chịu thương chịu khó; với kinh nghiệm chinh
phục đầm lầy, trồng lúa nước; với quyết tâm bám trụ đất mới để thay đổi cuộc sống,
thay đổi số phận, chính bộ phận người Việt đã làm thay đổi diện mạo hoang vu, sình
lầy, đầy thú dữ của vùng đất này thành những xóm làng trù mật, dân cư đơng đúc, sinh
hoạt tấp nập, nhộn nhịp. Họ đã thể hiện được vai trò chủ lực trong công cuộc khai phá
và thực sự trở thành người chủ chân chính của vùng đất mới.
1.1.2. Quá trình di cư, cộng cư của người Hoa vào vùng đất Nam Bộ nói
chung và Sài Gịn - Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng
Bán đảo Đơng Dương trước hết là Việt Nam là mảnh đất đầu tiên của khu vực
Đơng Nam Á tiếp nhận dịng người Hoa nhập cư. Đợt nhập đầu tiên của người Hoa
vào Việt Nam gắn với cuộc xâm lược của Tần Thủy Hoàng. Dưới thời Tần để thực
hiện có kết quả chính sách đồng hóa chúng thi hành chính sách “di dân khẩn thực” để
đưa hàng nghìn người thâm nhập sâu vào vùng đất phương Nam. Trong suốt 1000 năm


16

Bắc thuộc, các quan lại, binh lính, tù binh và những người di cư tự do được đưa đến xứ
sở này để thực hiện sứ mạng đồng hóa. “Sau khi giành được độc lập từ tay người Hán
chính quyền Việt Nam đã gửi lại cho Trung Quốc tới 87 ngàn người”[47, tr.143]. Số

còn lại ở Việt Nam sinh sống.
Từ cuối thế kỉ XIII, nhà Tống bị đế quốc Mông Nguyên lật đổ tạo ra một giai
đoạn mới trong lịch sử di cư của người Hoa ra nước ngoài. Bị đe dọa từ phía Bắc một
bộ phận lớn quan lại và gia quyến triều đình nhà Tống vượt biển để lánh nạn sang các
nước Đông Nam Á. Sử liệu ghi chép rằng một bộ phận trong số họ đã ở lại Việt Nam,
vua Trần đã cho phép họ định cư tại nước Đại Việt.
Đợt di cư tiếp theo là vào thế kỉ XV. Sau khi lật đổ chính quyền thống trị của đế
quốc Mông- Nguyên, nhà Minh ban hành một số cải cách nhằm khuyến khích kinh tế
hàng hóa phát triển. Cuộc thám hiểm của Trịnh Hòa đã mở ra con đường giao lưu buôn
bán mới-con đường tơ lụa trên biển thay thế con đường tơ lụa trên bộ vốn nhiều hiểm
nguy, bất chắc và tốn kém. Với 50 chiếc thuyền, gần 27000 binh sĩ trong gần 30 năm
với 7 lần ra đi Trịnh Hòa đã khám phá ra con đường giao lưu trên biển, khống chế được
con đường buôn bán của Đông Nam Á và thế giới, mở đầu cho thời kì di cư hàng loạt
của người Hoa bằng đường biển đến các nước Đơng Nam Á trong đó có Việt Nam.
Bước sang thế kỉ XVII, tình hình thế giới và trong nội bộ Trung Quốc có nhiều
biến động nên những làn sóng di cư của người Hoa trong thời kì này cũng có nhiều nét
khác trước. Sau khi qn Mãn Thanh chiếm được Bắc Kinh, giai cấp thống trị đã đầu
hàng nhưng trên khắp đất nước Trung Hoa phong trào phản Thanh phục Minh vẫn
diễn ra sôi nổi. Hơn nửa thế kỉ sau, phong trào lần lượt thất bại, những di thần nhà
Minh bị tàn sát dã man, số sống sót tìm cách chạy ra nước ngồi chủ yếu là tới các
nước trong khu vực Đông Nam Á.
Khác với thời Bắc thuộc người Hoa đến Việt Nam cùng với đội quân xâm lược
đi khai thác thuộc địa, đến thế kỉ XVII, người Hoa đến vùng đất Nam Bộ trong đó có
Sài Gịn-Gia Định với thân phận vong quốc, vong thần. Đó là trường hợp của Trần
Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu…Sự có mặt của nhóm cộng đồng người
Hoa được sử sách chép lại một cách rõ ràng. Trong “Gia Định thành thơng chí”-Trịnh
Hồi Đức chép: “ Tháng 4 năm Kỉ Mùi (1679), quan Tổng binh thủy lục trấn thủ các


17


xứ ở Long Môn thuộc Quảng Đông nước Đại Minh là Dương Ngạn Địch và phó tướng
Hồng Tấn, quan Tổng binh trấn thủ các châu Cao, Lôi, Liêm là Trần Thắng Tài, phó
tướng Trần An Bình dẫn qn và gia nhân hơn 3.000 người với chiến thuyền hơn 50
chiếc xin được vào Kinh bằng hai cửa Tư Dung và Đà Nẵng (…)họ không thể thần
phục nhà Minh nên chạy sang nước Nam nguyện được làm dân mọn (…). Triều đình
mới tổ chức khao đãi ân cần, chuẩn y cho giữ nguyên chức hàm, phong cho quan tước
rồi lệnh cho tới Nông Nại (Đồng Nai) làm ăn, gắng sức khai phá đất đai (…). Bọn
tướng Long Môn họ Dương đem binh thuyền tiến nhanh vào cửa Xoài Rạp và cửa Đại,
cửa Tiểu dừng trú tại xứ Mĩ Tho. Bọn tướng các xứ Cao, Lơi, Liêm họ Trần thì đem
binh thuyền vào cửa Cần Giờ. Trần Thượng Xuyên theo cửa biển Cần Giờ rồi đồn trú
tại xứ Bàn Lân thuộc Đồng Nai”[39, tr.110].
Như vậy năm 1679 được xem như là cái mốc mở đầu cho sự hình thành cộng
đồng người Hoa ở Sài Gòn cũng như khu vực Nam Bộ. Sau khi được chính quyền
Đàng Trong cho quy phục, Trần Thường Xuyên vào cửa biển Cần Giờ lên đóng lại ở
Bàn Lân. Dương Ngạn Địch vào cửa biển Sồi Rạp tới đóng lại ở Mĩ Tho. Trải qua
bao biến cố thăng trầm của lịch sử, cộng đồng người Hoa đã có những đóng góp quan
trọng trong cơng cuộc khai khẩn làm nên xứ đại đô hội Nông Nại đại phố, xứ phồn hoa
huyên náo - Mĩ Tho đại phố.
Năm 1680, một nhóm người Hoa khác do Mạc Cửu đứng đầu đến mảnh đất Hà
Tiên. Mạc Cửu vốn là chàng trai 17 tuổi ở đất Lôi Châu thuộc tỉnh Quảng Đông
(Trung Quốc ), vì bất bình với chính sách đồng hóa của nhà Thanh nên đã dời bỏ quê
hương tìm vùng đất mới. Ơng khơng đem gia quyến của mình thần phục chúa Nguyễn
mà chọn vùng đất Mang Khảm- vùng đất hoang vu tận cùng bờ biển phía Nam của Tổ
Quốc làm chỗ dừng chân. Ơng thể hiện sự hịa nhập vào cộng đồng người Việt bằng
cách nói tiếng Việt, lấy vợ người Việt. Với những chính sách tài ba, khơn khéo, ơng đã
tập hợp được một bộ phận lớn người Hoa, người Việt từ phía Đơng đồng bằng sơng
Cửu Long đến sinh sống, khai phá biến vùng đất đầm lầy thành mảnh đất Hà Tiên đầy
thơ mộng. “Trong mấy mươi năm bằng bàn tay khối óc của mình, Mạc Cửu cùng với
bộ phận cư dân ở Hà Tiên đã vào sinh ra tử kiến tạo và bảo vệ vùng đất họ khai khẩn,

biến vùng đất đầm lầy thành vùng đất của sự điển hình của sự di cư, cộng cư, hịa


18

nhập và thống nhất của các tộc người khác nhau với những đặc trưng văn hóa cũng
hồn tồn khác nhau”[25, tr.21]. Lúc bấy giờ qn Xiêm cũng muốn dịm ngó vùng
đất này, vương quốc Chân Lạp suy yếu, chúa Nguyễn ở Đàng Trong ngày càng lớn
mạnh. Ông đã suy nghĩ và lựa chọn số phận cho Hà Tiên. Năm 1708-1714, Mạc Cửu
quyết định sáp nhập Hà Tiên vào mảnh đất Đàng Trong của chúa Nguyễn. Con đường
của Mạc Cửu không giống với bất cứ con đường nào trong quá trình diễn biến địa lý
và lịch sử trong quan hệ văn hóa Việt Nam-Trung Hoa. “Con đường giao lưu văn hóa
và tiếp biến văn hóa mà Mạc Cửu kiến tạo khơng có tiền lệ nhưng q trình chuyển tải
và hội nhập văn hóa mà cha con Mạc Cửu tạo ra quả là một con đường độc đáo, sự
hịa nhập văn hóa kéo ln theo sự hịa nhập đất đai” [25, tr.22].
Dịng họ Mạc không chỉ ra sức xây dựng và phát triển Hà Tiên trở thành một
trung tâm kinh tế phồn thịnh, mà còn nêu cao ý thức bảo vệ chủ quyền với tư cách là
người được giao trách nhiệm bảo vệ vùng biên giới cực Nam đất nước. Nhờ đó mà
vùng biên giới với Chân Lạp và Xiêm được giữ vững. Sách Đại Nam thực lục cho biết
vào năm 1739: “Nặc Bồn nặc Chân Lạp lấn Hà Tiên... Thiên Tứ đem hết quân bản bộ
ra đánh đuổi tới Sài Mạt, ngày đêm đánh hăng, lương thực không tiếp kịp. Vợ là
Nguyễn Thị đốc suất vợ lính vận lương đến ni quân, quân không bị thiếu ăn, hăng
hái cố đánh phá được quân Bồn. Tin thắng trận báo lên, Chúa cả khen ngợi, đặc biệt
cho Thiên Tứ chức Đô đốc tướng quân, ban cho áo bào đỏ và mũ đai, phong Nguyễn
Thị làm Phu nhân. Do đó Chân Lạp khơng dám nhịm ngó Hà Tiên nữa” [98, tr.233].
Năm 1771, qn Xiêm do Taksin chỉ huy, đem 6 vạn quân lại đánh chiếm Hà Tiên,
tiến sâu vào Gia Định. Nhưng chỉ một năm sau, quân Xiêm đã bị quân của chúa
Nguyễn đánh bại và tháo chạy về nước. Đến năm 1773, quân chúa Nguyễn đã lấy lại
được trấn Hà Tiên….
Song song với việc có cơng lao đánh đuổi ngoại xâm, di dân người Hoa cịn có

cơng dẹp bọn phản loạn, cướp biển, bảo vệ trị an cho vùng đất Nam Bộ. Năm 1767,
“người Triều Châu nước Thanh là Hoắc Nhiên rủ nhau họp đảng, lấy đảo Cổ Công là
nơi hiểm trở hẻo lánh, dựa làm sào huyệt, thường ẩn hiện ở vùng dun hải, đón cướp
thuyền bn, vây cánh ngày một nhiều, có ý ngầm nhịm ngó Hà Tiên”; năm 1769,
“Người Triều Châu là Trần Thái họp đảng ở núi Bạch Mã, mưu đánh úp Hà Tiên,


19

ngầm kết với người họ Mạc...”; năm 1770, “Phạm Lam họp đảng ở Hương Úc và Cần
Vọt cùng với người Chà Và là Vang Ly Ma Lư và người Chân Lạp là Ốc nha Kê họp
quân hơn 800 người và 15 chiếc thuyền, chia đường thuỷ bộ đánh úp Hà Tiên”; năm
1771, lại “vua Xiêm (...) dùng tên giặc [núi] Bạch Mã là Trần Thái làm hướng đạo, vây
trấn Hà Tiên...” [98, tr.233-240]. Các hành động này đã bị Mạc Thiên Tứ đánh bại.
Với tính chất là một thể chế thương mại, chính quyền chúa Nguyễn đã thiết lập
ở Hà Tiên một đầu cầu giao dịch quan trọng và được bảo vệ một cách nghiêm ngặt
bằng lực lượng bố phòng địa phương, dưới sự hỗ trợ tích cực của Gia Định. Trong đó
sử dụng các lực lượng thuần phục để bảo vệ chủ quyền của vùng đất mới là một chính
sách tích cực. Từ năm 1714, Minh Vương phong Mạc Cửu làm Thống binh trấn Hà
Tiên, tước Cửu Ngọc hầu. Mạc Cửu chết, năm 1736 con là Mạc Thiên Tứ thế tập,
được Ninh Vương “thăng làm Khâm sai Đô đốc Tung Đức hầu. Mạc Thiên Tứ ra sức
xây dựng quân đội. Thủy binh Hà Tiên vào thế kỉ XVIII là một lực lượng hùng mạnh
không chỉ làm an tâm các thương thuyền ra vào phố cảng mà còn bảo vệ cả một vùng
biển rộng lớn trước sự đe dọa của ngoại xâm và hải tặc.
Cùng với tiến trình chinh phục xuống phía Nam về mặt lãnh thổ, chính quyền
chúa Nguyễn đã không ngừng khai thông, củng cố và mở rộng tuyến đường thương
mại nội địa lẫn ven bờ biển Đông. Một cuộc chiến thương mại giữa chính quyền chúa
Nguyễn với các thế lực lái buôn khu vực và phương Tây diễn ra thực sự quyết liệt.
Đồng thời để bảo vệ vùng biển Tây Nam của Tổ Quốc, các chúa Nguyễn đã sử dụng
cả lực lượng người Hoa. Đây được coi là một chính sách đúng đắn, tích cực. Nhờ vậy

Đàng Trong đã bứt phá vượt lên, không những đủ sức đương đầu với Đàng Ngồi của
họ Trịnh mà cịn đẩy nhanh tiến trình chinh phục xuống phía Nam trong xu thế mở
rộng ảnh hưởng ra ngoài của thế giới và khu vực. Trong một giới hạn nào đó, chính
quyền chúa Nguyễn đã theo kịp thời đại và hội nhập thành cơng.
Từ 1685 trở đi có những điều kiện hết sức thuận lợi cho quá trình di cư của
người Hoa ở vùng đất Nam Bộ. Với mục tiêu xây dựng thế lực hùng mạnh để tồn tại
và ly khai, cát cứ chúa Nguyễn ở Đàng trong đã có những chính sách khôn khéo để thu
hút nguồn lực quan trọng phục vụ cho công cuộc khẩn hoang. Một trong những nguồn
lực quan trọng đó là di dân người Hoa. Vì vậy chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong


×