BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Văn Đệ
Q TRÌNH CHUYỂN BIẾN LỰC LƯỢNG
CÁCH MẠNG Ở BẾN TRE TỪ NĂM
1960 ĐẾN NĂM 1973
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
Thành phố Hồ Chí Minh – 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Văn Đệ
Q TRÌNH CHUYỂN BIẾN LỰC LƯỢNG
CÁCH MẠNG Ở BẾN TRE TỪ NĂM
1960 ĐẾN NĂM 1973
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 03 13
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. HÀ MINH HỒNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả được trình bày trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai
cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn
Trần Văn Đệ
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH BẾN TRE VÀ TÌNH HÌNH LỰC
LƯỢNG CÁCH MẠNG Ở BẾN TRE 1954 – 1960 ................................. 10
1.1. Sơ lược lịch sử tỉnh Bến Tre (đến 1954) ............................................... 10
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội ........................................................... 10
1.1.2. Đặc điểm lịch sử và truyền thống ................................................... 12
1.2. Tình hình Bến Tre sau Hiệp định Giơ-ne-vơ ......................................... 16
1.2.1. Âm mưu thủ đoạn của địch sau Hiệp định Giơ-ne-vơ .................... 16
1.2.2. Đấu tranh giữ gìn lực lượng cách mạng ở Bến Tre (1954 –
1958).............................................................................................................. 20
1.3. Tình hình lực lượng cách mạng ở Bến Tre trước và trong Đồng khởi
(1960) ............................................................................................................ 25
1.3.1. Chủ trương của các cấp ủy Đảng .................................................... 25
1.3.2. Xây dựng lực lượng chính trị và vũ trang tự vệ chuẩn bị Đồng
khởi 1959 – 1960........................................................................................... 27
1.3.3. Phát triển lực lượng đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang tự vệ ở
Bến Tre trong Đồng khởi 1960 ..................................................................... 29
Tiểu kết chương 1 ......................................................................................... 36
Chương 2. XÂY DỰNG HAI LỰC LƯỢNG CƠ BẢN CHÍNH TRỊ VÀ
VŨ TRANG NHỮNG NĂM TỪ 1961 – GIỮA 1965 ............................... 38
2.1. Nhiệm vụ mới của cách mạng trước tình hình địch chuyển sang
chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.................................................................. 38
2.1.1. Mỹ triển khai chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ............................. 38
2.1.2. Yêu cầu, nhiệm vụ của chiến tranh cách mạng ở Bến Tre sau
Đồng khởi ...................................................................................................... 42
2.2. Xây dựng và phát triển lực lượng chính trị làm cơ sở cho thực lực
cách mạng ..................................................................................................... 43
2.3. Xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ở Bến Tre........................... 49
2.4. Từng bước xây dựng lực lượng đấu tranh binh vận .............................. 54
Tiểu kết chương 2 ......................................................................................... 56
Chương 3. ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG BA MŨI GIÁP
CÔNG TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1968 ................................................... 58
3.1. Mỹ áp dụng chiến lược “chiến tranh cục bộ” trên chiến trường Bến
Tre ................................................................................................................. 58
3.1.1. Mỹ chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam ..... 58
3.1.2. Hoạt động càn quét của địch trên chiến trường Bến Tre ................ 59
3.2. Đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang từ năm 1965 – 1967 ............... 62
3.3. Tăng cường phát triển lực lượng chính trị và binh vận từ 1965 –
1967 ............................................................................................................... 66
3.4. Phát triển lực lượng ba mũi giáp công trong Tổng tiến công và nổi
dậy mùa xuân 1968 ....................................................................................... 69
3.4.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bến Tre ............................................ 69
3.4.2. Phát triển lực lượng vũ trang .......................................................... 70
3.4.3. Lực lượng chính trị và binh vận ...................................................... 74
Tiểu kết chương 3 ......................................................................................... 77
Chương 4. XÂY DỰNG CỦNG CỐ CÁC LỰC LƯỢNG CHÍNH TRỊ,
VŨ TRANG VÀ BINH VẬN TRONG NHỮNG NĂM 1969 – 1973 ...... 79
4.1. Yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng trong thời kỳ chống chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ................................................................. 79
4.1.1. Mỹ áp dụng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ..................... 79
4.1.2. Khó khăn của cách mạng ở Bến Tre sau Mậu Thân ....................... 80
4.2. Củng cố thực lực cách mạng sau Mậu Thân (1968 – 1969) .................. 83
4.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh .......................................................... 84
4.2.2. Lực lượng chính trị ......................................................................... 87
4.2.3. Lực lượng vũ trang.......................................................................... 89
4.3. Xây dựng và phát triển lực lượng chính trị, vũ trang, binh vận những
năm 1970 - 1971 ........................................................................................... 91
4.3.1. Lực lượng chính trị ......................................................................... 91
4.3.2. Lực lượng vũ trang.......................................................................... 93
4.3.3. Lực lượng binh vận ......................................................................... 95
4.4. Xây dựng và phát triển thực lực cách mạng trong Chiến dịch tiến
công tổng hợp................................................................................................ 96
4.4.1. Lực lượng chính trị ......................................................................... 96
4.4.2. Lực lượng vũ trang.......................................................................... 98
4.4.3. Lực lượng binh vận ....................................................................... 101
Tiểu kết chương 4 ....................................................................................... 102
KẾT LUẬN ................................................................................................ 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 111
PHỤ LỤC ................................................................................................... 117
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày 20 – 7 – 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được ký kết.
Miền Bắc nước Việt Nam được hồn tồn giải phóng, miền Nam còn dưới ách
thống trị của đế quốc và bè lũ tay sai. Cách mạng Việt Nam bước sang thời kỳ
mới: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc,
dân chủ nhân dân ở miền Nam để tiến tới thống nhất Tổ quốc.
Âm mưu của Mỹ - Diệm ở miền Nam Việt Nam trong giai đoạn này là:
phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, ra sức củng cố, phát triển lực lượng, trên cơ sở
đó tập trung sức đánh phá cơ sở và phong trào cách mạng, tách dân ra khỏi
Đảng, quyết tiêu diệt cho hết cán bộ và đảng viên.
Sau khi kí Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, quân và dân Việt Nam nghiêm
chỉnh thi hành các điều khoản của Hiệp định. Trái lại, cả Mỹ và chính quyền
Ngơ Đình Diệm thẳng thừng tun bố không bị ràng buộc bởi những điều khoản
của Hiệp định, cự tuyệt Hiệp thương tổng tuyển cử, đàn áp đẫm máu những
người cộng sản, cán bộ kháng chiến và người dân yêu nước. Tình hình này diễn
ra trong một thời gian dài làm cho lực lượng cách mạng miền Nam bị tổn thất
nặng nề.
Tháng 1 – 1959, “Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ
15 xác định con đường phát triển của cách mạng miền Nam, vạch rõ mục tiêu và
phương pháp cách mạng ở miền Nam; xác định mối quan hệ giữa hai chiến lược
cách mạng ở miền Nam và miền Bắc, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng
thế giới, nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà”
[16, tr.40]. Nghị quyết 15 được chính thức thơng qua trong cuộc họp Đợt 2.
Nghị quyết 15 năm 1959 của Đảng là ngọn đuốc sáng soi đường cho cách mạng
miền Nam, đưa nhân dân miền Nam đến phong trào Đồng khởi năm 1960.
2
Bến Tre là tỉnh có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường, bất
khuất. Từ sau năm 1954, Đảng bộ Bến Tre đã dự kiến tình hình địch sẽ đàn áp
phong trào cách mạng. Sau khi đưa cán bộ, đảng viên đi tập kết, Đảng đã để lại
một số cán bộ, đảng viên bí mật bám lại địa phương, lãnh đạo nhân dân đấu
tranh. Các tổ chức Đảng và tổ chức quần chúng được chấn chỉnh lại theo hướng
vừa bảo tồn lực lượng, vừa có thể tranh thủ thế hợp pháp để tồn tại và hướng
dẫn quần chúng đấu tranh chính trị. Bên cạnh đó, cơng tác binh vận được tiến
hành, xây dựng được nhiều cơ sở trong lòng địch, hỗ trợ cho các cuộc đấu tranh
chính trị, bảo vệ lực lượng cách mạng, hạn chế hoạt động của địch.
Từ sau năm 1957, mặc dù địch đánh phá ác liệt phong trào, phá vỡ cơ sở
cách mạng nhưng những cán bộ đảng viên và quần chúng cách mạng vẫn nêu
cao khí tiết, một lịng vì sự nghiệp cách mạng, bám đất bám dân dù phải chấp
nhận gian khổ, hy sinh để chờ thời cơ. Vì thế, khi thời cơ đến, Đảng bộ Bến Tre
đã kịp thời lãnh đạo quân dân nổi dậy Đồng khởi giành chính quyền ở nơng thơn
sau đó lan rộng ra tồn tỉnh.
Từ sau Đồng khởi 1960, lực lượng cách mạng Bến Tre có sự chuyển biến
rõ rệt: lực lượng vũ trang tập trung ra đời và phát triển, lực lượng chính trị quần
chúng và lực lượng binh vận cũng phát triển nhanh và hoạt động có tổ chức.
Phong trào kết hợp đấu tranh vũ trang, chính trị, binh vận ngày càng mạnh mẽ.
Lực lượng cách mạng Bến Tre tiếp tục phát triển và không ngừng lớn
mạnh, từng bước bẻ gãy những cuộc hành quân càn quét của địch, giành thế chủ
động trên chiến trường. Lực lượng cách mạng Bến Tre đã lập những chiến công
xuất sắc góp phần cùng tồn Miền đánh bại các chiến lược chiến tranh của địch,
buộc chúng phải ký Hiệp định Paris năm 1973 rút quân về nước.
Nghiên cứu về quá trình chuyển biến lực lượng cách mạng ở Bến Tre từ
năm 1960 đến năm 1973 là một việc làm cần thiết góp phần làm sáng tỏ hơn
những đóng góp của lực lượng cách mạng Bến Tre trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước.
3
Đó là lý do tơi chọn đề tài “Q trình chuyển biến lực lượng cách mạng ở
Bến Tre từ năm 1960 đến năm 1973”.
2. Mục đích nghiên cứu
Thấy được những khó khăn của lực lượng cách mạng Bến Tre sau Hiệp
định Giơ-ne-vơ (trước những âm mưu thâm độc của địch) và quá trình đấu tranh
giữ gìn lực lượng cách mạng trước Đồng khởi ở Bến Tre năm 1960.
Làm rõ quá trình xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng chuẩn bị
cho phong trào Đồng khởi ở Bến Tre năm 1960, nhất là quá trình chuyển biến
của lực lượng cách mạng Bến Tre từ sau phong trào Đồng khởi năm 1960 đến
năm 1973.
Đồng thời làm rõ những chủ trương đúng đắn, kịp thời của Trung ương
Đảng, Xứ ủy Nam Bộ, Tỉnh ủy Bến Tre giúp lực lượng cách mạng Bến Tre kịp
thời vượt qua những khó khăn, tiếp tục phát triển.
Luận văn giúp chúng ta thấy được quá trình chuyển biến của lực lượng
chính trị, lực lượng vũ trang và lực lượng binh vận ở Bến Tre từ năm 1960 đến
năm 1973. Từ đó, chúng ta có thể so sánh Bến Tre với các tỉnh ở đồng bằng
sông Cửu Long.
Hiểu rõ những nguyên nhân dẫn đến sự chuyển biến của lực lượng cách
mạng, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm trong chỉ đạo chiến lược.
Cuối cùng là góp một phần vào việc dạy học Lịch sử địa phương ở các
trường trung học phổ thông ở Bến Tre.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hiện nay đã có nhiều sách tham khảo, bài viết trên các tạp chí về vấn đề
lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nói chung và cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của nhân dân miền Nam và Bến Tre. Một số trong những
nguồn tài liệu đó có đề cập đến sự chuyển biến của lực lượng cách mạng miền
Nam nói chung và Bến Tre nói riêng.
4
Cuốn “Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước” (1954 – 1975) tập 1, 2
do Viện Lịch sử quân sự Việt Nam biên soạn do Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia Hà Nội ấn hành năm 1996 đã đề cập vì sao ta phải cầm súng chiến đấu
chống Mỹ và sự chuyển biến lực lượng cách mạng ở miền Nam từ 1954 đến
1960. Cuốn sách tuy không đi sâu về sự chuyển biến lực lượng cách mạng ở Bến
Tre, nhưng giúp chúng ta có cái nhìn bao qt về sự chuyển biến lực lượng của
cách mạng miền Nam, đánh giá được âm mưu, thủ đoạn của địch và kịp thời đề
ra những chủ trương mới của cách mạng miền Nam.
Cuốn “Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước” (1954 – 1975) tập
3,4,5,6,7 do Viện Lịch sử quân sự Việt Nam biên soạn do Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia - Sự thật Hà Nội ấn hành năm 2013 đã đề cập đến cuộc kháng chiến
chống Mĩ của nhân dân Việt Nam từ năm 1961 đến năm 1972. Các tập sách này
đã trình bày khá rõ quá trình chuyển biến của lực lực lượng cách mạng miền
Nam qua từng giai đoạn.
Năm 2005, cuốn “Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” của Đại
tướng Văn Tiến Dũng (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân) đề cập đến cuộc
kháng chiến chống Mỹ của quân dân Việt Nam chủ yếu là giai đoạn từ Chiến
tranh cục bộ đến 1975. Cuốn sách phân tích rõ những chuyển biến của cách
mạng miền Nam từ khi quân Mỹ đổ bộ vào đến khi Mỹ kí Hiệp định Paris rút
quân về nước.
Cuốn “Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam (1945 – 1995), Tập 1: Ngoại
giao Việt Nam (1945 – 1975)” do Lưu Văn Lợi biên soạn do Nhà xuất bản Công
an Nhân dân ấn hành năm 1996 đề cập đến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của nhân dân ta, sự chuyển biến lực lượng trên chiến trường miền Nam từ
1954 đến khi Hiệp định Pari được kí kết.
Năm 2008, cuốn “Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục
miền Nam (1954 - 1975)” của Trịnh Nhu (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia) đề
5
cập đến những chỉ đạo của Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam nhằm
phát triển lực lượng cách mạng miền Nam nói chung, Bến Tre nói riêng.
Cuốn “Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Tập II: 1954 – 1975” do Hội đồng
chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến do Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia – Sự thật Hà Nội ấn hành năm 2011 đã đề cấp đến cuộc kháng chiến chống
Mỹ của của nhân dân Nam Bộ nói chung và Bến Tre nói riêng. Cuốn sách này
đã đề cấp đến sự chuyển biến lực lượng cách mạng của các tỉnh ở Nam Bộ,
trong đó có Bến Tre.
Cuốn “Biên niên sự kiện Lịch sử Nam Bộ kháng chiến 1945 – 1975” do
Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến biên soạn do Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia – Sự thật Hà Nội ấn hành năm 2011 đã đề cấp đến những
sự kiện quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân
Nam Bộ.
Cuốn “Những vấn đề chính yếu trong Lịch sử Nam Bộ kháng chiến 1945
– 1975” do Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến biên soạn
do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật Hà Nội ấn hành năm 2011 đã đề
cấp đến những sáng tạo về xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang
trên chiến trường Nam Bộ trong chiến tranh giải phóng (1954-1975).
Cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bến Tre” do Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh
Bến Tre biên soạn do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội ấn hành năm
2003 đã phân tích sâu cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến
Tre dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bến Tre. Cuốn sách này có giá trị về tình
hình chuyển biến của lực lượng cách mạng ở Bến Tre trong giai đoạn chống Mỹ.
Cuốn “Địa chí Bến Tre” do Thạch Phương – Đoàn Tứ biên soạn do Nhà
xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội ấn hành năm 2001 cũng có một phần đề cập
đến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre, phân tích q
trình chuyển biến của lực lượng cách mạng Bến Tre.
6
Cuốn “Lịch sử tỉnh Bến Tre, tập 2: Tài liệu phục vụ dạy học Lịch sử địa
phương cấp Trung học phổ thông” do Sở Giáo dục - Đào tạo Bến Tre biên soạn
năm 2002 và đến năm 2012, Lê Ngọc Bửu đã chủ biên cuốn “Tài liệu dạy – học
Chương trình lịch sử địa phương trung học phổ thơng tỉnh Bến Tre” được Nhà
xuất bản Giáo dục ấn hành đều có một bài đề cập đến cuộc kháng chiến chống
Mỹ của nhân dân Bến Tre (1954 – 1975). Ngoài ra, sách cịn có bài đọc thêm
tóm tắt q trình phát triển của lực lượng vũ trang Bến Tre trong thời kỳ chống
Mỹ.
Cuốn “Dự thảo báo cáo tổng kết Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
trên chiến trường Bến Tre (Từ 7 – 1954 đến 30 – 4 – 1975)” do Ban Tổng kết
chiến tranh tỉnh Bến Tre biên soạn năm 1982 đã cung cấp nhiều nội dung về
những khó khăn và thuận lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của
nhân dân Bến Tre, sự chuyển biến của lực lượng cách mạng Bến Tre qua từng
giai đoạn.
Năm 1985, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Bến Tre biên soạn cuốn “Cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre” và đến năm 1990 tiếp tục biên
soạn cuốn “Bến Tre 30 năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ 1945 – 1975”.
Cả 2 quyển trên đều đề cập đến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân
dân Bến Tre, giúp ta thấy được những chuyển biến lớn của lực lượng vũ trang và
lực lượng chính trị Bến Tre.
Cuốn “Báo cáo tổng kết công tác binh vận trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước trên chiến trường Bến Tre 1954 – 1975” do Tỉnh ủy Bến Tre biên
soạn năm 1998 đã đề cập đến công tác binh vận trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước trên chiến trường Bến Tre, những chủ trương của cấp ủy Đảng về
xây dựng lực lượng cách mạng nói chung, binh vận nói riêng.
Cuốn “Lịch sử cơng tác Đảng, cơng tác chính trị lực lượng vũ trang tỉnh
Bến Tre (1945 – 2005)” do Đảng ủy – Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Bến Tre biên
soạn do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật Hà Nội ấn hành năm 2013 đề
7
cập đến cơng tác Đảng, cơng tác chính trị nhằm phát triển lực lượng vũ trang
Bến Tre trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975).
Cuốn “Lịch sử bộ đội đặc công tỉnh Bến Tre (1960 – 1975)” do Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy - Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Bến Tre biên soạn năm 2014 đề
cập đến tình hình khó khăn của cách mạng Bến Tre sau năm 1954, sự ra đời của
Bộ đội đặc công tỉnh Bến Tre cùng những chiến công của bộ đội đặc công qua
các giai đoạn đã làm chuyển biến lực lượng cách mạng Bến Tre.
Cuốn “Bến Tre Đồng khởi anh hùng” do Tỉnh ủy Bến Tre biên soạn do
Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân Hà Hội ấn hành năm 2010 có phần thứ hai đề
cập đến những khó khăn của cách mạng Bến Tre sau năm 1954 và sự chyển biến
của lực lượng cách mạng ở Bến Tre từ sau phong trào Đồng khởi năm 1960.
Cuốn “Những trận đánh trong lịch sử Việt Nam, phong trào Đồng khởi
1959 – 1960” do Bùi Thị Thu Hà chủ biên do Nhà xuất bàn Trẻ thành phố Hồ
Chí Minh ấn hành năm 2009 có phần hai đề cập đến những trận đánh trong
phong trào Đồng khởi ở Bến Tre năm 1960 giúp ta thấy được những chuyển
biến lực lượng cách mạng ở Bến Tre từ sau Đồng khởi.
Cuốn “Cuộc Đồng khởi năm xưa và cuộc Đồng khởi mới xây dựng quê
hương giàu đẹp” do Nguyễn Văn Thạnh – Huỳnh Văn Be biên soạn do Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy Bến Tre ấn hành năm 2010 có phần thứ nhất đề cập đến
những khó khăn của cách mạng Bến Tre sau năm 1954, sự tổ chức thực hiện
Nghị quyết 15 Ban chấp hành Trung ương Đảng của Đảng bộ Bến Tre và công
tác xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang Bến Tre trong phong trào
Đồng khởi năm 1960.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách
đầy đủ và hệ thống về “Quá trình chuyển biến lực lượng cách mạng ở Bến Tre
từ năm 1960 đến năm 1973”.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
8
Đối tượng nghiên cứu là quá trình chuyển biến lực lượng cách mạng gồm
lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và lực lượng binh vận ở Bến Tre theo yêu
cầu của cuộc đấu tranh chống những âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của địch ở
địa phương qua các thời kỳ kháng chiến chống Mỹ từ sau Đồng khởi đến khi
Hiệp định Paris được ký kết (1960 – 1973).
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: từ năm 1960 đến năm 1973, là khoảng
thời gian từ khi nổ ra phong trào Đồng khởi ở Bến Tre với sự ra đời của lực
lượng vũ trang tập trung và quá trình phát triển của lực lượng chính trị và binh
vận ở Bến Tre, đến khi Mỹ ký Hiệp định Paris rút quân về nước. Tuy nhiên, để
có cái nhìn tổng thể về q trình chuyển biến của lực lượng cách mạng Bến Tre,
luận văn có mở rộng thời gian từ năm 1954 đến năm 1959 nhằm làm rõ hơn
những khó khăn của cách mạng Bến Tre từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954.
Về không gian: luận văn nghiên cứu địa bàn tỉnh Bến Tre (Kiến Hòa) thời
chiến tranh – tương ứng với địa phương hiện nay là tỉnh Bến Tre.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
Phương pháp chính mà người viết sử dụng là phương pháp lịch sử và
phương pháp logic.
Phương pháp lịch sử là phương pháp trình bày những sự kiện cụ thể theo
trình tự thời gian. Phương pháp lịch sử sẽ được sử dụng để diễn tả quá trình
chuyển biến lực lượng cách mạng ở Bến Tre từ năm 1960 đến năm 1973.
Phương pháp logic là phương pháp khái quát các sự kiện lịch sử trên
những nét chung, theo từng vấn đề, nhằm rút ra đặc điểm và bản chất của sự
kiện. Phương pháp logic được dùng để nghiên cứu và trình bày những nhận xét,
đánh giá về sự chuyển biến của lực lượng cách mạng Bến Tre.
Đề tài liên quan khá chặt chẽ đến lĩnh vực quân sự. Do đó, phương pháp
liên ngành sẽ phát huy tốt vai trị của nó trong q trình nghiên cứu.
9
Một số phương pháp cụ thể khác cũng được sử dụng trong quá trình
nghiên cứu, trình bày như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, hệ
thống hóa, khái qt hóa,…
Để thực hiện đề tài này, tơi tập trung vào việc nghiên cứu 3 nhóm tài liệu
sau:
- Các tài liệu về Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước nói chung.
- Các tài liệu về Lịch sử Nam Bộ kháng chiến.
- Các tài liệu về Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Bến Tre.
Ngồi ra, bản thân cịn nghiên cứu thêm một số tác phẩm khác viết về Bến
Tre, các báo cáo về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Ban Tuyên giáo
tỉnh Bến Tre, của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bến Tre, Trung tâm Lưu trữ quốc gia
II, các bài báo, tạp chí có liên quan đến đề tài.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn chia
làm 4 chương:
- Chương 1. Khái quát về tỉnh Bến Tre và tình hình lực lượng cách mạng
ở Bến Tre 1954 – 1960.
- Chương 2. Xây dựng hai lực lượng cơ bản chính trị và vũ trang những
năm từ 1961 – giữa 1965.
- Chương 3. Đẩy mạnh phát triển lực lượng ba mũi giáp công từ năm
1965 đến năm 1968.
- Chương 4. Xây dựng củng cố các lực lượng chính trị, vũ trang và binh
vận trong những năm 1969 – 1973.
10
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TỈNH BẾN TRE VÀ TÌNH HÌNH LỰC LƯỢNG CÁCH
MẠNG Ở BẾN TRE 1954 – 1960
1.1. Sơ lược lịch sử tỉnh Bến Tre (đến 1954)
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội
Bến Tre là một trong 9 tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long, cách thành
phố Hồ Chí Minh 86 km về hướng Tây Nam. Phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang nơi
có con sơng Tiền làm ranh giới. Phía Tây và Nam giáp tỉnh Trà Vinh và Vĩnh
Long phân ranh bởi con sơng Cổ Chiên. Phía Đơng giáp Biển Đông với bờ biển
dài 65 km. Với vị trí đó, Bến Tre có địa bàn rất cơ động, thuận lợi cho giao
thông, liên lạc với các tỉnh.
Tỉnh Bến Tre được hình thành bởi phù sa của 4 nhánh sông lớn của sông
Cửu Long là sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên bồi
đắp qua nhiều thế kỷ, tạo nên ba cù lao: cù lao An Hóa, cù lao Bảo và cù lao
Minh.
Bến Tre là “tỉnh hẹp nhất trong 9 tỉnh ở khu vực đồng bằng sơng Cửu
Long; diện tích tự nhiên là 2.224,75 km2” [12, tr.9]. Đây là xứ đất bồi, địa hình
bằng phẳng, rải rác có những giồng cát xen lẫn với ruộng vườn. Bến Tre khơng
có rừng lớn, rừng già mà chỉ có rừng chồi như cây mắm, đước,…
Bến Tre có khí hậu mát mẻ, đất đai phù sa màu mỡ rất thích hợp cho các
loại cây trồng quanh năm, chỉ trừ vùng ven biển bị nước biển lên xuống nhiễm
mặn. Ngoài ra, 65 km bờ biển và nhiều sơng ngịi, kênh, rạch là một nguồn cung
cấp tơm cá dồi dào. Vì thế, Bến Tre sớm hình thành một nền kinh tế đa dạng.
Bến Tre là một tỉnh bốn bề sông nước với hệ thống sông, kênh, rạch
chằng chịt thuận lợi cho việc giao thơng đường thủy. Bên cạnh đó, Bến Tre có
247 km đường bộ (hệ thống chính) và một hệ thống đường phụ (đường làng)
phần lớn lắp đất nối liền với đường chính. Vì thế, trong chiến tranh, Bến Tre là
11
một chiến trường dễ bị địch chia cắt, phong tỏa. Việc chi viện, tiếp tế chuyển
quân cũng gặp nhiều khó khăn. Nhưng ngược lại, địa hình sơng rạch, rừng dừa,
bãi mía liên hồn, rừng chồi ven biển kín đáo thuận lợi cho chiến tranh nhân dân
phát triển.
Ngược dòng lịch sử - trước khi thực dân Pháp xâm lược nước ta – dưới
triều Nguyễn, cù lao Bảo và cù lao Minh thuộc phủ Hoằng Trị (tức tỉnh Vĩnh
Long). Sau khi thực dân Pháp chiếm được lục tỉnh Nam Bộ, chúng chia Nam Bộ
ra nhiều tỉnh để đặt ách cai trị. Năm 1867, phủ Hoằng Trị lại đổi thành hạt
Hoằng Trị. Tháng 12 – 1867, hạt Hoằng Trị lại chia làm hai Sở tham biện là Bến
Tre và Mỏ Cày. Năm 1871, hai Sở tham biện Bến Tre và Mỏ Cày nhập thành Sở
tham biện Bến Tre, cù lao An Hóa vẫn thuộc Sở tham biện Mỹ Tho. Năm 1876,
Pháp bãi bỏ cấp tỉnh cũ, chia Nam Kỳ thành 4 khu vực là Sài Gòn, Mỹ Tho,
Vĩnh Long và Bassac. Bến Tre được gọi là hạt thuộc khu vực Vĩnh Long.
Năm 1899, các hạt lại đổi thành tỉnh, toàn bộ Nam Kỳ được chia thành 20
tỉnh. Việc chuyển từ hạt lên tỉnh được thực hiện bởi quyết định của nhà cầm
quyền Đông Dương ngày 20 – 12 – 1899 và từ ngày 1 – 1 – 1900, bắt đầu có
hiệu lực pháp lý. Như vậy, “Bến Tre chính thức trở thành đơn vị hành chính cấp
tỉnh, gồm có hai cù lao Minh và Bảo với 21 tổng và 144 làng” [44, tr.14]. Năm
1910, tỉnh Bến Tre được chia đơn vị hành chính cấp quận gồm bốn quận: quận
Sóc Sãi (sau đổi là quận Châu Thành), quận Ba Tri, quận Mỏ Cày và quận
Thạnh Phú. Cùng thời điểm này, cù lao An Hóa lập thành quận An Hóa thuộc
tỉnh Mỹ Tho với 2 tổng: Hòa Quới và Hòa Thinh.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (sau năm 1945), tỉnh
Bến Tre có thêm cù lao An Hóa (trước thuộc tỉnh Mỹ Tho) và 6 xã của huyện
Chợ Lách (trước thuộc tỉnh Vĩnh Long) sát nhập lại thành huyện An Hóa và Chợ
Lách.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Bến Tre có 7 huyện và một thị xã với 115
xã, 786 ấp. Hiện nay, “tỉnh Bến Tre có 9 huyện, thị là: Thị xã Bến Tre, Bình Đại,
12
Châu Thành, Giồng Trôm, Ba Tri, Thạnh Phú, Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc và
Chợ Lách với 164 xã, phường, thị trấn, dân số gần 1,4 triệu người, diện tích
2.356 km2” [44, tr.14].
Về tơn giáo, Bến Tre có 4 đạo lớn: đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Cao
Đài và đạo Hịa Hảo. Địch ln tìm cách lợi dụng tơn giáo để chia rẻ nhân dân,
chống lại cách mạng. Nhưng với chính sách đồn kết dân tộc, đồn kết lương
giáo trước sau như một, cách mạng vẫn thu hút được đại đa số tín đồ lao động
nghèo ủng hộ và tham gia kháng chiến.
Dân số Bến Tre “năm 1954 khoảng 600.000 người với mật độ 250
người/km2” [9, tr.2]. Trước đây, các tầng lớp xã hội chính ở Bến Tre gồm: trung
nơng (99%), phú nông và một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ. Nhân dân nơi đây có
tinh thần đồn kết trong lao động, trong sinh hoạt và trong chống giặc ngoại
xâm.
1.1.2. Đặc điểm lịch sử và truyền thống
Nhân dân Bến Tre có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường, bất
khuất. Ngay sau khi thực dân Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông rồi đến ba tỉnh miền
Tây Nam Kỳ (1867), hưởng ứng cuộc kháng chiến chống Pháp do hai anh em
Phan Tôn và Phan Liêm (con của Phan Thanh Giản), nhân dân Bến Tre đã anh
dũng nổi dậy chống Pháp. Cuộc kháng chiến tuy thất bại nhưng tấm gương hy
sinh bất khuất của Phan Cơng Tịng ở trận Giồng Gạch (xã An Hiệp – Ba Tri),
của Trương Tấn Chí anh dũng vào đồn hạ cờ Pháp vứt xuống đất, của Tán Kế
chỉ huy nghĩa quân ở Giồng Trôm, của Trần Văn Lực, Trần Văn Định cầm đầu
đội quân nông dân ở Mỏ Cày vẫn cịn in trong tâm trí mỗi người dân Bến Tre,
thôi thúc nhân dân Bến Tre đứng dậy diệt thù.
Hưởng ứng phong trào Thiên địa hội năm 1860, nhân dân Bến Tre dưới
sự lãnh đạo của Tám Đáng đã nổi dậy ở Ba Vát. “Cuộc khởi nghĩa khơng thành
cơng nhưng đã tỏ rõ khí phách của nhân dân Bến Tre, báo hiệu cho kẻ thù biết
13
rằng chúng không thể khuất phục nhân dân Bến Tre và mảnh đất có truyền
thống kháng chiến kiên cường này” [14, tr.10].
Tuy nhiên, truyền thống đấu tranh kiên cường của nhân dân Bến Tre được
phát huy mạnh mẽ từ khi có Đảng của giai cấp vơ sản lãnh đạo.
Các tổ chức của Thanh niên Cách mạng đồng chí hội ở Ba Mỹ, Tân Xuân,
Mỏ Cày, Ba Vát chuyển hướng, tiến tới hợp nhất chọn lọc người thành lập chi
bộ Đảng đầu tiên ở Tân Xuân (Ba Tri). Sau đó, các huyện khác cũng thành lập
các chi bộ Đảng và Tỉnh ủy đầu tiên đã ra đời ở thị xã Bến Tre.
Cuộc đấu tranh yêu nước ở Bến Tre bước sang một thời kỳ mới với nội
dung và phương pháp mới. Những cuộc khởi nghĩa nhỏ lẻ của nông dân trước
đây được thay bằng những cuộc biểu tình lớn có hàng vạn quần chúng tham gia
dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản. Đó là cuộc biểu tình ở Tân Xn,
Ba Mỹ, Vĩnh Hịa (Ba Tri), Ba Châu (Giồng Trơm), Tân Bình, Ba Vát, Phước
Hiệp (Mỏ Cày), Giao Thạnh, Thạnh Phong (Thạnh Phú), Lộc Thuận, Phú Vang
(An Hóa). Những cuộc biểu tình này nhằm biểu dương lực lượng, hưởng ứng
phong trào đấu tranh do Đảng phát động. Địch hoảng sợ nên thẳng tay đàn áp,
phong trào cách mạng chịu những tổn thất lớn.
Năm 1935, các tổ chức cơ sở Đảng bị thực dân Pháp đàn áp, bắt bớ gây
tổn thương khơng ít đã dần được củng cố, khơi phục lại và tiếp tục hoạt động
mạnh mẽ. Hưởng ứng phong trào Đông Dương Đại hội, gần 60 Ủy ban hành
động (trong tổng số 600 Ủy ban hành động của Nam Bộ) được thành lập ở Bến
Tre.
Khi Nam Kỳ chuẩn bị khởi nghĩa, Bến Tre cũng kịp thời củng cố lực
lượng, chuẩn bị vũ khí hiệp đồng nổi dậy. Vì vậy, khi khởi nghĩa Nam Kỳ bị
khủng bố, phong trào cách mạng Bến Tre cũng bị đàn áp khốc liệt, Đảng bộ và
nhân dân Bến Tre một lần nữa chịu nhiều tổn thất.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9 – 3 – 1945), Đảng bộ Bến Tre sau 4 lần
tan rã, năm 1945, Tỉnh ủy đã gây dựng lại được, đã tích cực vận động quần
14
chúng tham gia khởi nghĩa cùng một lúc với các tỉnh Nam Bộ. Sáng 24 – 8 –
1945, Việt Minh ra mắt trước nhân dân tại thị xã Bến Tre.
Chiều và đêm 25 – 8 – 1945, toàn tỉnh khởi nghĩa giành được tồn bộ
chính quyền. Sáng ngày 26 – 8 – 1945, Ủy ban cách mạng tỉnh Bến Tre ra mắt
nhân dân tại sân vận động Bến Tre. Như vậy, sau gần 80 năm bị đô hộ, trải qua
nhiều gian khổ, hy sinh, nhân dân Bến Tre đã khởi nghĩa giành được chính
quyền.
Vừa giành được chính quyền, thực dân Pháp lại nổ súng xâm lược vào Sài
Gòn ngày 23 – 9 – 1945 và lan ra Tân An, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Trà Vinh…
Theo lệnh của Ủy ban kháng chiến, toàn thể đồng bào Bến Tre ráo riết chuẩn bị
kháng chiến, phá hoại cầu đường, xây dựng các công sự chiến đấu. Do lực lượng
quá chênh lệch, ngày 8 – 2 – 1946, giặc Pháp đã tái chiếm được tỉnh lỵ Bến Tre.
Vừa mới giành được chính quyền, các lực lượng cách mạng và đặc biệt là
lực lượng vũ trang còn non trẻ mới xây dựng, Đảng bộ và nhân dân Bến Tre lại
phải đương đầu với quân viễn chinh Pháp.
Để đè bẹp phong trào cách mạng trong tỉnh, thực dân Pháp ráo riết xây
dựng hệ thống đồn bót dày đặc. “Chúng đốn hết cây cối, phá vườn tược chung
quanh đồn bót. Cách 500 m xây dựng một lơ cốt, lô cốt này phải thấy lô cốt kia.
Trong một xã chỉ có 3.000 dân, địch phải dựng lên 20 đồn lớn và 11 lô cốt, mỗi
lô cốt một tiểu đội” [5, tr.8]. Chúng liên tục mở những cuộc hành qn, càn
qt.
Trong hồn cảnh cực kỳ gay go, khó khăn nhưng với lòng yêu nước, bằng
tầm vong, dao, mác, nhân dân Bến Tre vùng dậy đánh Pháp, cướp súng địch
trang bị cho mình.
Trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp đầy khó khăn, lực lượng thanh
niên, tiêu biểu là anh Đồng Văn Cống ở xã Tân Hào, anh Phan Văn Phải, Phan
Văn Kích đã huy động thanh niên tổ chức lực lượng vũ trang đánh Pháp. Từ chỗ
1, 2 tiểu đội hình thành chi đội 19 đến hình thành trung đồn 99. Ngoài trung
15
đồn 99, Bến Tre cịn góp phần quan trọng trong việc xây dựng tiểu đoàn chủ
lực của tỉnh 310, cho qn khu như tiểu đồn 307, 308 và góp phần xây dựng
trung đoàn Cửu Long. Cuộc kháng chiến diễn ra quyết liệt và kéo dài đến tháng
10 – 1950, giặc Pháp mới lấn chiếm hết tỉnh Bến Tre.
Để tiếp tục kháng chiến, thực hiện chủ trương chi bộ ly xã trở về xã, Tỉnh
ủy Bến Tre đã đề ra kế hoạch giản chính, đưa một số cán bộ, đảng viên vào miền
Tây hoạt động, số cịn lại hình thành Tỉnh ủy, Huyện ủy chi bộ mới để trở về
bám tỉnh, huyện, xã. Mỗi xã đều có 3 đến 10 đảng viên, cán bộ.
Với quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Tỉnh ủy Bến Tre
chỉ đạo cho mỗi đảng viên, cán bộ phải bám vào dân, tuyên truyền vận động, tổ
chức nhân dân, chăm lo quyền lợi cho nhân dân để xây dựng cơ sở cách mạng,
xây dựng lực lượng vũ trang, kể cả cơ sở trong lòng địch, đẩy mạnh công tác
địch, ngụy vận.
Nhờ chủ trương và phương châm, phương thức hoạt động thích hợp, được
sự đùm bọc của nhân dân, mặc dù chịu nhiều hy sinh, tổn thất nhưng từ cuối
1950 đến cuối 1952, Tỉnh ủy và các chi bộ xã đều bám chặt trong dân, phát triển
được cơ sở và phong trào cách mạng, xây dựng được lực lượng vũ trang, phát
triển được cơ sở trong lòng địch. Nhờ vậy, từ năm 1953, hưởng ứng chiến dịch
Đông Xuân, Đảng bộ Bến Tre đã kịp thời lãnh đạo tồn dân vùng dậy bao vây
đồn bót địch giải phóng nhiều vùng nơng thơn rộng lớn. Giải phóng đến đâu,
Đảng bộ Bến Tre giải quyết vấn đề ruộng đất đến đó.
Từ tháng 3 – 1954, phối hợp với chiến trường chung, quân và dân Bến
Tre thừa thắng mở nhiều trận đánh hiệp đồng quy mô lớn, bức rút hàng trăm đồn
bót, diệt và làm rã hàng ngàn lính Sài Gịn. Thành tích của nhân dân Bến Tre đã
góp phần vào thắng lợi chung của nhân dân cả nước, buộc thực dân Pháp phải kí
Hiệp định Giơ-ne-vơ tháng 7 – 1954.
16
1.2. Tình hình Bến Tre sau Hiệp định Giơ-ne-vơ
1.2.1. Âm mưu thủ đoạn của địch sau Hiệp định Giơ-ne-vơ
Để thực hiện âm mưu phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, tiêu diệt phong trào
cách mạng miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân
sự của Mỹ, hòng ngăn chặn chủ nghĩa xã hội tràn xuống Đông Nam Á, đế quốc
Mỹ đã ráo riết tăng viện trợ, đưa nhiều cố vấn và nhân viên quân sự của Mỹ vào
miền Nam, dựng lên chính quyền tay sai Ngơ Đình Diệm để làm công cụ cho
chúng.
Được sự giúp đỡ của đế quốc Mỹ, cuối năm 1954, chính quyền Ngơ
Đình Diệm đã thiết lập được bộ máy thống trị ở miền Nam. Ở Bến Tre, ngay khi
bộ đội ta vừa chuyển quân tập kết, Mỹ - Diệm đã triển khai kế hoạch thiết lập bộ
máy thống trị từ tỉnh đến ấp, gấp rút tạo ra một đội ngũ tay sai. Người của Diệm
được đưa vào nắm giữ các chức vụ chủ chốt ở tỉnh, quận. Địch tăng cường bắt
lính, đơn qn thành lập 5 đại đội vệ binh cơ động chiếm ngay những vị trí xung
yếu xây dựng đồn bót. “Hơn 300 đồn bót đã bị diệt trong mấy tháng chuyển
vùng cuối năm 1953 đầu năm 1954, nay được Ngơ Đình Diệm tung lực lượng ra
đóng giữ lại hầu hết” [38, tr.379].
Với ý đồ lôi kéo, lợi dụng lực lượng tôn giáo làm hậu thuẫn chính trị và
làm cơng cụ đánh phá cách mạng, Mỹ - Diệm đã đưa 6 vạn tín đồ Thiên Chúa di
cư vào Bến Tre, bố trí ở Giao Thạnh (Thạnh Phú), An Hiệp (Châu Thành), vùng
biển Bình Đại, Ba Tri, án ngữ các vị trí chiến lược của cách mạng.
Việc đưa lực lượng tín đồ đạo Thiên chúa vào Bến Tre chiếm tỉ lệ 1/10
dân số kèm theo những chính sách gọi là “ưu đãi”: cắm đất, khoanh vùng, đuổi
nhà dân địa phương, lập trại, tạo ra một vành đai bảo vệ những khu vực quan
trọng của chính quyền Sài Gịn, tạo ra mâu thuẫn giữa người dân di cư và dân
địa phương, chia rẽ giáo lương… Chúng ra sức mua chuộc, nắm các linh mục
Thiên Chúa giáo, các lãnh tụ đạo Cao Đài, tín đồ các tôn giáo trong tỉnh. Chúng
sử dụng tôn giáo để ngăn cản hoạt động của cách mạng, lôi kéo nhân dân xa rời
17
cách mạng, làm mất phương hướng đấu tranh, truyền bá tư tưởng cầu an và làm
cơ sở xã hội cho chúng sau này.
Từ đầu năm 1955 trở đi, chính quyền Ngơ Đình Diệm bắt đầu triển khai
các hoạt động khống chế, kìm kẹp nhân dân như bắt dân phải vào các tổ chức
chính trị phản động do chúng lập ra, tung bọn do thám, chỉ điểm về nông thôn.
Mỹ - Diệm tìm cách tước đoạt lại ruộng đất mà cách mạng đã tịch thu của những
địa chủ phản động, Việt gian cấp cho nông dân trong 9 năm kháng chiến. Theo
các chỉ dụ số 2 (8 – 10 – 1954), số 7 (5 – 2 – 1955) và 57 (22 – 10 – 1956), bọn
địa chủ phản động bị đánh đuổi chạy khỏi nông thôn thời kháng chiến đã theo
chân địch trở lại trả thù nông dân, buộc nông dân phải trả đất cách mạng đã cấp,
truy tô trong những năm kháng chiến. Từ năm 1954 – 1957, “chính quyền tay
sai và địa chủ ở Bến Tre đã cướp 76.836 ha ruộng đất của nông dân và đất công
điền. Chúng tăng tô từ 1 giạ rưỡi lên 3 đến 5 giạ một cơng đất” [44, tr.25].
Ngồi ra, chính quyền Sài Gịn cịn bắt nơng dân đi làm xâu và phải đóng nhiều
thứ thuế khác. Hàng năm nơng dân phải chịu thiệt, đóng tăng tơ có đến một triệu
giạ lúa. Chỉ tính năm 1960, nơng dân Bến Tre bị chúng cướp trên 200 triệu đồng
tiền tăng tô. Đời sống của nông dân Bến Tre sa sút.
Sau hai năm củng cố bộ máy chính quyền Sài Gịn, Mỹ - Diệm đã xây
dựng ở Bến Tre một lực lượng quân sự phản động, trang bị hiện đại “với quân
số hơn 2.000 tên, gồm 9 đại đội bảo an đóng ở các quận lỵ, thị xã; 24 tổng đồn
dân vệ với 1.380 lính dân vệ đóng ở 300 đồn bót. Xã nào cũng có đồn, có xã 3
đồn cùng với lực lượng cơng an, cảnh sát” [18, tr.83]. Bọn phản động trong
Thiên Chúa giáo, bọn do thám, chỉ điểm trước còn hoạt động dè dặt, nay trỗi dậy
hung hăng ra mặt chống cách mạng.
Với ý đồ chống lại cách mạng, tháng 7 – 1956, chính quyền Ngơ Đình
Diệm cơng khai phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, tuyên bố từ chối hiệp thương
tổng tuyển cử.
18
Để kìm kẹp nhân dân, “địch đã dựng lên ở Bến Tre 4 khu trù mật: Thành
Thới (Mỏ Cày), Thới Thuận (Bình Đại), An Hiệp (Châu Thành), An Hiệp (Ba
Tri) với ý định sẽ gom vào mỗi khu từ 2.000 gia đình trở lên nhằm vào các vùng
căn cứ cách mạng mạnh, các địa bàn then chốt để tách dân với cách mạng,
ngăn chặn mọi hoạt động của cách mạng” [8, tr.10]. Khu trù mật Thành Thới
làm thí điểm cho cả miền Trung Nam Bộ. Tại xã có gần 200 gia đình, đa số là
gia đình kháng chiến mà chỉ trong thời gian từ tháng (9 – 1959) đến khi bị nhân
dân san bằng (11 – 1964), chúng đã giết chết 124 người, đánh đập thương tật 97
người, bắt bớ tù đày hàng ngàn người, 467 ngôi nhà và trường học bị phá sạch.
Trong các khu tập trung, chúng bắt đầu phân loại gia đình theo A, B, C
để kìm kẹp khống chế, bắt làm căn cước, làm bản kê khai danh sách gia đình có
dán ảnh.
Gia đình loại A là những gia đình kháng chiến cũ, gia đình có người đi
tập kết, trước nhà phải treo bảng đỏ. Những người trong gia đình loại A ngồi
việc địch bắt bớ, tra khảo, bắt ly khai cộng sản, bất kể ngày đêm nếu có lệnh tập
trung của địch phải đến trụ sở hội đồng hương chính xã điểm danh, đi thưa, về
trình.
Gia đình loại B là gia đình có cảm tình hoặc liên quan với cách mạng,
trước nhà treo biển màu vàng, hàng tháng phải làm cam kết ly khai cộng sản,
hàng ngày phải lao động “cơng ích”. Những gia đình loại C là những gia đình
theo quốc gia, trước nhà treo biển màu xanh được Diệm đối xử ưu đãi. Chúng
thực hiện phương châm dựa vào loại C để đánh vào loại A, làm cho loại B khiếp
sợ.
Chúng tổ chức “ngũ gia liên bảo” với âm mưu dùng gia đình này giám
sát gia đình khác. Chúng kiểm sốt và hạn chế nhân dân đi lại, bắt mỗi nhà ban
đêm phải treo đèn trước cửa, mỗi nhà phải chuẩn bị đèn, cây, dây, mõ…phải
tham gia canh gác, báo động, lùng bắt người lạ mặt vào xóm ấp.
19
Thủ đoạn vô cùng thâm độc của Mỹ - Diệm trong âm mưu tiêu diệt lực
lượng cách mạng là bắt ép nhân dân “tố cộng” hòng làm rạn nứt mối quan hệ
máu thịt giữa Đảng và quần chúng. Trong quá trình thực hiện “tố cộng, diệt
cộng” bọn tay sai đã sử dụng mọi biện pháp từ dụ dỗ mua chuộc đến đàn áp dã
man. Thâm độc hơn, chúng còn dùng chước “dĩ cộng diệt cộng”, khai thác và
dùng bọn đầu hàng phản bội để chỉ điểm, truy lùng, bắt bớ cán bộ, quần chúng
cách mạng. Chúng gây sự nghi kỵ hiềm khích trong nội bộ nhân dân, cha con vợ
chồng tố cáo lẫn nhau, anh em không dám nhận nhau, gia đình tan nát, phân ly.
“Trong 2 năm 1957 - 1958, nhiều tỉnh ủy viên bị bắt. Toàn bộ quận ủy viên quận
Sóc Sải đều bị bắt, 2 quận Châu Thành và Bình Đại số quận ủy viên bị bắt gần
hết. Hầu hết các chi bộ trong tỉnh bị tan rã, chỉ cịn 16 chi bộ Đảng, mỗi chi bộ
có từ 3 đến 5 đảng viên” [21, tr.118].
Từ năm 1959, để đối phó với phong trào cách mạng dâng cao, chính
quyền Ngơ Đình Diệm ngày càng thể hiện rõ tính chất hung bạo. Ngày 23 – 3 –
1959, Ngơ Đình Diệm tuyên bố đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh.
Tháng 4 – 1959, Quốc hội Diệm thông qua Đạo luật 91 được Diệm ban hành
ngày 6 – 5 – 1959 mang tên “Luật 10/59”, thành lập các tòa án quân sự đặc biệt
để xử những người cộng sản chỉ với hai mức: tử hình và khổ sai chung thân.
Thực hiện khẩu hiệu “thà bắt lầm hơn bỏ sót”, địch đã thẳng tay đàn áp, giết
chóc hàng ngàn đảng viên, cán bộ, quần chúng cách mạng. Trường học, thánh
thất, nhà thờ,… trở thành nơi tra tấn, giam cầm. Khám Bến Tre khơng cịn đủ
chỗ để giam người, tù nhân phải nằm la liệt ngồi sân. Nhiều người bị chết
khơng cần xét xử, mỗi ngày có hàng chục người bị thủ tiêu, ném xác xuống
sông.
Ở Bến Tre, từ năm 1954 – 1959, “địch đã giết hại 2.519 người, bỏ tù
17.000 người, hàng vạn người bị bắt bớ, đánh đập, khảo tra. Sau ngày đình
chiến, các xã ở Bến Tre đều có chi bộ, đảng viên cịn lại 2.000. Cuối năm 1959,
tồn tỉnh còn 18 chi bộ với 162 đảng viên trong 115 xã. Hàng trăm cơ sở trong
20
lòng địch bị khủng bố hoặc bị đứt liên lạc với đầu mối bên ngoài” [3, tr.151].
Phong trào cách mạng Bến Tre đứng trước những thử thách vô cùng hiểm
nghèo.
1.2.2. Đấu tranh giữ gìn lực lượng cách mạng ở Bến Tre (1954 – 1958)
1.2.2.1. Chủ trương của các cấp ủy Đảng
Đứng trước tình hình khó khăn đó, Đảng đã kịp thời đề ra một số chủ
trương, biện pháp để đưa cách mạng miền Nam đi lên. Tháng 9 – 1954, Bộ
Chính trị Trung ương Đảng họp, ra nghị quyết về “tình hình mới, nhiệm vụ mới
và chính sách mới của Đảng”. Bộ Chính trị nhận định: “Nhiệm vụ đấu tranh giải
phóng dân tộc của nhân dân ta chưa phải hồn thành, cuộc đấu tranh ái quốc
khơng vì đình chiến mà kết thúc, cuộc đấu tranh đó cịn đang tiếp tục, nhưng
phương thức đấu tranh cần phải thay đổi. Chúng ta cần hồn thành sự nghiệp
giải phóng dân tộc trong hình thức đấu tranh mới” [3, tr.129].
Quán triệt nghị quyết của Bộ Chính trị, tháng 10 – 1954, Xứ ủy Nam Bộ
họp hội nghị lần thứ nhất xác định mục tiêu và phương thức đấu tranh cách
mạng miền Nam trong giai đoạn mới. Hội nghị vạch rõ: cuộc đấu tranh ở miền
Nam trong giai đoạn hiện tại phải chuyển từ hình thức đấu tranh quân sự sang
đấu tranh chính trị, nhằm giữ vững hịa bình, tranh thủ thực hiện tự do, dân chủ,
cải thiện dân sinh, tiến tới hoàn thành độc lập dân tộc, dân chủ, thống nhất, tất cả
công tác của Đảng đều nhằm động viên tập hợp quần chúng đấu tranh chính trị,
đồng thời các Đảng bộ phải cảnh giác, sẵn sàng đối phó với khả năng đối
phương phá hoại hiệp định, gây lại chiến tranh.
Như vậy là sau Hội nghị Giơ-ne-vơ, “chủ trương của Trung ương Đảng là
đấu tranh chính trị hịa bình nhằm thống nhất nước nhà theo đúng tinh thần
Hiệp định Giơ-ne-vơ” [21, tr.41]. Trung ương Đảng không cho phép miền Nam
tiến hành đấu tranh vũ trang, kể cả việc kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh
chính trị dưới mọi hình thức, cho như thế là mạo hiểm, phiêu lưu.