BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Tuyết Nhung
PHIM TRUYỆN LÀNG VŨ ĐẠI NGÀY ẤY VÀ
VIỆC CHUYỂN THỂ CÁC TÁC PHẨM
TRUYỆN VĂN HỌC CỦA NAM CAO
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
Thành phố Hồ Chí Minh - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Tuyết Nhung
PHIM TRUYỆN LÀNG VŨ ĐẠI NGÀY ẤY VÀ
VIỆC CHUYỂN THỂ CÁC TÁC PHẨM
TRUYỆN VĂN HỌC CỦA NAM CAO
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÂM VINH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Tuyết Nhung
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn và tri ân sự nhiệt tình giúp đỡ của Ban giám hiệu
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, phịng sau đại học, tập thể thầy
cô khoa Ngữ Văn đã tạo điều kiện cho tôi học tập và nghiên cứu trong suốt khóa
học.
Tơi xin đặc biệt tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Lâm Vinh,
thầy đã tận tụy chỉ bảo, hướng dẫn và động viên tơi trong suốt q trình thực hiện
đề tài này.
Tơi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã tạo điều kiện,
động viên tơi hồn thành để tài nghiên cứu này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2015
Nguyễn Thị Tuyết Nhung
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề......................................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 7
6. Những đóng góp mới của đề tài ............................................................................. 8
7. Cấu trúc luận văn .................................................................................................... 8
CHƯƠNG 1:VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM TRUYỆN VĂN HỌC
SANG TÁC PHẨM PHIM TRUYỆN ĐIỆN ẢNH.............................................. 10
1.1. Mối quan hệ tương đồng và khác biệt ............................................................... 10
1.1.1. Mối quan hệ tương đồng .......................................................................... 10
1.1.2. Mối quan hệ khác biệt.............................................................................. 30
1.2. Cơ chế và quy trình chuyển thể từ tác phẩm truyện văn học sang tác phẩm phim
truyện điện ảnh ......................................................................................................... 38
1.2.1. Cơ chế chuyển thể.................................................................................... 38
1.2.2. Những công việc thực hiện việc chuyển thể ............................................ 42
1.2.3. Quy trình sản xuất phim truyện điện ảnh ................................................ 49
CHƯƠNG 2:PHIM TRUYỆN LÀNG VŨ ĐẠI NGÀY ẤY VÀ CÁC TÁC
PHẨM CHÍ PHÈO, LÃO HẠC, SỐNG MỊN .................................................... 56
2.1. Từ truyện Chí Phèo đến các tình huống, sự kiện và nhân vật tương ứng trong
phim truyện ............................................................................................................... 60
2.1.1. Tình huống, sự kiện ................................................................................. 61
2.1.2. Nhân vật ................................................................................................... 76
2.2. Từ truyện Lão Hạc đến các tình huống, sự kiện và nhân vật tương ứng trong
phim truyện ............................................................................................................... 85
2.2.1. Tình huống, sự kiện ................................................................................. 85
2.2.2. Nhân vật ................................................................................................... 96
2.3. Từ truyện Sống Mịn đến các tình huống, sự kiện và nhân vật tương ứng trong
phim truyện ............................................................................................................. 100
2.3.1 Tình huống, sự kiện ................................................................................ 101
2.3.2. Nhân vật ................................................................................................. 102
CHƯƠNG 3:NHỮNG THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ CỦA VIỆC CHUYỂN
THỂ ........................................................................................................................ 107
3.1. Thành công ...................................................................................................... 108
3.1.1. Tạo không gian làng Vũ Đại chung cho cả ba truyện ........................... 108
3.1.2. Diễn tả những đặc tính quan trọng của các nhân vật ............................. 119
3.1.3. Hư cấu và sáng tạo thêm các cảnh mới trong phim ............................... 125
3.1.4. Thành công về mặt nghệ thuật và kỹ thuật ............................................ 129
3.2. Hạn chế ............................................................................................................ 137
3.2.1. Tính chỉnh thể của tác phẩm văn học bị chia nhỏ ................................. 138
3.2.2. Cách xây dựng tình huống, sự kiện và nhân vật .................................... 140
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 142
PHỤ LỤC .............................................................................................................. 144
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................... 160
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghệ thuật là một thành quả kì diệu, vĩ đại của trí tuệ và tâm hồn nhân loại.
Trong quá trình vận động, phát triển, nghệ thuật ngày càng đáp ứng và làm thỏa
mãn những nhu cầu phong phú và đa dạng của đời sống. Vì thế, nghệ thuật đã trở
thành một nhu cầu khơng thể thiếu và chính trong nghệ thuật, con người tìm thấy sự
biểu hiện cao nhất và đầy đủ nhất những khả năng nhiều mặt của mình. Đó là văn
học, hội họa, âm nhạc, điêu khắc, kiến trúc, sân khấu… và sau này là điện ảnh. Văn
học là loại hình nghệ thuật đặc thù, quan tâm và thể hiện đời sống con người ở
nhiều góc độ, nhiều phương diện. Nói cách khác văn học là câu chuyện về những
cuộc đời cụ thể trong đời sống. Tác phẩm văn học luôn là sự tìm tịi, khám phá ra
những bí ẩn, những trăn trở về thân phận, về cuộc đời để con người suy nghĩ,
nghiền ngẫm và chiêm nghiệm. Đây cũng chính là mục tiêu chung của các loại hình
nghệ thuật trong đó có điện ảnh.
Các loại hình nghệ thuật có mối quan hệ qua lại, tác động và thâm nhập lẫn
nhau. Trong đó, mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh được xem là “duyên phận”.
Văn học trở thành nguồn “nguyên liệu” quan trọng, nguồn sức mạnh nội tại mạnh
mẽ cho sự phát triển của điện ảnh.
Chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh đã và đang là hiện
tượng hết sức phổ biến trong đời sống văn hoá nghệ thuật trên thế giới và ở Việt
Nam.
Trên thế giới, những bộ phim được chuyển thể thành công từ các tác phẩm
văn học như: Khơng chốn nương thân, Áo khốc lông chồn, Nhật ký tiểu thư Jones,
Chúa tể những chiếc nhẫn, series phim Harry Potter, Tối hậu thư của Bourne,
Chạng vạng, Nhật thực…Và đặc biệt, những bộ phim hay nhất trong giải Oscar là
phim chuyển thể từ các tác phẩm văn học tiêu biểu như:The curious case of
Benjamin Button chuyển thể từ truyện ngắn của nhà văn Mỹ Frank Scott
Fritzgerald, The reader chuyển thể từ tác phẩm Best-seller của nhà văn Đức
Bernhard Schlink và No Countryfor Old men chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của
2
nhà văn Cormac McCarthy, … đã khiến giới phê bình phim ngày càng ấn tượng với
phim chuyển thể từ tác phẩm văn học.
Ở Việt Nam, người ta không thể không kể đến đóng góp rất đáng tự hào của
những bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm văn học: Kim Vân Kiều (1923, dựa
trên tác phẩm bất hủ Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du), Lục Vân Tiên (1957,
dựa theo truyện Nơm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu), Chim vành khuyên
(1962, dựa trên truyện ngắn Câu chuyện một bài ca của Nguyễn Văn Thông), Trống
mái và Gánh hàng hoa (1971, dựa theo tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn), Chị
Dậu (1980, chuyển thể từ tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố), Làng Vũ Đại ngày
ấy (1982, chuyển thể từ các tác phẩm: Sống mòn, Lão Hạc, Chí Phèo của nhà văn
Nam Cao), Người đi tìm dĩ vãng (chuyển thể từ tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng của nhà
văn Chu Lai), Tướng về hưu (1988) và Những người thợ xẻ (1998) - chuyển thể từ
truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Huy Thiệp, Thời xa vắng (2004, chuyển thể từ
tiểu thuyết Thời xa vắng của nhà văn Lê Lựu), Mê Thảo - Thời vang bóng (2003,
chuyển thể từ tác phẩm Chùa đàn của Nguyễn Tuân…. Tuy nhiên, so với điện ảnh
thế giới những bộ phim truyện chuyển thể thành công từ tác phẩm văn học của điện
ảnh Việt Nam còn khá khiêm tốn.
Tác phẩm điện ảnh chuyển thể dựa trên tác phẩm văn học ln có được một
lượng lớn người xem chào đón nhiệt tình. Đây chính là lợi thế về kinh tế đối với
điện ảnh. Chính vì vậy trong quá trình hình thành và phát triển nghệ thuật điện ảnh,
hàng loạt tác phẩm văn chương được chuyển thể thành phim truyện, đem đến “món
ăn tinh thần” mới mẻ, “lạ miệng” cho điện ảnh. Điện ảnh đã khai thác mảnh đất
màu mỡ của văn học làm tiền đề cho sự phát triển của mình. Thơng qua tác phẩm
điện ảnh, tác phẩm văn học được tiếp nhận dưới góc nhìn khác hơn và qua đó dễ
dàng đi sâu vào đời sống.
Nam Cao là một trong những nhà văn lớn của thế kỉ XX được nhiều người
nghiên cứu nhất. Nam Cao xuất hiện trên văn đàn khi các trào lưu văn học đã định
hình và phát triển. Tác phẩm văn học của Nam Cao dù ra đời cách đây hàng chục
năm nhưng vẫn còn gần gũi với chúng ta ngày nay. Các tác phẩm của ông được điện
ảnh chuyển thể thành cơng, được người xem đón nhận nồng nhiệt. Tuy nhiên, từ tác
3
phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh không phải là một con đường bằng phẳng, dễ
dàng mà đầy khó khăn, thử thách. Vậy khi tác phẩm văn học chuyển thể sang tác
phẩm điện ảnh, nó đã khai thác và chuyển hóa những gì? Nó biến đổi ra sao và có
bảo tồn tính văn học nữa khơng? Ngược lại, nghệ thuật điện ảnh đã tác động vào
văn học như thế nào? Thành công và hạn chế của việc chuyển thể tác phẩm văn học
sang tác phẩm điện ảnh là gì?
Với việc lựa chọn đề tài Phim truyện Làng Vũ Đại ngày ấy và việc chuyển
thể các tác phẩm truyện văn học của Nam Cao tơi mong tìm hiểu và lí giải được
phần nào mối quan hệ đa chiều và phức tạp đó.
2. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu về vấn đề chuyển thể từ tác phẩm văn học đến tác phẩm
điện ảnh, đặc biệt về mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh đã tạo được nhiều ấn
tượng trong lịng bạn đọc và người xem nói chung, sự quan tâm của giới nghiên
cứu, phê bình nói riêng. Tuy nhiên, phần lớn các bài viết cịn mang tính chất giới
thiệu hoặc nghiên cứu khái quát về mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh, chưa có
nhiều cơng trình về một tác phẩm văn học chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh cụ
thể. Phim truyện Làng Vũ Đại ngày ấy và việc chuyển thể các tác phẩm truyện
văn học của Nam Cao hiện chưa có cơng trình nghiên cứu nào. Qua khảo sát và tìm
hiểu, chúng tơi tìm thấy một số cơng trình nghiên cứu sau:
1.Sách:
-
Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh, Phan Bích Thủy, Hội
điện ảnh Việt Nam xuất bản (2014)
2.Tạp chí và bài báo:
-
Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh (Tạp chí Văn hố nghệ thuật,
số 12-2002, Minh Trí).
-
Từ văn học đến điện ảnh (Tạp chí Văn hố nghệ thuật, số 2 năm 2001,
Hương Nguyên).
-
Từ văn học đến điện ảnh (Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 6/1999,
Phạm Vũ Dũng).
4
-
Về cái gọi là tính văn học trong điện ảnh (Tạp chí Nghiên cứu Nghệ
thuật, số 06 – 1984, Lê Châu).
-
Từ văn học đến điện ảnh (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 06 – 1999,
Phạm Vũ Dũng).
-
Từ văn học đến điện ảnh (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 02 – 2001,
Hương Nguyên).
-
Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật,
số 10- 2002, Minh Trí).
-
Khi nhà văn viết kịch bản, (Tạp chí ĐANN, số 31- 1997, Nguyên
Ngọc).
-
Trung Quốc: sự tương tác giữa văn học và điện ảnh (Thế Hà tổng hợp
từ China.com.cn, nguồn: )
-
Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh - Khơng thích lối chuyển thể
“coppy”! của Phạm Thuỳ Nhân trên (www. ngày
18/12/2007),
-
Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh - Vì cùng tần số rung động
(Thuỷ Lê, Tạp chí Đẹp).
Các tạp chí và bài báo trên mới chỉ mang tính chất giới thiệu khái quát về
mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh, trong đó chủ yếu nhấn mạnh vai trò của văn
học đối với điện ảnh qua việc chuyển thể tác phẩm văn học lên màn ảnh chứ chưa đi
vào những phân tích cụ thể.
3. Luận văn, luận án:
-
Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh (Khảo sát việc chuyển
thể tác phẩm truyện văn học thành tác phim truyện điện ảnh trong lịch
sử văn học và điện ảnh Việt Nam) của Phan Bích Thủy, năm 2013.
-
Chất điện ảnh trong văn học qua một số tiểu thuyết của M.Duras của
Đỗ Thị Ngọc Điệp, năm 2006.
-
Mật mã Da Vinci - Từ tiểu thuyết đến điện ảnh (so sánh tác phẩm văn
học và tác phẩm điện ảnh) của Hà Thị Phượng, năm 2007.
5
-
Kết cấu, người kể chuyện và không gian trong phim Rashomon của
đạo diễn Kurasawa dưới góc nhìn trần thuật học của Đồn Thị Bích
Thuỷ, năm 2008.
-
Nhân vật trung tâm từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh của
Phan Bích Thủy, năm 2005.
4. Các bài viết khác:
-
Về q trình chuyển thể tiểu thuyết thành phim (qua tác phẩm Triệu
phú ổ chuột) của Phạm Ngọc Hiến.
-
Phim chuyển thể - Những khái niệm [69] của Nguyễn Mai Loan.
-
Cải biên tác phẩm văn học sang kịch bản điện ảnh [70] của Lê Cẩm
Lượng.
-
Tác phẩm chuyển thể: những mặt mạnh và yếu [118] của Huyền
Thanh.
-
Đặc trưng của văn học và điện ảnh của I.Vai-sphen (Liên Xô).
-
Phương pháp biểu hiện truyện phim của M.Rôm (Liên Xô).
-
Đặc điểm thành phần văn xuôi trong truyện phim của I.Khây-phít-xơ
(Liên Xơ).
-
Thời của kịch bản chuyển thể [122] của Quỳnh Trang.
-
Tiếc nuối từ phim Cánh đồng bất tận [123] của Anh Thư.
-
Cánh đồng bất tận và cuộc đối thoại giữa văn học – điện ảnh của Lê
Thị Dương.
-
Nhìn lằn ranh giữa văn học và điện ảnh qua Sắc, Giới của Phan Thu
Vân.
-
Phân tích bảy câu chuyện ngắn chuyển thể từ bảy truyện ngắn của
nhà văn Nguyễn Thị Minh Ngọc.
Các bài viết trên có những phân tích và so sánh rất thú vị về tác phẩm văn
học gốc và phim truyện chuyển thể. Tuy nhiên, một số bài viết trên chưa phải là một
cơng trình nghiên cứu chun sâu và có hệ thống về mối quan hệ giữa văn học và
điện ảnh.
6
(1) Trang web:
-
Sách và phim chuyển thể trên website
-
Kịch bản điện ảnh cải biên từ văn học trên
website
-
Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm Điện ảnh trên
website />
-
Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh trên
website />
Nhìn chung, những cơng trình nghiên cứu về vấn đề chuyển thể từ tác phẩm
văn học đến tác phẩm điện ảnh vẫn còn khá khiêm tốn về nội dung, số lượng và
được đăng tải rời rạc trên một số trang báo, tạp chí hoặc qua những lời nhận xét,
đánh giá trong một số cơng trình. Đặc biệt, chưa có một cơng trình nghiên cứu nào
về phim truyện Làng Vũ Đại ngày ấy và việc chuyển thể từ tác phẩm truyện văn học
của Nam Cao.
Ngồi ra, những cơng trình nghiên cứu trên đã gợi ý giúp người viết thực
hiện việc tìm hiểu những nét khái quát cho đến việc khảo sát chi tiết và có hệ thống
Phim truyện Làng Vũ Đại ngày ấy và việc chuyển thể các tác phẩm truyện văn học
của Nam Cao. Để từ đó thấy rõ vai trò, sự gắn kết của văn học và điện ảnh trong
việc sáng tạo thành phim truyện. Đồng thời, nhận thấy những nét thành công và hạn
chế khi thực hiện việc chuyển thể từ tác phẩm truyện văn học của Nam Cao đến tác
phẩm phim truyện điện ảnh.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu Phim truyện Làng Vũ Đại ngày ấy và việc chuyển thể các tác
phẩm truyện văn học của Nam Cao (khảo sát ba tác phẩm: Chí Phèo, Lão Hạc,
Sống mòn chuyển thể thành phim truyện Làng Vũ Đại ngày ấy) để thấy được những
nét thành công và hạn chế của việc chuyển thể từ tác phẩm truyện văn học của Nam
Cao đến tác phẩm phim truyện điện ảnh. Từ đó, chúng tơi hiểu biết thêm về văn học
7
và điện ảnh, mối liên hệ về những nét tương đồng và khác biệt giữa tác phẩm truyện
văn học và phim truyện điện ảnh.
Là một giáo viên, tôi mong muốn chiếm lĩnh một cách đầy trọn về kiến thức
văn học và điện ảnh trong quá trình sáng tạo phim truyện chuyển thể từ tác phẩm
văn học. Qua đó, chúng tơi trau dồi kiến thức văn học và điện ảnh trong quá trình
giảng dạy để truyền đạt cho học sinh những giá trị đích thực của tác phẩm nghệ
thuật trong việc hiểu đúng về tư tưởng, thẫm mỹ đồng thời tiếp nhận tốt tác phẩm
văn học nghệ thuật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Phim truyện Làng Vũ Đại ngày ấy và việc chuyển thể các tác
phẩm truyện văn học của Nam Cao.
Phạm vi: Để nghiên cứu đề tài Phim truyện Làng Vũ Đại ngày ấy và việc
chuyển thể các tác phẩm truyện văn học của Nam, người viết nghiên cứu trong
phạm vị tình huống, sự kiện, nhân vật dựa vào việc bám sát vào ba tác phẩm: Chí
Phèo, Lão Hạc và Sống mòn của Nam Cao, kết hợp kịch bản điện ảnh và phim
truyện Làng Vũ Đại ngày ấy. Bên cạnh đó, người viết tìm hiểu thêm các tài liệu về
lí luận nghiên cứu những tác phẩm văn học và phim truyện Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu đã nêu trên, luận
văn kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp liên ngành: Nghiên cứu lý luận và lịch sử văn học, lý luận và
lịch sử điện ảnh.
Phương pháp hệ thống và tổng hợp: Nghiên cứu làm rõ một cách hệ thống,
đầy đủ những tương đồng và khác biệt các tác phẩm văn học gốc của Nam Cao và
tác phẩm phim truyện điện ảnh trong q trình thực hiện việc chuyển thể, từ đó có
những nhận thấy rõ ràng về mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh.
Phương pháp so sánh, thống kê: Nhóm các phương pháp phân tích, đối
chiếu, giảng bình, khảo sát, thống kê, miêu tả … để có thể đánh giá, nhận xét những
8
thành công và hạn chế của việc chuyển thể từ tác phẩm văn học của Nam Cao sang
tác phẩm phim truyện điện ảnh. Đồng thời, người viết có thể rút ra một số kết luận,
đề nghị cần thiết.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Phần nghiên cứu q trình chuyển thể từ tác phẩm văn học của Nam Cao
sang phim truyện điện ảnh từ trước đến nay có rất ít nhà nghiên cứu đề cập. Cho
nên luận văn đã cố gắng tìm hiểu sâu sắc vào một số khía cạnh chưa được các nhà
nghiên cứu đề cập, hoặc đã có đề cập nhưng chưa đi sâu. Sau đây là một số đóng
góp mới của đề tài:
Thứ nhất, luận văn góp phần làm rõ thêm bản chất mối quan hệ giữa văn học
và điện ảnh.
Thứ hai, luận văn góp phần làm rõ thêm những nét tương đồng và khác biệt
trong quá trình chuyển thể từ các tác phẩm truyện văn học của Nam Cao sang tác
phẩm phim truyện điện ảnh Làng Vũ Đại ngày ấy.
Thứ ba, luận văn góp phần thấy rõ những nét thành công và hạn chế khi
chuyển thể từ ba tác phẩm văn học của Nam Cao sang tác phẩm phim truyện điện
ảnh Làng Vũ Đại ngày ấy.
Cuối cùng, nghiên cứu về đề tài Phim Làng Vũ Đại ngày ấy và việc chuyển
thể các tác phẩm truyện văn học của Nam Cao cịn có ý nghĩa thực tiễn trong công
tác giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường phổ thơng. Do đó, việc giới thiệu phim
truyện Làng Vũ Đại ngày ấy vào nội dung giảng dạy sẽ góp phần làm cho giờ học
trở nên phong phú và sinh động.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Vấn đề chuyển thể từ tác truyện văn học sang tác phẩm phim
truyện điện ảnh
9
Chương 2: Tác phẩm Chí Phèo, Lão Hạc, Sống Mịn và phim truyện Làng
Vũ Đại ngày ấy
Chương 3: Những thành công và hạn chế của việc chuyển thể
KẾT LUẬN
10
CHƯƠNG 1
VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM TRUYỆN VĂN HỌC SANG TÁC
PHẨM PHIM TRUYỆN ĐIỆN ẢNH
Kể từ ngày nghệ thuật điện ảnh ra đời, các tác phẩm văn học nổi tiếng trên
thế giới lần lượt được chuyển thể thành những tác phẩm điện ảnh kinh điển. Nền
điện ảnh Việt Nam hiện đại đã từng có những bộ phim nổi tiếng chuyển thể từ văn
học như: Con chim vành khuyên, Ván bài lật ngửa, Vợ chồng A Phủ, Mùa gió
chướng, …. Vì vậy, nghiên cứu quá trình chuyển thể tác phẩm văn học sang tác
phẩm điện ảnh không thể không tìm hiểu một số cơ sở lý luận về mối quan hệ tương
đồng và khác biệt giữa hai loại hình nghệ thuật văn học và điện ảnh.
1.1. MỐI QUAN HỆ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
1.1.1. MỐI QUAN HỆ TƯƠNG ĐỒNG
Trên bình diện triết học: theo chủ nghĩa duy vật lịch sử thì nghệ thuật là một
hình thái ý thái xã hội cùng với ý thức xã hội, tơn giáo, chính trị, kinh tế … thuộc về
kiến trúc thượng tầng. Văn học và điện ảnh là hai loại hình đều thuộc về ý thức xã
hội và phản ánh hiện thực bằng hình tượng.
Trên bình diện mỹ học: có thể nhận xét ở các điểm tương đồng như người
nghệ sĩ, nội dung tác phẩm (gồm nội dung tư tưởng và nội dung cụ thể), khuynh
hướng sáng tác - trường phái nghệ thuật. Về hình thức có sự tương đồng về vận
dụng khai thác thể loại.
Nghệ sĩ
Nghệ sĩ là người chuyên hoạt động sáng tác hoặc biểu diễn trong một bộ
môn nghệ thuật, người sáng tạo ra loại hình nghệ thuật như: văn học, vẽ, đồ họa,
chạm khắc, chụp ảnh, làm mơ hình, diễn kịch sân khấu… về các ý tưởng, cảm xúc
lành mạnh với văn hóa xã hội. Có thể nói, khái niệm nghệ sĩ gắn liền với khái niệm
nghệ thuật. Vì vậy khái niệm nghệ sĩ phụ thuộc nhiều vào cách hiểu về nghệ thuật.
Một khái niệm gần giống với nghệ sĩ là nghệ nhân. Một định nghĩa khác, nghệ sĩ
theo nghĩa chung “là người sản xuất các sản phẩm sáng tạo về trí tuệ khoa học,
cơng nghệ, văn hóa và nghệ thuật.”[2, tr.284]
11
Tác giả trong tác phẩm văn học và tác giả trong tác phẩm điện ảnh đều là
nghệ sĩ và họ có những đặc điểm chung nhất. Tư chất đầu tiên, cơ bản địi hỏi phải
có ở người nghệ sĩ là một tâm hồn giàu xúc động, tình cảm, nhạy cảm với thiên
nhiên, con người. Tình cảm là biểu hiện tâm lí của con người nói chung. Ðã là
người ai cũng có những yêu, ghét, hờn giận, vui buồn ... nhưng ở người nghệ sĩ điều
này trở nên đặc biệt, dễ xúc động, dễ nhạy cảm. Sóng Hồng viết: “người làm thơ
phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong lịng.” Tơ Hồi đã tâm sự
về ngun nhân cơ bản dẫn đến sự thành công của truyện Tây Bắc là “Ðất nước và
con người miền tây đã để thương để nhớ cho tơi nhiều q”. Tình cảm và sự nhạy
cảm đối với con người, thiên nhiên là nhân tố quan trọng tạo nên tác phẩm của
người nghệ sĩ.
Trí tưởng tượng sáng tạo là dấu hiệu quan trọng nhất của tài ba nghệ thuật, là
một trong những sức mạnh chủ yếu của quá trình sáng tạo. Mặc dầu vậy, năng lực
tưởng tượng không phải là vương quốc riêng của người nghệ sĩ. Năng lực tưởng
tượng tồn tại trong mọi con người. Theo Lênin thì “tưởng tượng là phẩm chất có
giá trị vĩ đại nhất”. Trong bút ký triết học, Lênin viết: “Trong sự khái quát dù dơn
giản nhất, trong một ý niệm dù sơ đẳng nhất cũng đều có một mẫu nhất định của trí
tưởng tượng. Như thế, trí tưởng tượng sáng tạo tồn tại trong mỗi con người từ
người bình thường cho đến nhà khoa học. Tưởng tượng là ước đoán, là mơ ước, là
đoán định, là vượt lên phía trước, khơng có tưởng tượng con người ta khơng sáng
tạo ra được gì hết, và do đó con người ta sẽ không tồn tại và phát triển được”.
Tuy vậy, đối với sáng tạo nghệ thuật, tưởng tượng hay sức hình dung là đặc
biệt quan trọng. Gorky coi sức tưởng tượng như là một trong những biện pháp
quan trọng nhất của kỹ thuật xây dựng hình tượng. Viatsexlap Siskov viết: “Nếu
khơng có tưởng tượng thì khơng có nghệ thuật”. Metvedev viết: “Ðặc diểm cơ bản
nhất, dấu hiệu chủ yếu của hoạt động sáng tạo là óc tưởng tượng xây dựng, sáng
tạo với tư cách là năng lực tích cực liên hợp và khái quát hóa các khái niệm và các
hình ảnh của những hồi ức vốn là hồi quang của thực tại khách quan và thực tiễn
xã hội của người nghệ sĩ”. Khơng có tưởng tượng thì khơng thể xây dựng được
hình tượng. Từ dịng thác của những cảm xúc những điều quan sát về hiện thực, trí
12
tưởng tượng vẽ nên những hình tượng có tính sáng tạo của hư cấu. Nhờ trí tưởng
tượng sáng tạo mà hình tượng nghệ thuật hư cấu trở nên đúng hơn và trung thực
hơn cả sự thật cuộc sống. Nếu không có trí tưởng tượng, nghệ thuật sẽ trở thành sao
chép tự nhiên, sao chép cuộc sống một cách máy móc vụn vặt, hời hợt và tẻ nhạt,
chụp ảnh những biểu hiện bề ngoài của hiện thực. Flaubert thực hiện những cuộc du
lịch vịng quanh trái đất mà vẫn khơng bước ra khỏi căn phịng của mình và để xây
dựng các kế hoạch - nghĩ ra các cảnh tượng bằng cách làm cho tâm hồn chìm đắm
vào tưởng tượng.
Chính Flaubert phải hóa thân vào nhân vật để sáng tạo: “Thật là một điều
kỳ diệu, viết không phải là sống thu hẹp lại trong bản thân mình mà phải quay trở
về với tồn bộ cuộc sống mà mình nói đến. Chẳng hạn hôm nay tôi vừa là đàn ông
lại vừa là đàn bà, kiêm cả đôi trai gái yêu nhau cưởi ngựa dạo quanh trong rừng,
giữa buổi trưa mùa thu, dưới lá vàng giữa heo may, vang rộn tiếng cười và ánh mặt
trời đỏ tía, làm những đơi mắt say sưa vì yêu đương phải nhắm lại, và cứ từng phút
từng giây tơi đặt mình vào địa vị của những người mà tơi ác cảm, tơi phải hết sức
cố gắng mới hình dung nổi các nhân vật của mình và nói thay cho họ, khốn nổi họ
lại làm cho tôi ghê tởm một cách sâu sắc.” Balzac tưởng tượng về những người
dưới đáy xã hội đến mức: “cảm thấy trên lưng mình có những quần áo rách nát,
cịn dưới chân thì có những đôi giày há mõm, thủng lỗ của những con người nghèo
đói mà tác giả đang viết về họ.”
Nội dung tác phẩm
Nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội. Văn học và điện ảnh là những loại
hình nghệ thuật đồng nhất về ý thức thẫm mỹ, ý thức nghệ thuật trong những phản
ánh những vấn để đời sống xã hội. Từ đó dẫn đến những tương đồng về nội dung
sáng tác. Nội dung sáng tác gồm nội dung tư tưởng và nội dung cụ thể.
Nội dung tư tưởng
Nhà văn, biên kịch, đạo diễn, diễn viên, quay phim là những nhà sáng tạo và
có cùng sự đa cảm, trí tưởng tượng bay bổng và sự tinh nhạy của các giác quan, khí
quan thẩm mỹ (thính giác, thị giác...). Cho nên tư duy của người nghệ sĩ sáng tạo
13
tác phẩm nghệ thuật khác với tư duy của nhà nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học kỹ
thuật. Hình thức của tư duy nghệ thuật là sự phản ánh hiện thực theo quy luật của
cái đẹp, là một loại mô hình đặc biệt nhằm tái hiện, tái tạo một cách sinh động hiện
thực cuộc sống với những nhu cầu và khát vọng của con người.
Tư duy của nhà biên kịch, đạo diễn gần gũi với tư duy của nhà văn, nên khi
tiếp cận tác phẩm văn học các tác giả điện ảnh dễ dàng thẩm thấu tư tưởng tình cảm
của nhà văn gửi gắm trong tác phẩm. Sự “đồng thanh tương ứng” đã làm nên tiếng
nói chung trong xây dựng hình tượng nghệ thuật. Sáng tạo nghệ thuật là lĩnh vực
của cảm xúc, là sự mách bảo của con tim nên tâm hồn nghệ sĩ thường gặp nhau qua
tác phẩm. Nhà văn khi viết tiểu thuyết hay truyện ngắn không hề nghĩ “đứa con tinh
thần” của mình sẽ có đời sống thứ hai trên màn ảnh. Nhưng “Thơ ca chân chính
bao giờ cũng là thơ ca của trái tim, cũng là tiếng hát của tâm hồn” (M.Gorki). Các
tác giả điện ảnh đã tìm thấy sự đồng điệu “của trái tim” qua các tác phẩm văn học
và mong muốn biến lời ca “tiếng hát của tâm hồn” hiện lên màn ảnh.
Trương Nghệ Mưu, đạo diễn tài ba của điện ảnh Trung Quốc đã chuyển thể
thành công nhiều bộ phim từ văn học như: Đèn lồng đỏ treo cao, Phải sống, Cao
lương đỏ, … Trong số đó nổi tiếng nhất là phim Cao lương đỏ dựa theo tiểu thuyết
của nhà văn nổi tiếng Mạc Ngơn. Đạo diễn đã biến hóa tài tình những con chữ trừu
tượng của Mạc Ngơn thành những hình ảnh sinh động trong phim. Nói về cảm xúc
từ tác phẩm văn học, đạo diễn cho biết “Những miêu tả của Mạc Ngơn về màu sắc,
đó là loại cảm giác tả ý sâu sắc... Tơi thích sự hào sảng, khống đạt của câu
chuyện. Hành động của các nhân vật đều rất mạnh mẽ, cốt truyện cũng rất có sức
mạnh, chúng đặc biệt hấp dẫn tôi”.Cao lương đỏ là bộ phim đầu tiên ông làm đạo
diễn, cũng từ bộ phim này tên tuổi của ông đã vượt ra khỏi biên giới đất nước Trung
Hoa.
Từ cảm hứng với những câu chuyện, nhân vật của văn học, các tác giả điện
ảnh có cơ sở về tư tưởng tình cảm để sáng tạo nên những kịch bản văn học điện ảnh
chất lượng và là nền tảng để có những bộ phim giá trị trong tương lai. Trong nghệ
thuật, tình cảm bao giờ cũng chứa đựng tư tưởng và tư tưởng bao giờ cũng thấm
đượm tình cảm, đó là mối quan hệ biện chứng khơng thể tách rời. Với ý nghĩa đó, tư
tưởng trong tác phẩm nghệ thuật đã trở thành thông điệp mà người nghệ sĩ gửi gắm,
14
nó góp phần làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn của tác phẩm đối với người xem.
Từ tư tưởng nhân văn cao cả, cách viết sinh động giàu cảm xúc, nhà văn Mỹ
Lew Wallace đã tái hiện chân thực đến kì lạ một thời kỳ lịch sử trong tiểu thuyết
Ben Hur. Đó là thế giới La Mã cổ đại với tất cả sự huy hoàng lộng lẫy, giàu sang tột
độ cùng những đam mê khoái lạc của tà giáo ở vào đêm trước sự suy vi, băng hoại.
Qua đó, tác giả nêu bật sự tàn ác dã man của tầng lớp thống trị La Mã muốn hủy
diệt niềm tin vào giáo lý cao đẹp của quần chúng. Từ những trang viết sinh động
của nhà văn, các tác giả điện ảnh đã chuyển thành bộ phim kinh điển nhận đến 11
giải Oscar, trong đó có giải kịch bản chuyển thể hay nhất năm 1959. Diễn viên
Charlton Heston nhận giải Oscar cho vai diễn Ben Hur và trở thành “người hùng”
trong lòng khán giả yêu nghệ thuật.
Tư tưởng trong tác phẩm nghệ thuật luôn được người nghệ sĩ xác định hết
sức rõ ràng ngay từ khi thai nghén đứa con tinh thần của mình. Đạo diễn tài ba Nga
Stanislapski cho rằng: nghệ thuật chính là “thánh đường của sự thật”. Đạo diễn
Dantrencô, nổi tiếng với phim Đất và sư trưởng Sooc-cơ, khẳng định nghệ thuật là
“trường học của cuộc sống”. Đạo diễn Eisenstein với bộ phim kinh điển Chiến hạm
Potemkin lại tin rằng người nghệ sĩ thông qua màn ảnh để “thanh lọc cuộc đời”. Từ
những quan điểm rõ ràng về tư tưởng, người nghệ sĩ xác định hướng đi đúng cho tư
tưởng tình cảm, sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật giá trị và trở thành những
tác giả nổi tiếng.
Qua những trang viết của mình, nhà văn M.Gorki đã thổi vào văn học một
luồng gió mới, buộc nhà cầm quyền đương thời phải thay đổi suy nghĩ nặng định
kiến về con người. Bằng trái tim nhân đạo và tài năng thiên phú, M.Gorki mô tả
sống động cuộc sống bị đàn áp, đói khổ của các tầng lớp dưới đáy xã hội và thấu
hiểu niềm mong ước trong tâm hồn họ. Nhà văn cho rằng: “Nghệ thuật căn bản là
một cuộc đấu tranh hoặc là để tán thành hoặc là để phản đối, chứ khơng có và
khơng thể có một nền nghệ thuật bàng quan, bởi vì con người khơng phải là một
chiếc máy ảnh, con người không ghi chép hiện thực mà hoặc là xác nhận, hoặc là
thay đổi”. Nội dung tư tưởng ấy hiện diện trong hầu hết các tác phẩm của ông. Gần
20 tác phẩm văn học bao gồm: tiểu thuyết, truyện ngắn và kịch của M.Gorki đã
được chuyển thể sang điện ảnh, tiêu biểu nhất là bộ phim truyện câm Người mẹ.
15
Nội dung tư tưởng trong tác phẩm rõ ràng có vai trị hết sức quan trọng đối
với tồn bộ cơ cấu của tác phẩm, được quyết định bởi tư tưởng của tác giả. Tư
tưởng tác phẩm có thể thâm sâu hay nông cạn, đúng đắn hay sai trái, khẳng định
hay phủ định. Tất cả đều phụ thuộc vào sự lĩnh hội và nhận thức thế giới của người
nghệ sĩ, liên quan mật thiết với lập trường tư tưởng, thế giới quan, lý tưởng thẩm
mỹ của họ. Nhà nghiên cứu Bêlinxki nhận định: “Trong những tác phẩm nghệ thuật
chân chính, tư tưởng đâu phải là một khái niệm trừu tượng được thể hiện một cách
giáo điều, mà nó là linh hồn của chúng, nó chan hịa trong chúng như ánh sáng
chan hịa trong pha lê”.
Trong tác phẩm nghệ thuật, từ ngơn ngữ đến các phương tiện thể hiện đều
mang dấu ấn của tư tưởng được người nghệ sĩ “chuyển tải” vào các hiện tượng, sự
kiện, nhân vật, chi tiết... theo một khuynh hướng thẩm mỹ nhất định. Tất cả hợp
thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài tác phẩm.
Nếu tư tưởng định hướng cho chủ để, chủ đề là cách thể hiện tập trung tư
tưởng và làm nên giá trị tác phẩm. Vì vậy, các nhà nghiên cứu đã khẳng định:
“Trong một tác phẩm tính tư tưởng khơng thể tách rời với tính nghệ thuật” và điều
này đã làm thăng hoa nhiều áng văn chương và tác phẩm điện ảnh trên thế giới và
Việt Nam.
Cùng tương đồng về nội dung tư tưởng, nên nhiều tác phẩm văn học đã trở
thành “nỗi ám ảnh” thôi thúc các tác giả điện ảnh muốn tái hiện câu chuyện văn
học lên màn ảnh. Đạo diễn nổi tiếng Trung Quốc Lý An khi chuyển thể tác phẩm
Sắc Giới của nhà văn Trương Ái Linh đã chia sẻ: “Lúc đầu không nghĩ đến việc
dựng thành phim, nhưng vì khơng thể qn được, nên cuối cùng phải bắt tay vào
làm phim để khám phá xem nguyên nhân khiến mình khơng thể qn được điều ấy
là gì...”. Từ sự ngăn trở, đòi hỏi khám phá ấy, các tác giả điện ảnh đã đưa những tư
tưởng trong văn học vào phim truyện một cách thuyết phục và cống hiến cho nghệ
thuật, cho người xem những tác phẩm tuyệt vời.
Nói về ý nghĩa của nội dung tư tưởng trong tác phầm điện ảnh, đạo diễn Iran
Abbas Kiarostami nhận xét:“...Bằng phương tiện điện ảnh chúng ta sáng tạo ra một
thế giới khác, thật hơn, cơng bằng hơn. Đó khơng phải là thế giới giả tạo mà ngược
lại, làm bật ra sự đối chọi giữa thực tế và lí tưởng, giúp ta hiểu biết mình hơn, tiến
16
gần cuộc sống ước mơ hơn”.
Như vậy, một khi đã xác định được nội dung tư tưởng, người nghệ sĩ sẽ thổi
những tư tưởng tình cảm ấy vào từng chi tiết, từng nội dung cụ thể của tác phẩm và
làm nên giá trị tư tưởng nghệ thuật cho tác phẩm.
Nội dung cụ thể
Nghiên cứu về những nét tương đồng trong nội dung cụ thể thuộc hai loại
hình nghệ thuật văn học và điện ảnh gồm các vấn để chung: đề tài, chủ đề và sự
kiện nhân vật.
Đề tài
Khái niệm đề tài được dùng khá linh hoạt, có những đề tài ở tầm khái quát về
những lĩnh vực hoạt động rộng lớn của xã hội như: chính trị, tơn giáo, qn sự, kinh
tế, văn hóa. Đồng thời có những đề tài hẹp hơn như khoa học, kỹ thuật trong nông
nghiệp, công nghiệp. Vô vàn những nhu cầu đa dạng của con người và cuộc sống đã
đặt ra hệ đề tài phong phú chờ văn học, nghệ thuật tiếp cận và phản ánh. Văn học,
nghệ thuật đã trở thành bách khoa toàn thư về muôn mặt của đời sống xã hội. Đề tài
là “Khái niệm chỉ loại các hiện tượng đời sống được miêu tả phản ánh trực tiếp
trong sáng tác văn học.”
Trong một cuộc trao đổi về sự ảnh hưởng của văn học đối với phim chuyển
thể đạo diễn Trương Nghệ Mưu chia sẻ: “Các phim của tôi đều chuyển thể từ tiểu
thuyết. Tơi thường xem tiểu thuyết để tìm đề tài... điều khó nhất đối với tơi là ngồi
trước trang giấy trắng hoặc ngồi trước máy vi tính, bắt tơi làm việc từ con số
không. Cho nên tôi rất khâm phục các nhà văn, sao họ có thể viết ra nhiều câu
chuyện đến thế?”. Từ những hiện tượng của cuộc sống, người nghệ sĩ đã lĩnh hội và
khái quát thành đề tài theo cảm nhận của riêng mình. Đề tài mang dấu ấn rõ rệt của
đời sống khách quan, nhưng nó cũng là sự ghi nhận chủ quan của người sáng tác.
Mỗi người nghệ sĩ với thế mạnh và khả năng riêng biệt về một vài đề tài tiêu biểu
đã tạo nên những phong cách độc đáo trong nghệ thuật phản ánh hiện thực. Nhà
biên kịch Nga nổi tiếng Gabrilôvichnhận xét: “Không một bộ phim nào, dù quy mô
17
đến đâu, lại có thể tồn tại bên ngồi số phận con người, ngoài những quan hệ phức
tạp của con người, thậm chí hết sức phức tạp”. Cùng chọn con người và xã hội con
người làm đề tài phản ánh hiện thực, văn học và điện ảnh có sự gần gũi, tương đồng
về đề tài.
Trong văn học Việt Nam trước năm 1945, đề tài phản ánh hiện thực xã hội
đen tối, bất công đối với những con người cùng khổ được chú ý nhất, nhưng mỗi tác
giả có cách phát hiện và ghi nhận hiện thực theo chủ quan của mình. Phạm vi hiện
thực cuộc sống trong đề tài có thể hẹp hay rộng phụ thuộc vào cảm hứng sáng tạo,
sở trường năng lực và trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống. Trong Tắt
đèn, nhà văn Ngô Tất Tố miêu tả nỗi thống khổ, sự kiệt quệ của người nơng dân vì
nạn sưu cao thuế nặng. Nhà văn bộc lộ tấm lịng thương cảm của mình với những
cảnh đời bị chà đạp tàn nhẫn và lên án mạnh mẽ thói tham lam vơ độ của bọn cường
hào địa chủ phong kiến. Ở các tác phẩm của nhà văn Nam Cao, cũng là cái đói, cái
nghèo đeo đẳng, hành hạ con người đến cùng cực như Lão Hạc, kiếp người vật vờ,
bị chà đạp, bị hủy hoại nhân tính như Chí Phèo, hay cuộc sống quẩn quanh khơng
lối thốt của giới giáo chức trong Sống mòn. Yêu mến đề tài trong tác phẩm văn học
của Ngô Tất Tố, đạo diễn Phạm Văn Khoa đã dựng thành phim Chị Dậu năm 1980.
Cùng đề tài về kiếp sống tủi nhục của con người trong xã hội cũ, từ ba tác phẩm Chí
Phèo, Lão Hạc, Sống mịn của Nam Cao, đạo diễn Phạm Văn Khoa chuyển thể
thành phim truyện Làng Vũ Đại ngày ấy năm 1983.
Đề tài không chỉ mang đậm sắc thái cá nhân gắn với kinh nghiệm sống và sự
từng trải của người nghệ sĩ, mà còn chứa đựng ý nghĩa xã hội và nhân sinh. Việc lựa
chọn đề tài đã thể hiện khá rõ khuynh hướng trong lập trường tư tưởng của người
nghệ sĩ. Vì vậy, đề tài trong tác phẩm có quan hệ mật thiết với chủ đề và tư tưởng.
Chủ đề
Chủ đề được hình thành và thể hiện trên cơ sở của đề tài, là yếu tố quan
trọng cấu thành nội dung tư tưởng của tác phẩm nghệ thuật. Chủ đề của tác phẩm
luôn là những vấn đề nảy sinh từ đời sống xã hội, được chắt lọc và khái qt qua
lăng kính của nhà văn. Đó là những vấn đề cơ bản, trung tâm được nhà văn nêu lên,
18
đặt ra trong nội dung cụ thể của tác phẩm văn học. Xưa nay, những vấn đề mang
tính vĩnh cửu: hạnh phúc, tình yêu, ước mơ, hy vọng, niềm vui, nỗi buồn, sự sống,
cái chết... mãi là những vấn đề được con người quan tâm hàng đầu, dù cách cảm
nhận nó ở từng thời đại và trong các giai tầng xã hội ln có nhiều dị biệt. Nhưng
những tác phẩm nghệ thuật mang những chủ đề này vẫn khiến con người phải thổn
thức buồn vui, căm giận.
Nói về cách lựa chọn chủ đề, đạo diễn Nga Poudovkin nhận xét: “Chủ đề là
một khái niệm chung cho các môn nghệ thuật. Mỗi ý nghĩ của con người đều có thể
trở thành chủ đề của tác phẩm. Điện ảnh cũng như các môn nghệ thuật khác, không
bị hạn chế trong việc lựa chọn chủ đề. Vấn đề duy nhất là xem nó có giá trị đối với
khán giả hay khơng...”. Chủ đề có vai trị trong việc phát hiện, đặt vấn đề và giải
quyết vấn đề trong tác phẩm. Nhưng quan trọng hơn cả là sự tác động của tác phẩm
vào nhận thức tư tưởng của người thưởng thức. Cho nên, người nghệ sĩ sáng tác
trong quá trình xây dựng tác phẩm thường tập trung “trí và lực” để nêu bật vấn đề
tác giả muốn đề cập qua các hệ thống hình tượng cảm xúc, hình tượng nhân vật
hoặc qua những biến cố, sự kiện khác thường... Cũng có khi thể hiện qua các chi tiết
tên tác phẩm, lời thoại nhân vật hay lời bình của tác giả.
Trong văn học và điện ảnh thế giới, nhiều tác phẩm nổi tiếng có chủ đề thể
hiện ngay ở tựa đề như: Chiến tranh và hịa bình của L.Tơnxtơi, Tội ác và trừng
phạt của Đơstơievski, Số phận con người của Sôlôkhôp, Những người khốn khổ của
V. Huygô.
Điều này cũng thể hiện trong văn học và điện ảnh Việt Nam qua những tiểu
thuyết và phim truyện như: Xa và gần, Thời xa vắng. Hay các truyện ngắn và phim
như: Con chim vành khuyên, Tướng về hưu, Trăng nơi đáy giếng... Ý nghĩa tựa đề
của mỗi tác phẩm đã mang đến cho người xem những cảm nhận đầu tiên, bao quát
về những vấn đề mà tác phẩm đặt ra.
Trong Sống mòn nhà văn Nam Cao thể hiện sâu sắc chủ đề khi ông viết:
“Đời y sẽ mốc lên, sẽ mịn, sẽ mục ra ở một xó nhà quê. Người ta sẽ khinh y, chính
y sẽ khinh y. Rồi y sẽ chết mà chưa làm gì cả, chết mà chưa sống”. Trong phim
19
Làng Vũ Đại ngày ấy, đạo diễn Phạm Văn Khoa cũng sử dụng ý tưởng trên, làm
chủ đề trung tâm cho phim. Thầy giáo Thứ trên phim như một nhân chứng sống dõi
theo cuộc sống khốn khổ của người dân làng Vũ Đại, đặc biệt cái chết bi thương của
Lão Hạc, Chí Phèo. Mắt thấy tai nghe những điều bất cơng, thầy giáo Thứ quyết
định rời khỏi làng, đi tìm con đường sống cho bản thân, gia đình và bà con làng Vũ
Đại.
Chủ đề tiểu thuyết Con đường đau khổ được nhà văn Nga Alêcxây Tônxtôi
bộc lộ qua lời tâm sự của Rơtsin nói với Katia: “Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi,
cách mạng sẽ thôi gào thét, chỉ còn tấm lòng êm dịu dàng ngàn đời bất diệt”. Chủ
đề từ văn học được các tác giả điện ảnh diễn tả thật sinh động và lơi cuốn qua hình
ảnh những biến cố dữ dội của cách mạng Nga tháng Hai và tháng Mười năm 1917,
thông qua số phận thăng trầm và mối tình thủy chung của hai nhân vật chính Rơtsin
và Katia trong phim.
Khi chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh, các tác giả điện ảnh thường
chọn chủ đề gần gũi với tác phẩm văn học gốc. Đó cũng là một trong những lý do
mà ngày càng nhiều tác phẩm văn học có đời sống thứ hai trên màn ảnh.
Sự kiện, nhân vật
Thông qua các sự kiện, số phận và tính cách của hình tượng nhân vật được
bộc lộ và phát triển. Hiện thực khách quan trong những phạm vi khác nhau có con
người tham gia hoạt động ln xoay quanh các sự kiện xã hội. Đó có thể là sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập của cuộc sống: cái tốt và cái xấu, cái mới và cái cũ, sự
sống và cái chết, cái tích cực và tiêu cực... Hoặc là cuộc đấu tranh diễn ra trong từng
con người, từng sự vật hiện tượng, có khi giữa các nhóm, các giai cấp, các dân tộc.
Những xung đột xã hội là mơi trường để tính cách nhân vật phát triển và chủ đề tác
phẩm phát lộ.
Tiểu thuyết Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố mô tả thảm cảnh của nông dân
Việt Nam trước cách mạng do tình trạng sưu thuế hà khắc của chế độ thực dân
phong kiến gây ra. Khơng có tiền để nộp sưu thuế cho chồng và người em chồng đã