Tải bản đầy đủ (.pdf) (163 trang)

Diễn ngôn nữ quyền trong văn xuôi sương nguyệt minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 163 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Ngọc Giàu

DIỄN NGƠN NỮ QUYỀN
TRONG VĂN XUÔI SƯƠNG NGUYỆT MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Ngọc Giàu

DIỄN NGƠN NỮ QUYỀN
TRONG VĂN XUÔI SƯƠNG NGUYỆT MINH
Chuyên ngành

: Văn học Việt Nam

Mã số

: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. BÙI THANH TRUYỀN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Tất cả nội dung,
số liệu, bảng thống kê trình bày trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa
được công bố ở bất cứ cơng trình nào.

Học viên

Nguyễn Thị Ngọc Giàu


LỜI CẢM ƠN

Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc, chân thành tới PGS.TS. Bùi Thanh Truyền,
người đã nhiệt tình hướng dẫn, động viên và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tơi trong
suốt q trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã hết lịng giảng dạy khóa 25 chun ngành Văn học
Việt Nam cùng các thầy cô, các cán bộ Phòng Sau Đại học tạo mọi điều kiện để tôi
học tập, nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến nhà văn Sương Nguyệt Minh đã nhiệt thành
cung cấp tác phẩm và giúp tơi hồn thành bài phỏng vấn về ơng để có thêm cứ liệu xác
tín cho việc nghiên cứu đề tài.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, người thân đã hết lịng
động viên và tạo thuận lợi cho tơi hồn thành khóa học.

Tp.HCM, tháng 09 năm 2016
Học viên

Nguyễn Thị Ngọc Giàu


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN
CỨU ĐỐI TƯỢNG .................................................................................. 11
1.1. Từ chủ nghĩa nữ quyền và nữ quyền luận đến diễn ngôn nữ quyền .................. 11
1.1.1. Chủ nghĩa nữ quyền và các chặng đường lịch sử ..................................... 11
1.1.2. Nữ quyền luận và các thuyết nữ quyền ..................................................... 16
1.1.3. Diễn ngôn nữ quyền - đặc điểm chung và hướng tiếp cận ....................... 21
1.2. Chủ thể sáng tạo- lữ khách song hành cùng vô thức ........................................ 28
1.2.1. Khái niệm về chủ thể sáng tạo .................................................................. 28
1.2.2. Mối quan hệ giữa chủ thể sáng tạo với quyền lực và hệ hình tri thức ...... 29
1.2.3. Chủ thể sáng tạo với diễn ngôn nữ quyền ................................................. 32
1.3. Văn học nữ quyền Việt Nam đương đại và nhà văn Sương Nguyệt Minh ........ 34
1.3.1. Văn học nữ quyền Việt Nam đương đại ................................................... 34
1.3.2. Sương Nguyệt Minh - cây bút nam nhiều duyên nợ với văn học nữ
quyền........................................................................................................ 39
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 44
Chương 2. DIỄN NGÔN NỮ QUYỀN TRONG VĂN XI SƯƠNG
NGUYỆT MINH NHÌN TỪ CHỦ THỂ NAM ...................................... 45
2.1. Khẳng định vẻ đẹp thân thể - sức mạnh riêng, đầy bí ẩn của phụ nữ ................ 45

2.1.1. Vẻ đẹp phồn thực tràn đầy sức sống, gần gũi với tự nhiên....................... 45
2.1.2. Thân thể - yếu tính của sức mạnh, bản thể nữ .......................................... 53
2.1.3. Vẻ đẹp song hành cùng số phận ................................................................ 60
2.2. Xây dựng thế chủ động nữ giới .......................................................................... 67
2.2.1. Chủ động trong việc tự quyết cuộc sống ................................................. 67
2.2.2. Chủ động nhìn nhận thế giới đàn ông ....................................................... 73


2.2.3. Chủ động tìm về với bản thể đầy nữ tính .................................................. 80
2.3. Nhận thức lại những quan niệm định kiến nam quyền về nữ giới ..................... 90
2.3.1. Cái nhìn quy chụp đặc điểm thiên nhiên vào người phụ nữ ..................... 90
2.3.2. Quan niệm Cái đẹp là tai hại và sự phán xét nữ giới với các tiêu chí
nam quyền................................................................................................ 92
2.3.3. Về phạm trù trinh tiết của nữ giới và vấn đề “không chồng mà chửa” .... 96
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 99
Chương 3. DIỄN NGÔN NỮ QUYỀN TRONG VĂN XI SƯƠNG
NGUYỆT MINH NHÌN TỪ GĨC ĐỘ TRẦN THUẬT ..................... 100
3.1. Diễn ngôn nữ quyền với cốt truyện.................................................................. 100
3.1.1. Cốt truyện phân mảnh ............................................................................. 100
3.1.2. Cốt truyện giàu kịch tính......................................................................... 103
3.1.3. Cốt truyện nội quan ................................................................................. 106
3.2. Diễn ngôn nữ quyền với điểm nhìn trần thuật ................................................. 109
3.2.1. Điểm nhìn khơng gian và thời gian......................................................... 109
3.2.2. Sự hịa phối điểm nhìn bên trong và điểm nhìn tâm lí ............................ 113
3.3.3. Sự di động điểm nhìn của người kể chuyện cùng nhân vật .................... 118
3.3. Diễn ngôn nữ quyền với ngôn ngữ................................................................... 120
3.3.1. Ngơn ngữ đối thoại đậm thiên tính nữ .................................................... 120
3.3.2. Sự gia tăng ngôn ngữ vô thức ................................................................. 123
3.3.3. Sự xuất hiện của từ ngữ thông tục .......................................................... 126
3.4. Diễn ngôn nữ quyền với giọng điệu trần thuật ................................................ 128

3.4.1. Giọng trữ tình tha thiết ............................................................................ 129
3.4.2. Giọng ngợi ca, thán phục và thương cảm, xót xa ................................... 132
3.4.3. Giọng hoài nghi, chất vấn ....................................................................... 135
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................. 138
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 139
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 142
PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU
 

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nữ quyền khởi nguồn mạnh mẽ ở phương Tây và lan rộng ra các nước trên
thế giới, trong đó có Việt Nam. Lúc đầu, về bản chất, vấn đề này được quan tâm nhiều
ở khía cạnh chính trị và xã hội, sau đó thể hiện sâu sắc qua văn chương. Với nhiệm vụ
phản ánh thực tại cuộc sống, các tác phẩm văn chương đã “ghi” lại thành cơng trạng
thái cảm xúc, cái nhìn nhân sinh quan và diễn biến tâm lí tinh tế của phái nữ.
1.2. Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam được quan tâm khá sớm, “Đăng cổ tùng báo” vào
năm 1907, có mục Nhời đàn bà gây được sự chú tâm của độc giả. Đây là một diễn đàn
riêng để phụ nữ nói lên tiếng lịng của mình. Tất nhiên, trước đó, trong giai đoạn văn
học trung đại, các cây bút tên tuổi tài năng đã xuất hiện như Đoàn Thị Điểm, Bà
Huyện Thanh Quan và Hồ Xuân Hương. Nhưng đến giai đoạn sau này, nhất là sau
1986 thì vấn đề nữ quyền mới từng bước khẳng định vị thế và quyền lực chi phối của
mình. Việc lấy phụ nữ làm trung tâm là quyền của người cầm bút. Không phải cứ là
tác phẩm ra đời bởi nhà văn nữ mới phát ra diễn ngôn nữ quyền. Bên cạnh các cây bút
Lý Lan, Dạ Ngân, Đoàn Lê, Võ Thị Hảo, Hiền Phương, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Xuân Hà,… là các nhà văn nam viết về phụ nữ khá

thành công, đưa ra những cảm nghiệm về tâm hồn nữ giới đầy tinh tế và vi diệu. Đó là
Nguyễn Huy Thiệp với giọng văn đầy triết lí hay Nguyễn Quang Thiều với chất điệu
trầm tư… Sẽ là một thiếu sót nếu ta khơng nhắc đến cái tên Sương Nguyệt Minh - một
nhà văn viết về nhân tình, thế thái, điển hình là phụ nữ bằng tất cả sự thấu hiểu, trải
nghiệm qua năm tháng làm lính gian khổ và sóng gió đời người.
1.3. Ngồi ra, việc vận dụng lí thuyết diễn ngơn nữ quyền - một lí thuyết mới nở
rộ vào đầu thế kỷ XX để soi chiếu và khảo sát, phân tích tác phẩm Sương Nguyệt
Minh sẽ giúp độc giả có cái nhìn tồn diện, khách quan về thế giới nữ và sự chi phối
quyền lực của vấn đề này. Từ đó, đọc giả cũng nhận ra được sự khác biệt về diễn ngôn
nữ quyền xuất phát bởi chủ thể sáng tạo giữa chủ thể nữ và nam. Tuy thể hiện diễn
ngôn nữ quyền bàng bạc khắp trang văn mình nhưng Sương Nguyệt Minh đã thổi vào
đó một làn gió mới, lạ, mang phong cách riêng của bản thân ông.

 


2

2. Lịch sử vấn đề
2.1. Nghiên cứu về lí thuyết diễn ngôn nữ quyền
Đầu tiên là về khái niệm diễn ngôn, đây là một trong những vấn đề được giới
nghiên cứu quan tâm bàn luận từ đầu thế kỷ XX đến nay. Nó bắt nguồn từ phương Tây
với những cái tên nổi bật như Van Dijk, F.de Saussure, David Nunan, Gillian Brown George Yule, Barthes,… Thật ra, khái niệm diễn ngôn đã được đề cập từ giai đoạn
trước dưới một hình thức khác nếu như xem diễn ngơn là sản phẩm của lịch sử, của xã
hội, của những cơ chế quyền lực nhất định trong phạm vi nhất định. Và xét ra, khái
niệm diễn ngơn nữ quyền cũng từ đó dần hình thành.
Theo tiến trình nghiên cứu, chủ nghĩa hình thức Nga ra đời vào đầu thế kỷ XX
đã mở màn và tạo điều kiện cho diễn ngơn nói chung và diễn ngơn nữ quyền nói riêng
phát triển sau này. Với việc đoạn tuyệt phương pháp nghiên cứu văn học theo con
đường xã hội và lịch sử, chủ nghĩa này đã chọn con đường ngữ học để phân tích văn

bản. Đặc biệt, việc xem ngôn ngữ và các thủ pháp ngôn từ như là những yếu tố thể
hiện đặc trưng khu biệt của văn học đã giúp cho nhà ngữ học Thuỵ Sĩ Ferdinand de
Saussure đưa ra những lập luận rất xác đáng, giúp cho việc nghiên cứu văn bản trở nên
tin cậy và khách quan hơn. Đồng thời, tư tưởng của ơng trở thành hạt mầm cho các
cơng trình ngôn ngữ học của thế kỷ XX, không chỉ riêng diễn ngơn nữ quyền mà hầu
hết các loại hình diễn ngơn.
Tác phẩm Cours de linguistique génerale (Giáo trình Ngơn ngữ học Đại cương)
để đời của de Saussure - người đại diện cho việc nghiên cứu diễn ngôn theo ngôn ngữ
học, xuất bản vào 1916, dựa trên các bài giảng của ông tại Đại học Genève. Saussure
đã phát hiện sự hệ thống của ngôn ngữ và việc quy định lẫn nhau của chúng trong một
hệ thống. Chính những cặp đối lập lưỡng phân trong việc nghiên cứu ngôn ngữ mà ông
đưa ra đã tạo một bước ngoặt trong lĩnh vực nghiên cứu vấn đề này. Ông đã chỉ rõ
hướng tiếp cận mới khi nghiên cứu ngôn ngữ, hơn nữa, làm nền cho những nghiên cứu
khoa học khác. Riêng với khái niệm diễn ngôn nữ quyền, nhờ Saussure, các nhà
nghiên cứu, phê bình tác phẩm, khi tiến hành mổ xẻ phân tích để chỉ ra các đặc điểm
nhân vật nữ, họ biết phân tích cấu trúc diễn ngơn trong mối quan hệ với ngữ cảnh phát
ngôn, nhân vật phát ngôn,… Sau này, vấn đề trên còn được các nhà nghiên cứu như

 


3

Roland Barthes, Todorov,… phát triển. Tuy nhiên, việc "đóng khung" chỉ nghiên cứu
nội tại ngôn ngữ học, làm cho hướng nghiên cứu ngôn ngữ dường như áp đặt: "Chúng
tôi cho rằng việc nghiên cứu các hiện tượng ngoại vi của ngơn ngữ có thể đạt được
những thành quả tốt đẹp, nhưng khơng thể cho rằng khơng có nó thì khơng thể hiểu
được cơ chế nội tại của ngôn ngữ" [14, tr.50] . Việc loại bỏ hẳn những cái thuộc phạm
trù lời nói ra khỏi phạm vi nghiên cứu ngơn ngữ khiến sự nhìn nhận về diễn ngơn, nhất
là diễn ngơn nữ quyền thiếu đi sự toàn diện.

Tiếp theo, một tên tuổi nữa, ảnh hưởng đến việc nghiên cứu diễn ngôn nữ
quyền sau này là M. Bakhtin - người đại diện cho nghiên cứu diễn ngôn theo phong
cách học. “Tư tưởng về diễn ngơn của ơng có vai trị như một bản lề, hay một cầu nối
bắc từ quan niệm về diễn ngôn của ngôn ngữ học cấu trúc sang quan niệm diễn ngơn
của các trường phái lí luận hậu hiện đại” [63]. Ơng có đưa ra những ý kiến phản bác
quan điểm ngôn ngữ được triển khai trên cơ sở tư tưởng của Saussure. Tuy nhiên, tư
tưởng của ông vẫn có nét giống với những quan điểm lý thuyết quan trọng nhất của
các trào lưu văn hóa - văn học hậu hiện đại. Đặc biệt, tiểu luận Vấn đề các thể loại lời
nói viết vào quãng những năm 1952 - 1953 là một cơng trình nghiên cứu thể hiện quan
điểm của Bakhtin một cách tập trung nhất về diễn ngôn. Nó giúp người đọc sáng tỏ rất
nhiều những cơng trình nghiên cứu trước đó, cũng như ngọn nguồn sản sinh ra các mơ
hình lý thuyết độc đáo của ơng. Bakhtin nhấn mạnh đến đối thoại và xem đó là bản
chất của diễn ngơn. Ngồi ra, ơng cịn chú trọng hướng đến phân tích những phát ngơn
cụ thể. Thường thì các phát ngơn có sự liên kết với nhau trong một tổ chức mà ơng gọi
là lời nói. Theo ơng, lời nói là cái có trước chi phối tổ chức lời nói của ta, thấm vào tư
duy và bật ra vơ thức khi giao tiếp. Điều này có tác dụng phân tích diễn biến trạng thái
tâm lí và dịng suy nghĩ đầy phức tạp của giới nữ. Một luận điểm khác của Bakhtin cịn
đề cập đến tính chất lưu trữ dữ liệu đời sống và tính lịch sử trong thể loại lời nói. Qua
lời nói, người ta có thể thấy sự đa dạng, mn hình mn vẻ của lịch sử. Bởi thế, sẽ có
những phát ngơn chi phối, ảnh hưởng quyền lực, “những tư tưởng chủ đạo của các
bậc chúa tể trí tuệ ở một thời đại nào đó, những khẩu hiệu, những nhiệm vụ cơ bản
nào đó được thể hiện bằng ngơn từ” [63]. Vận dụng điều này, ta có thể lí giải hiện
tượng văn học nữ quyền ở phương Tây và các nước phương Đông giai đoạn nửa cuối

 


4

thế kỷ XX đến nay. Đồng thời, nó cũng phản ánh sự chi phối quyền lực các phát ngôn

nữ quyền và trái với nó là nam quyền để có sự đánh giá khách quan hơn nữa.
Hướng tiếp cận diễn ngôn theo xã hội học, đứng đầu là M. Foucault. Trong
những năm 60 thế kỷ XX, ông triển khai các luận điểm về điều chỉnh các hoạt động
tạo lập – luân chuyển của diễn ngôn. Từ những năm 70 trở đi, ông lại quan tâm đến
mối quan hệ giữa diễn ngôn – tri thức và quyền lực. Năm 1970, ông cho ra đời Trật tự
diễn ngôn (L'Ordre du discours). Các tác phẩm khác của ơng có ảnh hưởng sâu đậm
đến nghiên cứu văn học, cả trên phương diện những đề tài cụ thể (tính dục, cái tơi, vấn
đề nữ quyền...) và trên phương diện lí thuyết như vấn đề tác giả, vấn đề lịch sử văn
học, vai trị của phê bình văn học,... Tất cả những ảnh hưởng nhiều mặt, đa dạng này
của Foucault với nghiên cứu văn học, về cơ bản, đều có thể được cắt nghĩa từ việc
nhìn nhận văn học như một diễn ngôn. Foucault đã hướng tới sự đa dạng hóa nội hàm
của thuật ngữ “diễn ngơn” ngay trong định nghĩa của chính mình: “Thay vì giảm dần
các nét nghĩa đã khá mơ hồ của từ diễn ngôn, tôi tin rằng thực tế tôi đã bổ sung thêm
ý nghĩa của nó: lúc thì coi nó như một khu vực chung của tất cả các nhận định, lúc thì
coi nó như một nhóm các nhận định được cá thể hố, và đơi khi lại xem nó như một
hoạt động được quy chuẩn (regulated practice) nhằm tạo nên một tập hợp các nhận
định” [20, tr.90]. Ông đã đưa ra ba định nghĩa về diễn ngôn và chúng vô cùng giá trị.
Thứ nhất, đây là định nghĩa rộng nhất, là diễn ngơn bao gồm tất cả các nhận định nói
chung. Thứ hai, diễn ngôn được hiểu như là một hệ thống các nhận định được cá thể
hóa. Và định nghĩa này thường được Foucault sử dụng để nhận dạng các diễn ngơn cụ
thể, thường là một nhóm những nhận định tổ chức theo một cách thức nào đó và có
một hiệu lực chung. Chẳng hạn: diễn ngôn nữ quyền, diễn ngơn thuộc địa, diễn ngơn
nam tính, diễn ngơn nữ tính, diễn ngôn y học, diễn ngôn phân tâm học… Thứ ba, diễn
ngơn được coi là hoạt động được kiểm sốt nhằm tạo ra các tập hợp đánh giá, chính
định nghĩa này đã ảnh hưởng lớn đối với nhiều nhà lí luận. Tuy ba định nghĩa của
Foucault được liệt kê khá độc lập nhưng trong nghiên cứu, các định nghĩa này luôn
được sử dụng phối hợp với nhau tùy theo hướng triển khai và mục đích. Việc nghiên
cứu diễn ngơn nữ quyền, một cách tự nhiên gắn liền với định nghĩa thứ hai. Nhưng
trong q trình phân tích cũng cần chú ý khả năng tạo nghĩa và hiệu lực của nó đến thế


 


5

giới khách quan (theo định nghĩa thứ nhất). Đồng thời định nghĩa thứ ba cũng được
khai thác. Chính nhờ những quan niệm của Foucault mà diễn ngôn nữ quyền dần dần
củng cố “địa vị”. Nhất là khi chủ nghĩa nữ quyền từ sau hậu chiến thứ II từng bước
khẳng định quyền lực chi phối của mình.
Năm 1989, Guy Cook trong Discours (published by Oxford University Press)
cũng có đưa ra những nhận xét chung, tuy khơng nói thẳng đến diễn ngơn nữ quyền
nhưng cũng có ý bao gồm đến khái niệm này. Ông viết: “In addition, there are many
other disciplines- philosophy, psychology and psychiatr, sociology and anthropology,
Artificial Intelligence, media studies, literary studies- which often examine their object
of study- the mind, society, other cultures, computers, the media, works of literaturethrough languge, and are this carying out their own discourse anylysis, very often
some of the best” [12] (Ngồi ra, cịn có nhiều ngành khoa học khác như triết học, tâm
lí học, tâm thần học, xã hội học, nhân loại học, trí tuệ nhân tạo, nghiên cứu truyền
thông đại chúng, nghiên cứu văn học - là những ngành thường xem xét đối tượng
nghiên cứu của chúng như tâm trí, bối cảnh xã hội, các nền văn hố, các loại máy tính,
sự truyền thơng đại chúng, các sáng tác văn học, thông qua ngôn ngữ và do vậy các
ngành trên cũng thực hiện sự phân tích diễn ngơn của riêng chúng, mà thường một số
trong đó lại thuộc loại xuất sắc). Khi nghiên cứu về diễn ngôn nữ quyền, người nghiên
cứu cần xem xét đặt nó vào bối cảnh xã hội, văn hố,… thơng qua ngôn ngữ.
Đến 1993, Raman Selden cho ra đời A Reader's Guide to Contemporary
Literary Theory, có một chương trong sách viết về chủ nghĩa nữ quyền. Ở đó, ơng đưa
ra năm tiêu điểm chính “dính líu” trong hầu hết những thảo luận về sự khác biệt giới
tính gồm sinh học, kinh nghiệm, vô thức, những điều kiện kinh tế - xã hội và diễn
ngơn. Ơng cũng khẳng định vấn đề diễn ngôn nhận được nhiều sự chú ý bởi các nhà
nữ quyền. Theo ông họ cho rằng phụ nữ bị đàn áp một cách nền tảng bởi một ngôn
ngữ bị nam giới thống trị. Đồng thời, bài viết cũng nhắc đến lập luận của Foucault và

quan điểm ngược lại của nhà ngơn ngữ xã hội học Robin Lakoff.
Chính những quan niệm, tư tưởng về diễn ngôn đã được đề cập đến ở trên cũng
tác động đến phê bình văn học nữ quyền mà giai đoạn có nhiều bài nghiên cứu nhất là
từ năm 1990 trở về sau. Nổi bật là quyển Lý thuyết văn học nữ quyền của Mary

 


6

Eagleton đã khảo sát mối quan hệ giữa phụ nữ và diễn ngơn, giữa giới tính và thể loại,
đặt ra vấn đề gây tranh luận về sự khác biệt trong đọc nữ và viết nữ.
Năm 2004 Lý thuyết và phê bình nữ quyền: từ phê bình xã hội đến phân tích
diễn ngơn của Ellen Messer - Davidow đã đưa ra những quan niệm của mình và tiến
trình phê bình cùng lý thuyết văn học nữ quyền đã làm thành một bộ phận của hệ
thống tri thức được sản sinh trong lĩnh vực nghiên cứu nữ quyền.
Riêng ở Việt Nam, giai đoạn mở cửa giao lưu với nước ngoài về mọi mặt đã tạo
điều kiện thuận lợi cho lí thuyết này du nhập và phát triển. Lúc đầu, do tính mục đích
của từng cơng trình mà vấn đề diễn ngơn cịn tản mạn, hầu hết chỉ nói nhiều đến khái
niệm diễn ngơn như cơng trình Lí luận văn học của Phương Lựu chủ biên, Chủ nghĩa
cấu trúc trong văn học của Trịnh Bá Đĩnh, Ba cách tiếp cận khái niệm diễn ngôn của
Nguyễn Thị Ngọc Minh, hai bài viết Khái niệm diễn ngôn, Khái niệm diễn ngôn trong
nghiên cứu văn học hơm nay của Trần Đình Sử, Bước đầu nhận diện diễn ngôn, diễn
ngôn văn học, diễn ngôn thơ của Trần Thiện Khanh, Dẫn nhập lí thuyết diễn ngơn của
M.Foucault và nghiên cứu văn học của TS. Trần Văn Toàn,… Nhưng nhìn chung,
chưa có cơng trình nào chun sâu về diễn ngơn nữ quyền, nếu có nói đến thì chỉ là
thống qua.
2.2. Nghiên cứu về văn xi Sương Nguyệt Minh
Nhìn chung, vấn đề nghiên cứu văn chương Sương Nguyệt Minh khá “thưa
thớt”. Tuy các sáng tác của ông vào loại “khá” về số lượng tác phẩm và đạt giá trị cao

về nội dung lẫn nghệ thuật trong giai đoạn văn học đương đại Việt Nam. Năm 2010,
tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, học viên Trần Thị Phương Loan đã
bảo vệ thành công luận văn Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Sương Nguyệt Minh, đề
tài đã triển khai, phân tích, đánh giá về thế giới nhân vật và một số phương diện nghệ
thuật được thể hiện qua các truyện ngắn của nhà văn.
Cũng trong năm 2010, sự ra đời truyện ngắn Dị hương đã làm tên tuổi của
Sương Nguyệt Minh nâng lên tầm cao mới, nhất là sau khi ông nhận giải thưởng danh
giá của Hội Nhà văn. Bài viết của nhà báo Minh Minh trong tờ Dân trí với tiêu đề Nhà
văn Sương Nguyệt Minh: "Sex" với "Dị Hương" đã đưa ra những bình luận đánh giá
tích cực về nội dung và nghệ thuật thể hiện trong tác phẩm của ông. Hàng loạt các bài

 


7

viết khác về truyện ngắn này của ông như Sương Nguyệt Minh: mới với “Dị hương”
của Khuyết Gia trong báo Văn hoá - nghệ thuật số 242-2011 cũng đưa ra những bình
luận về cái hay của tác phẩm. Đến tháng 3 năm 2011, Nguyễn Trọng Bình qua bài viết
Góp thêm một cái nhìn về truyện ngắn “Dị hương” của Sương Nguyệt Minh cũng đưa
ra một cách tiếp cận mới về truyện ngắn này. Người viết đề cập đến sự cảnh tỉnh xã
hội thông qua bi kịch của những “con người trần tục” bị “thần thánh hóa” là Nguyễn
Ánh và hồng hậu Ngọc Bình trong tác phẩm. Đồng thời, Nguyễn Trọng Bình cịn
nhận xét về bút pháp “huyền ảo” nhưng khơng thật “chắc tay” của Sương Nguyệt
Minh. Tuy có hai luồng ý kiến đánh giá về truyện ngắn này, nhưng xét cho cùng,
truyện ngắn Dị hương của ơng đã có bước chuyển biến mới và hiếm có nhà văn đương
đại nào lại được các nhà báo, người nghiên cứu văn học lúc bấy giờ tập trung bình
luận như Sương Nguyệt Minh.
Năm 2012, tại Đại học Sư phạm Thái Nguyên, học viên Trần Thị Hồng Gấm
cũng có đề tài Sự vận động trong truyện ngắn Sương Nguyệt Minh. Luận văn đã cung

cấp cái nhìn khách quan về sự vận động trong đề tài, hệ thống nhân vật và bút pháp
nghệ thuật.
Đến năm 2014, Sương Nguyệt Minh cho ra đời tiểu thuyết Miền hoang. Tác
phẩm được viết bằng trải nghiệm thực tế của ông khi làm lính ở chiến trường K. Cuốn
sách cũng nhận được nhiều ý kiến đánh giá. Chẳng hạn bài viết vào ngày 07/12/2014
của Việt Quỳnh trong trang Thể thao và văn hoá với tiêu đề Nhà văn Sương Nguyệt
Minh: Tiểu thuyết từ ám ảnh của “người lính lạc rừng” đã giúp đọc giả có cái nhìn
khách quan hơn về tác phẩm. Ngày 23/07/2015, Lã Nguyên đã viết bài Tôi đọc miền
hoang của Sương Nguyệt Minh, đưa ra những lập luận xác đáng về giá trị tác phẩm
mang lại, đóng góp của tiểu thuyết ấy cho nền văn học Việt Nam đương đại. Gần đây
nhất, ngày 28/09/2015 trang giaitri.vnexpress đưa tin về tác phẩm Miền hoang của
Sương Nguyệt Minh đoạt giải sách hay 2015. Bài viết có cập nhật hình ảnh của tác giả,
tác phẩm cùng dịng bình luận ngắn về giá trị của nó.

 


8

2.3. Nghiên cứu về diễn ngôn nữ quyền trong văn xuôi Sương Nguyệt Minh
Trên Diễn đàn văn nghệ ngày 07/03/2012, bài viết Chiến tranh mang gương
mặt phụ nữ trong văn xi hậu chiến (Thái Phan Vàng Anh) có đề cập đến hình tượng
phụ nữ của văn xi hậu chiến, trong đó có nhắc đến tác giả Sương Nguyệt Minh.
Trịnh Minh Hiếu, với bài viết Phụ nữ làng quê hiện đại trong truyện Sương Nguyệt
Minh đăng ngày 25/09/2013, đã bình luận về sự am hiểu của nhà văn này về người phụ
nữ, nhất là việc song kết giữa tính hiện đại và truyền thống ở hình tượng phụ nữ trong
các sáng tác của ông.
Trong bài phỏng vấn Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Muốn tự do tuyệt đối, đừng
cầm tiền tài trợ! của Hồng Thanh Quang, anh có câu hỏi dành cho Sương Nguyệt
Minh: “Anh nghĩ thế nào về cái gọi là thân phận đàn bà trên bàn cờ của lịch sử? Họ

đáng thương hay đáng phục? Anh đã gửi gắm những thơng điệp gì qua nhân vật mỹ
nữ của anh trong "Dị hương"? Sương Nguyệt Minh đã trả lời: “Thân phận đàn bà trên
bàn cờ lịch sử vẫn chỉ là món hàng của những người đàn ông quyền lực đánh đổi lấy
sự bình yên của cá nhân, của bờ cõi, hoặc đổi lấy đất đai...; vì trong xã hội phong kiến
thì mọi ngọn cỏ, hạt cát cũng là của... vua. Thực ra, các mỹ nhân ấy đáng thương hơn
đáng phục. Các nhà văn cứ thường bồi đắp thêm các phẩm chất hi sinh của họ trong
hồn cảnh ấy để tơn vinh, để từ câu chuyện cá nhân nâng lên “tầm thời đại” thành ra
họ... đáng phục. Trong hoàn cảnh ấy, họ khơng có sự lựa chọn, ơng ạ. Cịn mỹ nữ
trong “Dị hương” là biểu tượng của cái đẹp. Nguyễn Ánh là biểu tượng của quyền
lực. Tơi muốn nói đến mối quan hệ cái đẹp và quyền lực. Quyền lực có thể nâng niu
cái đẹp nhưng cũng có thể nghiền nát cái đẹp theo cách riêng của nó. Tơi cũng muốn
nói đến cái đẹp và chiến tranh; cái đẹp mong manh, dễ vỡ, mà lại bị chiến tranh tàn
sát.”
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có bài viết hay cơng trình nào nghiên cứu một
cách hệ thống và rõ ràng về nữ quyền trong sáng tác của ông. Luận văn này là cơng
trình đầu tiên nghiên cứu một cách khách quan, tồn diện về diễn ngơn nữ quyền trong
văn xi của nhà văn này.

 


9

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Qua việc khảo sát các tác phẩm văn xuôi của Sương Nguyệt Minh, người viết tập
trung khai thác, phân tích diễn ngơn nữ quyền được thể hiện trên hai phương diện
chính là chủ thể sáng tác và trần thuật. Từ đó, người viết đánh giá về phong cách khác
biệt và đóng góp của tác giả trong nền văn học nữ quyền Việt Nam đương đại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Với đề tài Diễn ngôn nữ quyền trong văn xuôi Sương Nguyệt Minh, phạm vi
nghiên cứu của luận văn bao gồm 32 truyện ngắn của tác giả, tập tản văn Đàn ông
chọn khe ngực sâu (2013) và tiểu thuyết Miền hoang (2014). Nhưng người viết chỉ tập
trung phân tích các truyện ngắn và tiểu thuyết của ông.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp lịch sử
Phương pháp này đặt các tác phẩm của Sương Nguyệt Minh vào bối cảnh lịch sử
văn học nữ quyền ở Việt Nam, nhất là giai đoạn đương đại để có cái nhìn thấu đáo, tìm
ra những tác động của xã hội đến nội dung và tư tưởng nơi tác giả.
4.2. Phương pháp cấu trúc hệ thống
Khi phân tích diễn ngơn nữ quyền trong văn xi Sương Nguyệt Minh, người
viết đi theo cấu trúc hệ thống các chương, mục, nhất là việc phân tích vấn đề từ chủ
thể nam và phương diện trần thuật để thấy được cái nhìn tồn diện về đề tài luận văn
đặt ra.
4.3. Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Sử dụng phương pháp này, người viết với mong muốn mã hoá được phương diện
trần thuật, cấu trúc các tác phẩm của nhà văn Sương Nguyệt Minh, từ đó giúp vấn đề
sáng tỏ hơn và cách nhìn nhận nó cũng được cụ thể.
4.4. Phương pháp đối chiếu, so sánh
Trong q trình nghiên cứu, phân tích vấn đề, ở một số mục, người viết sẽ tiến
hành so sánh về một vài khía cạnh được thể hiện khác nhau giữa nhà văn Sương
Nguyệt Minh với một số nhà văn nữ khác như Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Lý Lan, Dạ
Ngân, Nguyễn Ngọc Tư,...

 


10

4.5. Ngồi ra, trong q trình nghiên cứu, người viết còn sử dụng một số thao tác

khác như tiến hành khảo sát, thống kê một số khía cạnh trong các tác phẩm của nhà
văn Sương Nguyệt Minh.
5. Đóng góp khoa học của luận văn
Về ý nghĩa khoa học, đề tài sẽ giúp vấn đề diễn ngôn nữ quyền được hiểu sâu
sắc và tồn diện hơn. Đồng thời, thơng qua đó, sự nghiệp sáng tác của nhà văn Sương
Nguyệt Minh cũng được bao quát và đánh giá khách quan. Từ đấy, đề tài góp phần
khẳng định vai trị của nhà văn này trong tiến trình văn học nữ quyền Việt Nam đương
đại.
Về ý nghĩa thực tiễn, ngoài việc hiểu một nhà văn có cuộc đời từng trải gắn bó
với đời lính và nhìn mọi sự khúc xạ qua lăng kính thấu hiểu, đa chiều, luận văn còn
giúp nhận diện bộ mặt của văn học nữ quyền Việt Nam đương đại. Bên cạnh đó, đề tài
cũng là tài liệu tin cậy khi nghiên cứu tác giả Sương Nguyệt Minh sau này hoặc những
vấn đề về diễn ngôn nữ quyền hay văn học nữ quyền Việt Nam.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, phần Nội
dung của luận văn được triển khai theo ba chương. Trong đó, chương 1 gồm 33 trang
đi vào tìm hiểu khái quát về từ chủ nghĩa nữ quyền và nữ quyền luận đến diễn ngôn nữ
quyền, chủ thể sáng tạo với diễn ngôn nữ quyền, văn học nữ quyền Việt Nam đương
đại và cuộc đời, quan niệm, nguyên cớ se kết nhà văn Sương Nguyệt Minh đến với đề
tài này.
Chương hai được triển khai thành ba mục lớn gồm 54 trang đi sâu tìm hiểu diễn
ngơn nữ quyền trong văn xi Sương Nguyệt Minh nhìn từ chủ thể nam qua việc
khẳng định vẻ đẹp thân thể - sức mạnh riêng, đầy bí ẩn của người phụ nữ, xây dựng
thế chủ động nữ giới và nhận thức lại những quan niệm định kiến nam quyền về nữ
giới. Từ đó, người viết cũng so sánh sự giống và khác về diễn ngôn nữ quyền trong
văn xuôi Sương Nguyệt Minh với các nhà văn nữ.
Cuối cùng là chương 3 gồm 38 trang đi sâu phân tích làm rõ diễn ngơn nữ quyền
trong văn xi Sương Nguyệt Minh nhìn từ góc độ trần thuật ở các khía cạnh: cốt
truyện, điểm nhìn trần thuật, ngôn từ và giọng điệu trần thuật.


 


11

Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN
CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỐI TƯỢNG
1.1. Từ chủ nghĩa nữ quyền và nữ quyền luận đến diễn ngôn nữ quyền
1.1.1. Chủ nghĩa nữ quyền và các chặng đường lịch sử
Sự ra đời của chủ nghĩa nữ quyền vào cuối thế kỉ XVIII là cột mốc quan trọng
kéo theo sự thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá về vai trị và quyền lợi của phụ nữ trong
các lĩnh vực, nhất là chuyên ngành xã hội học. Xung quanh khái niệm “chủ nghĩa nữ
quyền” (Feminism) cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Theo từ điển Oxford Dictionaries,
đó là: “Niềm tin và mục tiêu là phụ nữ nên có các quyền và cơ hội như nam giới; cuộc
đấu tranh để đạt được mục tiêu này” (Oxford University Press, 2016). Với Judith
Lorber: “Chủ nghĩa nữ quyền là một phong trào xã hội mà mục đích căn bản là sự
bình đẳng giữa đàn bà và đàn ơng” [44]. Cịn trong cuốn Lí thuyết văn học Hậu hiện
đại, nhà lí luận Phương Lựu đã khẳng định đấy là “sản phẩm của phong trào cách
mạng tư sản cận đại” với mục đích: “địi quyền nam nữ bình đẳng” [52, tr.185]. Dù
các quan điểm đưa ra không được đồng nhất với nhau nhưng vẫn có điểm chung giúp
ta có thể hiểu chủ nghĩa nữ quyền là tập hợp các phong trào và quan điểm, tư tưởng, ý
thức hệ nhằm mục tiêu xây dựng, bảo vệ các quyền lợi cho người phụ nữ. Trong đó,
những hoạt động tổ chức cũng như tuyên truyền, vận động mọi người tin vào sự bình
đẳng giữa đàn ông với phụ nữ và các giải pháp rất được chú ý và quan tâm.
“Chủ nghĩa nữ quyền không xuất phát từ một hệ thống lý thuyết trừu tượng mà
từ phong trào xã hội hình thành nên một chủ thuyết về giải phóng phụ nữ” [109, tr.8].
Thật ra, vấn đề nữ quyền đã bắt đầu manh nha từ thế kỷ XV trong cơng trình khoa học
của Christine de Pisan (1364-1430). Bà đã đưa ra những ý kiến của dân chúng về việc
phụ nữ khơng được bình đẳng với nam giới và bị xem là một dạng người khác biệt vì
khơng có vị trí trong xã hội. Từ thế kỷ XVI đến XVII, vấn đề này vẫn xuất hiện rời rạc

ở một số cơng trình khác nhưng chưa dấy lên làn sóng mạnh mẽ. Chủ nghĩa nữ quyền
thật sự được đánh dấu với sự kiện từ ngay sau Đại cách mạng tư sản Pháp bùng nổ,
tháng 10 năm 1789, một nhóm khá đơng, đa phần là phụ nữ Paris xông thẳng vào trụ

 


12

sở Quốc Dân đại hội, đòi quyền lợi cho giới mình và u cầu phải có sự bình đẳng
giữa nam và nữ. Chủ nghĩa trên ra đời bởi trong xã hội có những bước chuyển mình
quan trọng, chủ yếu từ hai nguyên nhân. Một là do phụ nữ bị bóc lột nặng nề về sức
lao động, cả thể xác lẫn tinh thần, họ nhận thức được có sự bất bình đẳng giới nên họ
cùng đứng lên đòi quyền lợi cho mình. Nhất là sau Thế chiến thứ I, Hoa Kì và một số
nước ở Châu Âu đã chấp nhận cho phụ nữ có quyền bỏ phiếu để đáp trả những nỗ lực
của họ trong chiến tranh. Chính vì điều này đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần phản
kháng và “nổi dậy” của nữ giới. Hai là, sự ra đời của một số nhà cấp tiến với các
thuyết lập luận chứng minh phụ nữ không phải chỉ là “cái tử cung” như nam giới mặc
định mà họ có những vai trò riêng trong các lĩnh vực xã hội, cần được tơn trọng và nên
có cái nhìn đúng đắn về họ. Bên cạnh đó, những nhà cấp tiến này cịn đưa ra các lí lẽ
địi sự cơng bằng cho nữ giới trong mối quan hệ với nam giới, đồng thời họ chứng
minh nếu để nữ giới phát huy khả năng mà họ có sẽ góp phần thúc đẩy xã hội phát
triển vì hơn một nửa dân số thế giới này là nữ.
Chủ nghĩa nữ quyền được khởi đầu ở Pháp với cái tên của nhà triết gia Charles
Fourier, ông là người chuyên nghiên cứu về chủ nghĩa xã hội không tưởng và cũng
được coi là người đã đặt ra từ "chủ nghĩa nữ quyền" vào năm 1837. Nhưng nó lại được
phát triển và đẩy mạnh ở Mĩ và các nước Tây Âu, từ đó lan rộng sang các nước khác
trên thế giới. Mục tiêu của chủ nghĩa nữ quyền có sự thay đổi theo từng giai đoạn, văn
hóa và quốc gia, có những điều ngày nay đối với chúng ta tưởng chừng rất bình
thường nhưng với phụ nữ trong xã hội trước đây, họ phải trải qua các cuộc “chạm

trán”, “đấu tranh” thì mới đạt được.
Dựa theo thời gian, lịch sử chủ nghĩa nữ quyền có thể chia làm ba giai đoạn,
cịn gọi là ba đợt sóng. Làn sóng thứ nhất (The first wave of feminism) bắt đầu từ cách
mạng Pháp 1789 đến 1960. Giai đoạn này diễn ra mạnh mẽ ở Anh và Mĩ, đánh dấu
bằng cuốn sách Một biện minh cho quyền phụ nữ (A vindication of the right of
women) của Mary Wollstonecraft (1792), bà là một nhà văn, nhà triết học và nhà bảo
vệ quyền phụ nữ người Anh thế kỷ XVIII. Quyển sách đưa ra những lập luận của bà về
phụ nữ cần được đối xử bình đẳng với đàn ơng và sự mường tượng của bà về trật tự xã
hội dựa trên ngun lí bình đẳng đó. Hơn nữa, bà cịn khẳng định, phụ nữ không phải

 


13

tự nhiên là thấp kém so với đàn ông mà chỉ do họ thiếu sự giáo dục vì phụ nữ thời bấy
giờ không được phép đi học một cách tự do. Lần lượt sau đó là các cuốn sách địi
quyền cho nữ giới xuất bản mở rộng ở cả Anh và Mĩ: Luật về tài sản của phụ nữ kết
hôn (Women’s Property Act), cuốn Sự khuất phục của phụ nữ (The Subjection of
Women) vào năm 1869 của cặp vợ chồng John Stuart Mill cùng Harrriet Taylor, Thế
giới do đàn ông tạo ra (The Man - Made World) ra đời năm 1911 bởi Charlotte
Perkins Gilman,… Năm 1949, việc xuất bản ở Pháp cuốn Giới tính thứ hai (Le
deuxième sexe/ The second sex) của Simone de Beauvoir đánh dấu bước ngoặt lớn
trong chủ nghĩa nữ quyền. Bà đã đưa ra những cơ sở về vấn đề “nữ tính” và nguyên
nhân của bất bình đẳng giới, từ đấy đề ra những giải pháp thiết thực. Beauvoir cịn chỉ
ra được điều thiếu sót trong các cơng trình nghiên cứu trước đó. Tuy nhiên, do dựa
trên lập trường hiện sinh chủ nghĩa nên hạn chế của bà đó là nhấn mạnh quá nhiều vào
yếu tố tâm lý chủ quan dẫn đến một số kết quả sai lệch.
Các phong trào, các tổ chức vì phụ nữ được thành lập. Điển hình là “Hội liên
hiệp xã hội và chính trị của phụ nữ” (Women’s Social anh Political Union - WSPU) ở

Anh, thành lập năm 1930 do bà Emmeline cùng con gái bà khởi xướng, dẫn dắt. Còn ở
Mỹ, nổi bật với tổ chức “Hội đồng phụ nữ quốc tế” (International Council of Women),
thành lập năm 1888, đây là một tổ chức nữ quyền lớn và lâu đời nhất thế giới. Ngồi
ra, đất nước này cịn có những tổ chức sau phát triển trở thành Đảng với các luận
thuyết sắc bén, hoạt động rõ ràng gồm Đảng Phụ nữ (Women Party) năm 1914 mà gốc
của nó là “Hội Liên hiệp Quốc hội” (Congressional Union) và Đảng Tự do của phụ nữ
(Women’s Peace Party) năm 1915. Song song với các quyển sách và hoạt động tổ
chức trên là các thuyết nữ quyền phát triển không ngừng, đặc biệt là Thuyết nữ quyền
xã hội chủ nghĩa (Socialist Feminism) và chủ nghĩa nữ quyền phúc lợi (Welfare
feminism).
Làn sóng này đã đạt được những thành quả vô cùng ý nghĩa mà ấn tượng nhất
đó là địi được quyền bầu cử cho phụ nữ. Bên cạnh đó, quyền bình đẳng về pháp lí cho
giới này cũng được nhìn nhận lại rõ ràng như: trả lương bình đẳng, nhất là lương hưu
cho phụ nữ góa chồng, những người mẹ đơn thân được nhận lương thực và có cơ hội
tham gia dịch vụ dân sự bình đẳng, phụ nữ có quyền được bảo vệ, quyền chăm con, sở

 


14

hữu tài sản và chủ động li hôn, các bộ luật về chống cưỡng hiếp trẻ em cũng được chú
trọng, bảo vệ các trẻ em gái khỏi chế độ buôn nô lệ da trắng bằng cách nâng cao tuổi
được cho phép làm nghề này,… Riêng vấn đề phụ nữ tránh thai để kiểm sốt mức sinh
lại có nhiều luồng ý kiến giữa các nhà nữ quyền. Một số thì đồng ý, số khác - nhất là
phụ nữ thuộc giai cấp cơng nhân thì chống lại điều này. Một số ít lại xem hôn nhân chỉ
là điều phù phiếm, chẳng đáng thèm muốn, họ không tin hôn nhân khác giới là bình
thường, là niềm vui. Nhưng dù có thế nào thì làn sóng thứ nhất này với kết quả phụ nữ
được quyền bầu cử đã làm cho phong trào nữ quyền khơng cịn mang tính chất của
phong trào quần chúng như trước mà nó mang tính chất của “phong trào cải cách nghị

trường” [104, 35].
Làn sóng nữ quyền thứ hai (The second wave of feminism) bắt đầu từ năm
1960 đến 1980 của thế kỉ XX. Dựa trên nền tảng các thành quả đã đạt được trước đó,
các nhà nữ quyền của Mĩ và Tây Âu (nhất là Anh) phát triển, mở rộng phạm vi nghiên
cứu, phân tích sâu sắc các khía cạnh bất bình đẳng giữa nam và nữ. Từ đó, phong trào
lan tỏa mạnh sang các nước ở Châu Á và Châu Phi. Mặc dù, phong trào đấu tranh và
những lí luận về nữ quyền cũng đã tồn tại trong lịch sử các quốc gia khu vực này
nhưng những nghiên cứu về giới được xem là một ngành khoa học mới và được tranh
luận sâu, ý nghĩa hơn trong giới khoa học xã hội chỉ bắt đầu từ những thập niên 60, 70
của thế kỉ XX. Ngoài ra, vấn đề giới không chỉ thu hút các nhà nghiên cứu thuộc hầu
hết các ngành khoa học xã hội như Xã hội học, Nhân chủng học xã hội, Dân tộc
học,… mà còn hấp dẫn các nhà nghiên cứu tự nhiên như Sinh vật học, Nhân chủng học
giải phẫu,… Giai đoạn này, vấn đề giới và sự phát triển của các thuyết nữ quyền có sự
khác nhau ở các nước nhưng nhìn chung đều có sự “đan xen chặt chẽ với lịch sử của
các phong trào dân tộc, các phong trào đòi sự bình đẳng và chính quyền tự do. Các
cuộc vận động nữ quyền được hoạt động theo thứ tự ưu tiên của dân tộc và chính trị
dân tộc” [109, tr.24]. Cuốn sách Bí ẩn nữ tính (Feminine mystique) của Betty Friedan
ra đời năm 1963 đã đánh dấu cột mốc quan trọng. Đây là một cơng trình nghiên cứu về
tầng lớp nữ trung lưu ở Mỹ vào vào thập niên 1950 - 1960. Sách của Friedan mang đến
cho các ngành nghiên cứu về giới lúc bấy giờ những giá trị về nội dung và phương
pháp, đặc biệt là các phương pháp khoa học rất phong phú như: trò chuyện, tra cứu thư

 


15

tịch, thu thập ý kiến những chuyên gia của các ngành nghề khác nhau trong xã hội,
phỏng vấn sâu,… Bà đặt ra những câu hỏi và trả lời xoáy sâu chúng khiến vấn đề đặt
ra rất thuyết phục. Bà kết luận rằng chính bản thân nữ giới hãy lập nên cho mình một

bản kế hoạch để thay đổi cuộc đời, hãy thay đổi bản thân trước đã rồi sau đó ý tưởng
thay đổi xã hội mới thực hiện được. Bà viết: “Các nhà nữ quyền nhìn nhận rõ ràng
rằng giáo dục và quyền tham gia vào công việc tiến bộ hơn của xã hội là nhu cầu to
lớn nhất của phụ nữ (…). Phụ nữ, cũng như nam giới, chỉ có thể tìm thấy bản sắc
trong cơng việc dùng tới khả năng đầy đủ của mình. Một phụ nữ khơng thể tìm thấy
bản sắc của mình thơng qua người khác – chồng, con cơ ta. Cơ ta khơng thể tìm thấy
nó trong cơng việc nhà lặp đi lặp lại nhàm chán” [26, tr.466]. Làn sóng này cịn gắn
liền với phong trào New Left vì có sự nổi loạn của những phụ nữ tham gia phong trào
chống lại các đấng mày râu. Phong trào giải phóng phụ nữ giai đoạn này nhằm đấu
tranh cho phụ nữ có lý thuyết và hoạt động chính trị được chia làm hai dịng chính.
Một là phong trào nữ quyền xã hội chủ nghĩa (mácxít), hai là phong trào nữ quyền triệt
để và cách mạng. Các nhà lí luận nữ quyền đã đưa ra hai khung lí luận khác nhau về lí
luận nữ quyền và phát triển gồm “Phụ nữ trong phát triển” (Women in development WID) và “Phụ nữ và phát triển” (Women and Development - WAD).
Về làn sóng thứ ba (The third wave of feminism), nó bắt đầu từ năm 1980 cho
đến nay. Đây là giai đoạn mới trong lịch sử nữ quyền và thể hiện tính tồn cầu hóa của
lí luận nữ quyền với những lí thuyết của các nhà nữ quyền thuộc giai cấp khác nhau,
chủng tộc khác nhau và xuất phát từ nhiều nền văn hóa, chế độ khác nhau. Khơng chỉ
đào sâu vấn đề giới dựa trên nền tảng của làn sóng nữ quyền thứ hai, làn sóng trên cịn
tập trung làm rõ sự khác biệt giữa phụ nữ với phụ nữ vì theo quan điểm của các nhà lí
luận nữ quyền, “không phải mọi sự khổ đau đều như nhau”. Ngồi ra, họ cịn xốy
mạnh vào các vấn đề như các chỉ báo về sự lệ thuộc của phụ nữ vào nam giới; sự đa
dạng hoàn cảnh phụ nữ do các yếu tố chủng tộc, dân tộc, văn hóa,…; nêu ra các tình
trạng áp bức, bất bình đẳng trên cơ sở giới, chủng tộc, lứa tuổi, giai cấp,… Nghiên cứu
của các nhà lí luận này xuất phát từ thực tiễn kinh nghiệm cuộc sống của họ. Các lí
thuyết thuộc làn sóng thứ ba rất đa dạng, nhưng phát triển mạnh nhất là lí luận nữ
quyền phụ nữ da đen, lí luận nữ quyền các nước đang phát triển và lí luận nữ quyền

 



16

phụ nữ đồng tính luyến ái. Sau những năm 1980, cả các nhà lí luận nữ quyền cùng lí
luận phát triển hoài nghi với hai khung quan điểm WID và WAD vì theo họ chúng
khơng quan tâm đến những ngun do đã sinh ra và duy trì sự bất bình đẳng giới. Bởi
thế, họ tập trung chuyển sang quan điểm “Giới và phát triển” (Gender and
Development - GAD).
Như vậy, có thể nói, chủ nghĩa nữ quyền với một chặng đường đầy biến động
đã từng bước chứng tỏ vai trò lịch sử của mình. Sự ra đời và phát triển của nó là một
hệ quả tất yếu trong xã hội và chính hồn cảnh thực tiễn xã hội lại tác động ngược các
lí thuyết nữ quyền cũng như hoạt động, phong trào về giới khiến cho chúng từng bước
hoàn thiện hơn. Và dù thế nào, ta cũng không thể phủ nhận những giá trị về bình đẳng
giới mà nó đấu tranh không ngừng để đạt được.
1.1.2. Nữ quyền luận và các thuyết nữ quyền
Đề cập đến chủ nghĩa nữ quyền thì khơng thể nào bỏ qua một khái niệm nữa, đó
là “nữ quyền luận” (Feminist Reasoning). Hai khái niệm này có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Nhờ những lí thuyết nền tảng của nữ quyền luận mà các phong trào, hoạt
động của chủ nghĩa nữ quyền được củng cố. Chính từ thực tiễn xã hội của từng làn
sóng nữ quyền mà nữ quyền luận cải biến nội dung của mình để phù hợp hơn. “Nữ
quyền luận” được hiểu là hệ thống những quan điểm, các tư tưởng khoa học về các
nguyên nhân, tình trạng bất bình đẳng của nữ giới, từ đó đề ra các giải pháp, hướng
khắc phục nhằm đạt được mục tiêu bình đẳng giới, cơng bằng giới trong các lĩnh vực
đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị,…
Có thể nhận định rằng, trong lịch sử lí luận khoa học xã hội, khơng có một lí
thuyết nào lại mang sự phát triển nhanh chóng và nổi bật trên từng bước hồn thiện
chính nó như lí thuyết nữ quyền. Trước hết, về khái niệm, lí thuyết nữ quyền, theo
trang study.com trong bài What is Feminist Theory? - Definition & Overview, đây là
“một trong các lý thuyết xã hội học hiện đại, trong đó phân tích tình trạng của phụ nữ
và nam giới trong xã hội với mục đích sử dụng kiến thức đó để cuộc sống phụ nữ tốt
hơn. Lý thuyết nữ quyền cũng đặt câu hỏi về sự khác biệt giữa phụ nữ, bao gồm các

chủng tộc, giai cấp, dân tộc, tình dục, quốc tịch, tuổi giao nhau với giới tính. Lý thuyết
nữ quyền quan tâm nhất tới việc cho phụ nữ có một tiếng nói và làm nổi bật những

 


17

cách khác nhau mà phụ nữ đã đóng góp cho xã hội”. Trang xahoihoc.org lại định
nghĩa nó một cách rõ hơn: lí thuyết nữ quyền “là phần mở rộng của chủ nghĩa nữ
quyền vào giảng lý thuyết hay triết học. Nó nhằm mục đích để hiểu bản chất của sự
bất bình đẳng giới. Nó xem xét vai trị của phụ nữ qua xã hội, kinh nghiệm, sở thích,
cơng việc, và chính trị nữ quyền trong nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như nhân học và xã
hội học, truyền thông, phân tâm học, kinh tế gia đình, văn học, giáo dục, và triết học”.
Trên thế giới, do có sự khác nhau về văn hóa, chủng tộc, tơn giáo,… nên có rất nhiều
trường phái lí thuyết nữ quyền khác nhau như lí thuyết nữ quyền mác xít (Maxist
Feminism), lí thuyết nữ quyền Tự do (Liberal Feminism), lí thuyết nữ quyền xã hội
chủ nghĩa (Socialist Feminism), lí thuyết nữ quyền phân tâm học (Psychoanalytic
Feminism), lí thuyết nữ quyền hậu hiện đại (Post - modern Feminism), lí thuyết nữ
quyền da đen (Black Feminism),… Người viết xin làm rõ 8 loại thuyết nữ quyền có
tầm ảnh hưởng mạnh trên toàn thế giới.
Một là thuyết nữ quyền tự do (Liberal feminism) hình thành từ làn sóng nữ
quyền thứ nhất, được thể hiện trong cuốn Sự bênh vực quyền của phụ nữ viết bởi Mary
Wollstonecraft và Sự bị trị của phụ nữ của John Stuart Mill. Các nhà nữ quyền tự do
cho rằng, sự áp bức của phụ nữ bắt nguồn từ các ràng buộc về tập quán, phong tục và
pháp lí. Phụ nữ ln bị xem là dạng người kém năng lực, trí tuệ, thể chất hơn nam giới
nên họ bị gạt qua bên lề xã hội. Quan điểm này ảnh hưởng của chủ nghĩa Khai sáng,
theo họ, nữ và nam giới cần có quyền lợi cơng bằng như nhau. Hơn nữa, họ cổ vũ cho
sự tự giải phóng bản thân của nữ với tư cách cá nhân qua việc bác bỏ vai trị giới tính
truyền thống bản thân. Về ưu điểm, thuyết này đã phần nào góp cơng trong việc hình

thành tư tưởng quyền bình đẳng giới nữ và giúp chất lượng cuộc sống phái nữ cải
thiện, nâng cao. Nhưng bên cạnh đó, nó vẫn có những hạn chế khiến quan hệ giới
không được biến đổi triệt để, bởi thuyết này quá chú trọng tự do cá nhân, coi nhẹ vấn
đề giới và chưa có sự hợp nhất giới nữ vì thực chất đây chỉ là phong trào địi bình đẳng
của phụ nữ da trắng tư sản.
Hai là thuyết nữ quyền mácxít (Maxist Feminism), thuyết này nghĩa là hiểu và
vận dụng quan điểm mácxít trong tác phẩm của các tác giả nữ quyền ở phương Tây.
Họ chủ yếu dựa theo tư tưởng Ăng-ghen. Các nhà nữ quyền thuộc thuyết này chỉ ra rõ

 


18

nguyên nhân của sự áp bức phụ nữ là do chế độ tư hữu mà điển hình là chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa đế quốc. Bởi thế, muốn giải phóng khỏi áp bức, phụ nữ phải tham gia
cuộc cách mạng giai cấp lật đổ hai chế độ trên mà tiến tới chủ nghĩa xã hội, vì lúc này
tư liệu sản xuất sẽ thuộc về mọi người, phụ nữ cũng sẽ được bình đẳng với nam. Ngồi
ra, họ cịn khẳng định phụ nữ cần tham gia nền sản xuất, thoát khỏi cơ cấu gia đình vì
gia đình là hạt nhân nuôi dưỡng hệ thống tư bản chủ nghĩa. Thuyết nữ quyền mácxít đã
giúp tất cả phụ nữ dù là tư sản hay vô sản hiểu rõ ràng sự áp bức phụ nữ là do cơ cấu
chính trị, kinh tế, xã hội của chủ nghĩa tư bản và một khi xã hội cịn tồn tại giai cấp thì
khơng thể nào có sự bình đẳng giới. Nhưng, vẫn có nhiều ý kiến khơng đồng ý với
nhận định của họ, điển hình là hai nguồn phê phán của Jean Bethke Elshtain và Alison
Jaggar. Với Jean Bethke Elshtain, bà không chấp nhận việc xem gia đình như một nơi
áp bức vì theo bà đây chính là nơi phụ nữ tìm thấy được bình n. Còn Alison Jaggar
lại phê phán thuyết này chỉ thiêng về vấn đề giai cấp, chế độ khơng phân tích rõ sự bất
bình đẳng giới từ phía người nam. Hay nói cách khác, nữ quyền mácxít chú tâm quá
trong việc xem xét chủ nghĩa tư bản hơn chế độ nam trị. Đặc biệt, lí thuyết mácxít cịn
ít nhắc đến vấn đề tái sinh sản và tính dục của phụ nữ.

Ba là thuyết nữ quyền phân tâm học (Psychoanalytic Feminism) bắt nguồn từ lí
thuyết Freud và những khái niệm “giai đoạn tiền Êđip”, “mặc cảm Êđip”. Theo các
nhà nữ quyền phân tâm học, nguồn cội của sự áp bức phụ nữ nằm sâu trong tâm lí của
chính phụ nữ vì sợ quyền lực bản thân mình mà “mặc cảm Êđip” mang lại. Bản thân
những cơ bé tách mình ra khỏi mẹ - đối tượng tình yêu đầu đời rất chậm nên sự hịa
nhập của cơ vào nền văn hóa là khơng trọn vẹn. Các cô bé chịu ảnh hưởng lớn của mẹ
và chịu chi phối bởi quyền lực thống trị nam. Lí thuyết trên cũng cho rằng “mặc cảm
Êđip” là một cái bẫy do nam giới sáng tạo ra, vì vậy phụ nữ cần tránh xa. Cho nên họ
cũng không chấp nhận những biến thể của “mặc cảm Êđip”, nhất là sự quy định các
đặc điểm được coi là “nam tính” (sự tự lập, quyền uy, tính phổ biến) hay “nữ tính” (sự
lệ thuộc, tình u, tính cục bộ). Vì vậy, điểm mạnh của lí thuyết này là cung cấp thêm
con đường giải phóng phụ nữ và chỉ rõ ra phương hướng không chỉ đấu tranh giành
quyền mà cần loại bỏ những “dấu ấn” nam giới đã mặc định trong suy nghĩ của nữ.
Mặc dù vậy, do chỉ đứng trên khía cạnh tâm lí để giải quyết vấn đề giới nên thuyết vẫn

 


19

chưa được tồn diện, tính khả quan khơng cao.
Bốn là thuyết nữ quyền triệt để (Radical Feminism) ra đời trong làn sóng nữ
quyền thứ hai, thuyết này xoay quanh các đề tài chính gồm: tái sản xuất
(reproduction), giới (gender) và tính dục (sexuality). Thuyết khẳng định chính hệ
thống nam trị đã bóc lột, áp bức nữ giới. Muốn được giải phóng, phụ nữ phải diệt tận
gốc chế độ nam trị và các thiết chế xã hội cùng văn hóa liên quan đến nó vì theo các
nhà nữ quyền triệt để, nam giới thống trị phụ nữ cả về thể xác lẫn tính dục. Ngồi ra,
theo họ, sinh học phụ nữ, nhất là khả năng tái sinh sản và tâm lí cưu mang chăm sóc
rất riêng biệt của giới là nguồn động lực cho sức mạnh giải phóng phụ nữ. Nghĩa là, để
giải phóng bản thân, phụ nữ phải tự quyết lúc nào cần các biện pháp kiểm soát sự sinh

sản của mình (tránh thai, triệt sản, nạo thai) và phương pháp hỗ trợ sinh con (thụ tinh,
đẻ mướn), ngay cả quyết định nuôi hay không nuôi con cái. Giữa những quan điểm
trong thuyết này ln có sự bất đồng và đấu tranh lẫn nhau. Nhưng dù thế nào, thuyết
nữ quyền triệt để cũng có những đóng góp cụ thể. Nó chỉ ra được nguyên nhân gốc rễ
của sự áp bức phụ nữ là do chế độ nam trị và tính dục, bác bỏ quan niệm yếu tố sinh
học khiến nữ giới lệ thuộc vào nam giới. Đồng thời, thuyết đã chú tâm đến các cách
thức mà nam giới kiểm soát phụ nữ (triệt sản, luật nạo thai,…) và dùng tính dục như
một thứ thỏa mãn nhu cầu của mình, từ đó đề ra giải pháp cho sự bình đẳng giới. Tuy
được đánh giá cao, nhưng thuyết nữ quyền triệt để vẫn có điểm hạn chế. Do tuyên bố
phụ nữ mang tính siêu việt hơn nam giới về cả mặt sinh học lẫn phẩm chất, khẳng định
và chủ trương đẩy mạnh quan hệ đồng tính, kêu gọi nữ giới cắt mọi quan hệ với giới
nam khiến thuyết có phần cực đoan, thái quá.
Năm là thuyết nữ quyền hiện sinh (Existentialist Feminism) với tên tuổi ghi dấu
ấn cho thuyết là Simone de Beauvoir. Theo bà, phụ nữ bị áp bức vì chị ta “là người
khác” (otherness) không phải là nam giới. Nam giới là người tự do, có cái tơi (Self) và
quyết định mọi việc, ngay cả ý niệm về phụ nữ. Và phụ nữ muốn trở thành cái Tơi cần
biến mình thành những gì chị muốn, rời bỏ các định nghĩa, “nhãn hiệu” mà nam giới
đặt ra. Đóng góp của thuyết nữ quyền hiện sinh là cung cấp một hướng mới để giải
phóng phụ nữ, đưa ra những lựa chọn và cách hiểu phụ nữ cho các nhà xã hội học, nên
coi giới này là biểu hiện của một cách sinh tồn mang nữ tính. Về hạn chế, thuyết

 


×