Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:......................................................................................1
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ............................................................................................2
III. GIỚI THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI .........................................................................9
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................................10
V. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN.........................................................................11
VI. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN...........................................................................12
PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................................13
Chương 1: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT
"CỬA BIỂN" CỦA NGUYÊN HỒNG ...................................................................13
1.1. Nhân vật được xây dựng từ những tính cách và hình tượng khác thường : .14
1.2. Sự đồng hiện giữa hiện tại và quá khứ trong suy nghĩ, hồi ức của nhân vật:32
1.3. Nhân vật được xây dựng từ những tình huống bất hạnh chồng chất:............47
1.4. Nhân vật mang niềm tin mãnh liệt ở cuộc sống ............................................54
1.5. Nhân vật được xây dựng bằng những nét riêng biệt độc đáo : ......................63
Chương 2: NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG TRONG
TIỂU THUYẾT "CỬA BIỂN” ................................................................................76
2.1. Cách trần thuật giàu tình cảm chủ quan.........................................................77
2.2. Lối văn miêu tả trực tiếp :..............................................................................83
2.3. Độc thoại nội tâm được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật quan trọng: .89
2.4. Lời trữ tình ngoại đề đan xen trong mạch trần thuật : .................................114
2.5. Sự kết hợp độc đáo các kiểu loại câu trong tiếu thuyết cửa biển ................123
2.6. Giọng điệu trần thuật in đậm dấu ấn cá tính của nhà văn............................151
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................157
THƯ MỤC .............................................................................................................163
LỜI CẢM TẠ
Tôi xin chân thành cảm tạ và tri ân sự nhiệt tình giúp đỡ của Ban Giám Hiệu
Trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh, Phịng Khoa học công nghệ và
sau đại học, tập thể thầy cô khoa Ngữ Văn, cùng tất cả các bạn đồng học, nhiệt tình
giúp đỡ tơi hồn tất luận án.
Tơi xin đặc biệt tỏ lịng kính trọng và biết ơn PGS - TS Phùng Quý Nhâm đã tận tụy
hướng dẫn, giúp đỡ cho tơi trong q trình nghiên cứu - học tập và hoàn thành luận
án
Tháng 5 năm 2003
NGUYỄN THỊ KIM THU
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Văn Nguyên Hồng bao giờ cũng lấp lánh sự sống. Những dòng chữ đầy chi tiết
cứ cựa quậy, phập phồng. Mọi thứ văn bám riết lấy cuộc đời. quấn quýt lấy con
người (19,221). Ở Nguyên Hồng văn với người là một Văn Nguyên Hồng lúc nào
cũng sơi nổi và giàu chất trữ tình như bản thân con người ơng. Vì thế ngơn ngữ trong
tác phẩm của Nguyên Hồng cũng mãnh liệt, gợi cảm. Những câu chữ sơi sục chồng
chất những hình ảnh đầy sức sống mãnh liệt, giàu chất thơ tác động mạnh mẽ tới
tình cảm người đọc.
Ngun Hồng tuy ngun qn khơng phải ở Hải Phòng nhưng vẫn được coi
là nhà văn của thành phố cửa biển này. Khơng phải vì ơng từng làm chủ tịch hội văn
học nghệ thuật Hải Phòng trong nhiều năm mà vì Hải Phịng thực sự là quê htrong
văn học của ông. Từ tác phẩm đầu tay "Bỉ vỏ" cho đến bộ tiểu thuyết "Cửa biển" đồ
sộ sau này. Hải Phòng vẫn là nguyên mẫu cái thế giới sục sơi, náo nhiệt, lộng nắng,
lộng gió trong tác phẩm của ơng.
Ngun Hồng mất năm 1982, tính đến nay tròn 20 năm. Trong dịp 02/9/1996,
Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I cho các tác phẩm văn học nghệ
thuật. Những tác phẩm của ông gồm "Bỉ vỏ" (1938), "Những ngày thơ ấu" (1940),
Bộ tiểu thuyết "Cửa biển" gồm 4 tập, "Sóng gầm” (1961), "Cơn bão đã đến"
(1967), “Thời kỳ đen tối" (1973), "Khi đứa ra đời" (1976), "Thù nhà nợ nước"
(1981), "Núi rừng Yên Thế" (2 lập : 1982 - 1985) của ông đã đoạt giải
Trên đại thể vấn đề văn nghiệp của Nguyên Hồng đã được nhìn nhận ttrong đối
thỏa đáng. Nhưng thiết nghĩ vẫn cần nghiên cứu kỹ những nét chuyển biến trong
phong cách viết của nhà văn này. Đặc biệt là nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ
thuật trần thuật trong tiểu thuyết của ơng.
Xuất phát từ u cầu đó chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài "Thi pháp trong
tiểu thuyết "Cửa Biển" của Nguyên Hồng", Nhằm nêu lên những nét đặc sắc trong
phong cách nghệ thuật của nhà văn này để có cái nhìn sắc sảo, tinh tế hơn trong việc
tiếp thu di sản của ông cũng như của các thế hệ đi trước
Tác phẩm của Nguyên Hồng có một vị trí quan trọng trong chương trình văn
học ở các cấp phổ thông cơ sở, phổ thông trung học và Đại học. Qua việc tìm hiểu
và nghiên cứu đề tài này chúng tơi có điều kiện học hỏi và rèn luyện thêm kỹ năng
nghiên cứu và bồi dưỡng tri thức để phục vụ và giảng dạy tốt hơn các tác phẩm của
ông trong nhà trường phổ thông.
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ :
Nhìn lại văn nghiệp của Nguyên Hồng với 64 tuổi đời và gần 50 năm lao động nghệ
thuật miệt mài, bền bỉ, ông đã để lại cho nền văn xuôi Việt Nam một gia sản hàng
ngàn trang sách quý. Trong đó có nhiều tác phẩm sống mãi trong lòng người đọc và
tồn tại bền vững với thời gian.
Nguyên Hồng là một trong số rất ít nhà văn ngay từ khi mới cầm bút đã xác
định đúng con đường để theo đuổi suốt đời : Nhà văn của những người cùng khổ.
Những trang viết của ông bao giờ cũng thấm đẫm những giọt mồ hôi và nước mắt
của những người lao động nghèo khổ và của cả chính bản thân ơng. Từ trước đến
nay đã có rất nhiều bài nghiên cứu phê bình viết về Nguyên Hồng và tác phẩm của
ơng. Những người viết đã nhìn nhận và đánh giá con người và sự nghiệp của Nguyên
Hồng từ nhiều góc độ : Cuộc đời, tác phẩm, thế giới quan, phương pháp sáng tác,
thể loại, phong cách, những kỷ niệm riêng của người viết với nhà văn ... Có thể nói
ở bất cứ góc độ nào các bài viết đều đề cập đến tư tưởng nhân đạo của Nguyên Hồng.
Chính tư tưởng nhân đạo này đã chi phối phong cách nghệ thuật của nhà văn từ nghệ
thuật xây dựng nhân vật cho đến nghệ thuật trần thuật.
Từ trước Cách mạng tháng Tám nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã nhận
xét : "Ông tả những cảnh nghèo, cảnh khổ của mấy hạg người sống ngồi rìa xã hội
một cách bình tĩnh. khơng chen vào lấy một lời bình phẩm, để mặc những việc ông
tả tự gây lấy cho người đọc những cảnh tượng vui buồn. vì riêng những việc ấy cũng
đã hùng hồn rồi (17,63) và "Những truyện ngắn của Nguyên Hồng phần nhiều pha
một giọng phóng sự chua cay. kín đáo. phần nhiều dùng việc thay lời, nên nghệ thuật
của ông thật là sâu sắc”(17,69).
Vũ Ngọc Phan cũng đã khẳng định lòng yêu nhân loại và sự "thiết tha đến
những người bị xã hội ruồng bỏ" của Nguyên Hồng.
Nhà văn Thạch Lam bằng cảm nhận tinh tế đã tìm thấy trong hồi ký "Những
ngày thơ ấu" "sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại, lạc lồi trong lề lối
khắc nghiệt của một gia đình sắp tàn "(17,75). Qua những trang viết của Nguyên
Hồng ông thấy tình yêu tha thiết của con người.
Từ sau năm 1954 và nhất là từ ngày Nguyên Hồng qua đời cho đến nay
(02/5/1982) người ta thấy xuất hiện một loạt bài viết của các nhà phê bình. nghiên
cứu văn học, nhà văn, nhà thơ về Nguyên Hồng như Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Cự
Đệ, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Đức Đàn, Chu Nga. Nguyễn Tuân, Kim Lân,
Như Phong, Lê Lựu, Nguyễn Minh Châu, Huy Cận, Vũ Tú Nam, Linh Thi ...
Những bài nghiên cứu có giá trị và gây tiếng vang là bài của các nhà nghiên
cứu Phan Cự Đệ, Nguyễn Đức Đàn, Nguyễn Đăng Mạnh, Chu Nga và các nhà văn
như Nguyễn Minh Châu. Như Phong ...
Nguyễn Đức Đàn trong "Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam" đã
nhận xét "Ngun Hồng có cái nhìn đồng cảm của các nhân vật bị tha hóa. Sáng tác
của Nguyên Hồng thể hiện lý tưởng cách mạng và tinh thần lạc quan cách mạng,
nhà văn gần gũi với cách mạng và đó chính là đóng góp lớn nhất của ơng cho dịng
văn học hiện thực phê phán" (9,64).
Nguyễn Hoành Khung trong 'Từ điển văn học" tập II đã khẳng định vị trí đầy
vinh dự của Nguyên Hồng trong nền văn học nước nhà. Ông đặc biệt lưu ý đến phong
cách và bút pháp "chân thực giản dị và thấm đượm trữ tình" của Nguyên Hồng.
Nguyễn Minh Châu trong bài viết “Vô cùng thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng"
đã có những nhận xét đánh giá sâu sắc rõ ràng hơn khi ông so sánh quan điểm nghệ
thuật của Nguyên Hồng với quan điểm của Tự lực văn đoàn và một số nhà văn thuộc
tầng lớp trí thức tiểu tư sản cùng thời. Theo Nguyễn Minh Châu thì Ngun Hồng
"khơng nghiêng xuống những người nghèo khổ mà thương hại hoặc tô vẽ cho cuộc
sống lao động cực nhọc một vẻ dịu dàng nên thơ, mà ông đã mô tả cho đến mức đã
đời, cho đến mức thỏa thê những nỗi cực khổ vô cùng, vô tận của những tầng lớp
người "dưới đáy" đặc biệt là kiếp người bị xã hội thực dân phong kiến giày đạp tàn
nhẫn và đẩy đến bước đường cùng" (19,192) và ông cũng đã nhận xét sinh động về
phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng "Nguyên Hồng viết văn như một ông lão
thợ đấu cứ lễ mễ vác từng mảng thực tế sự đời mà huỳnh huỵnh đắp lên mặt giấy
(19,193) và '''trong toàn bộ tác phẩm của đời văn Nguyên Hồng chúng ta bỗng thấy
"ngổn ngang gò đống kéo lên" biết bao nhiêu là hạng người, là mẫu người của xã
hội cũ". (19,194)
Nhà văn Nguyên Ngọc trong bài điếu văn "Nguyên Hồng sống mãi" đọc trong lễ an
táng nhà văn đã khẳng định vị trí không thể thay thế của ông trong nền văn học nước
nhà. Nguyên Ngọc cung đề cập đến văn phong của Nguyên Hồng : "Văn của Nguyên
Hồng là lối vân tuôn trào cuốn lòng người, giục con người đi tới, kéo người ta đi
tới" (19,128).
Ngoài ra, luận văn cũng chú ý đến bài viết của tác giả Linh Thi với những tản
mạn về câu văn Nguyên Hồng trong bài "Giọt lệ lớn và đoàn tàu chợ" Tác giả đã có
những nhận xét hết sức tinh tế, chính xác và hết sức sinh động về cú pháp của Nguyên
Hồng : "Văn Nguyên Hồng xác định một chỗ đứng khó tranh chấp, di dịch trong ký
ức người đọc nhờ một đặc sắc khác. Đó là những tiếng kêu nhỏ máu của con chim
Đỗ quyên" (17,92) và "Đúng là câu văn Nguyên Hồng lúc nào cũng như con cá đang
thở gấp lúc nào cũng quẫy cựa, phập phồng sự sống, lấp lánh sự sống" (...)"Câu văn
Nguyên Hồng như một cái cây sum suê. lúc lỉu những thành phần như một đoàn tàu
chợ" (17,97).
Bài viết của giáo sư Phong Lê với tựa "Người và văn Nguyên Hồng" in trong
"Văn học Việt Nam hiện đại, những chân dung tiêu biểu, Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà Nội cũng có nhận xét rất chính xác về văn phong của Nguyên Hồng : "Một
phong cách giàu cảm xúc, một tình thương vừa mênh mơng vừa thấm thía đối với
nhiều lớp người lao khổ, một bức tranh đời trước Cách mạng tháng Tám với bao nỗi
xót xa cay đắng của con người, những tính cách nhân vật như muốn cưỡng lại số
phận, một khát vọng hướng về cái thiện và do vậy mà hướng về cách mạng như một
lẽ phải tự nhiên" (44,376).
Phan Cự Đệ và Nguyễn Đăng Mạnh là hai nhà phê bình kỳ cựu đã có những
nhận xét và đánh giá rất sâu sắc về văn phong và đóng góp của Nguyên Hồng trong
nền văn học Việt Nam hiện đại.
Phan Cự Đệ trong giáo trình Văn Học Việt Nam 1900 - 1945 (nhà xuất bản
giáo dục, Hà Nội 1998) và lời giới thiệu "Tuyển tập Nguyên Hồng" tập I, NXB VH,
Hà Nội 1997 đã nhận xét nhà văn Nguyên Hồng có phong cách "trữ tình lãng mạn",
"trữ tình sơi nổi và "Nguyên Hồng đã từ nhiều góc độ khác nhau soi sáng diện mạo
nhân vật và phát hiện ra những nét phong phú trong tâm hồn người dân nghèo thành
thị" (10,31).
Riêng về bộ tiểu thuyết "Cửa biển" của Nguyên Hồng, Phan Cự Đệ trong bài
viết "Những bước tiến mới về tiểu thuyết của Nguyên Hồng sau Cách mạng tháng
Tám" đăng trên Tạp chí văn học, số 3 - 1969 và "tiểu thuyết "Cửa biển" của Nguyên
Hồng" đăng trên Tạp chí văn học, số 5 - 1979 đã nhận xét: "Nguyên Hồng đã dựng
nên một khối lượng nhân vật khá đồ sộ thuộc nhiều tầng lớp và giai cấp khác nhau.
Các nhân vật đó lại hoạt động trong nhiều mơi trường, hồn cảnh :Hải Phịng, Hà
Nội. Nam Định, nơng thơn, thành thị. trại tập trung ... Các nhận vật đều được đưa
từ hoàn cảnh hẹp ra hoàn cảnh rộng, đều được thử thách trong dịng thác lớn của
lịch sử và có những chuyển biến trong tính cách theo những con đường độc đáo khác
nhau" (12,34) và "Cửa biển là sự kết tinh cao độ toàn bộ vốn sống, toàn bộ các loại
nhân vật quen thuộc trước kia cũng như sau này cửa Ngun Hồng (...) Cửa biển có
cái khơng khí của một ngày hội lớn. Các nhân vật đủ các loại, các kiểu về đây họp
mặt, có thể dáng vóc, y phục, tính nết, số phận đã thay đổi ít nhiều nhưng vẫn là
nhữna con người khá quen thuộc với chúng ta (13.91).
Do bài viết đã đi vào nghiên cứu quá trình sáng tác của nhà văn, đánh giá các
giai đoạn sáng tác nên tác giả khơng có điều kiện phân tích kỹ nghệ thuật xây dựng
nhân vật thể hiện trong bộ tiểu thuyết của nhà văn. Tuy nhiên lời nhận xét trên đã
thể hiện sự am hiểu thấu đáo, sâu sắc của một tư duy mới và thống.
Về ngơn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết "Cửa biển" của Nguyên Hồng, Phan
Cự Đệ cũng có nhận xét hết sức tinh tế : "Trong tiểu thuyết đôi khi ta bắt gặp một
lối miêu tả lạnh lùng dường như cố ý để cho sự việc nói lên cái sự thật đau xót, tàn
nhẫn. Ngơn ngữ trần thuật ở đây mang tính chính xác. một thứ ngơn ngữ "trung
tính" dường như tước bỏ khỏi bất cứ sự tô màu mỹ học lộ liễu nào" (13,97).
Phan Cự Đệ cũng chỉ ra những hạn chế trong tiểu thuyết của Nguyên Hồng :
"Do lối viết miêu tả quá rườm rà về ngoại cảnh, một số nhân vật bị cường điệu hóa
về tình cảm hoặc bị chìm đi trong những hồi ức lãng mạn về quá khứ ..." nên đọc
những trang viết của Nguyên Hồng "... người ta có cảm giác nặng nề (...) "không
phải lúc nào Nguyên Hồng cũng viết bằng một bút pháp nghệ thuật tỉnh táo và nói
chung ít khi anh sử dụng một lối viết nghiêng về trí tuệ, Ở anh những yếu tố nội tâm,
những tình cảm sơi nổi dạt dào từ bên trong đôi lúc cứ muốn lấn lướt, trùm lên cái
hiện thực khách quan được miêu tả" (...) "tác phẩm Nguyên Hồng vì thế trở nên đơn
điệu, người đọc cảm thấy một ấn tượng nặng nề chê chán" (12,36).
Nguyễn Đăng Mạnh cũng đã có những nhận định mang tính tổng qt về tác
giả Ngun Hồng. Ơng nhận định tồn bộ sáng tác của Nguyên Hồng "thấm đượm
một tinh thần nhân đạo chủ nghĩa thiết thực và "Nguyên Hồng là nhà văn của những
người cùng khổ (19,41) Nguyên Đăng Mạnh cho rằng "nhiều nhân vật của Nguyên
Hồng in đậm vào cảm quan người đọc như những con người có tầm vóc thật lớn
khơng phải lớn về trí tuệ, tư tưởng về hành động cải tạo thế giới mà lớn về trái tim
sục sôi mãnh tiệt niềm tin yêu vô cùng đối với sự sống và làn về sức gánh chịu phi
thường những khổ đau oan trái ở đời ... (19,42). Ông cũng nhận thấy phong cách
của Nguyên Hồng mang đậm màu sắc trữ tình và cảm hứng lãng mạn ... "Văn tiểu
thuyết của Nguyên Hồng bao giờ cũng đầy cảm xúc, đầy chất thơ. Ngịi bút ấy đã
chế tạo lấy cho mình một chất thơ độc đáo, khơng phải từ mây gió trăng hoa mà
luyện bằng than bụi những nhà máy, những bến tàu, bằng sỏi đá những đồng khơ cỏ
cháy, hịa với chất mồ hôi mặn chát như trong sinh hoạt hàng ngày" (19,223). Chất
thơ trong văn xi chính là nét đặc sắc mà Nguyên Đăng Mạnh đã phát hiện ra trong
tác phẩm của Nguyên Hồng.
Về cách xây dựng tình huống trong tác phẩm của Nguyên Hồng, Nguyễn Đăng
Mạnh đánh giá : "Ngun Hồng có khuynh hướng xây dựng những tình huống dữ
dội phù hợp với giọng văn thống thiết của tâm hồn nồng nhiệt giãi bày trực tiếp trên
trang sách" (19,40) và trong tác phẩm của Nguyên Hồng " ...có sự đối lập dữ dội
giữa ánh sáng và bóng tối, giữa bão táp và nắng vầng, giữa quỷ dữ và thiên thần,
giữa địa ngục và lò lửa" (19,46).
Riêng về bộ tiểu thuyết "Cửa biển" của Nguyên Hồng, Nguyễn Đăng Mạnh đã
có những nhận xét rất chính xác và đáng lưu ý : “Một bộ tiểu thuyết sử thi hiểu theo
nghĩa đầy đủ nhất. Chưa bao giờ ngòi bút Nguyên Hồng lại vươn tới một tầm khái
quát tổng hợp rộng lớn đến thế. Một bộ sử thi - trữ tình bát ngát. Một mặt nó dựng
lên cả một bức tranh dữ dội và hoành tráng về một giai đoạn lịch sử của Hải Phòng
đang cùng cả nước trong cơ trở dạ vô cùng đau đớn nhưng cũng đầy phấn khởi
trước giờ phút khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hịa". Mặt khác nó lại là
một bài thợ lớn của thành phố cảng" (19,33) và "Cửa biển - Bộ tiểu thuyết bốn tập
lớn nhất của Văn học Việt Nam. Đối với sự nghiệp Nguyên Hồng Cửa biển là một
hiện tượng đội xuất, đội biến vừa là một sự tiếp nối tự nhiên (51,64). vẫn là những
nhân vật quen thuộc của Nguyên Hồng trong "Bỉ vỏ", "Những ngày thơ ấu, "Hơi
thở tàn" ... tất nhiên được bổ sung thêm nhiều hạng người khác nữa : Thực dân, cha
cố, trí thức, văn nghệ sĩ, chiến sĩ cách mạng ... để có thể tạo nên được bức tranh rộng
lớn và hoàn chỉnh về xã hội Việt Nam đang vật vã chuyển mình đi tới cuộc tổng khởi
nghĩa tháng Tám 1945.
Nguyên Hồng đã làm thơ về thành phố Hải Phịng với những tên đất, tên sơng,
tên phố, dường như chẳng thơ mộng tí nào : cửa cấm, Sáu Kho. Sông Lấp, bến tàu
Tây Điếc, vườn hoa đưa người ... vì thế "Cửa biển xứng đáng được coi là bản trường
ca hùng vĩ viết về những cuộc sống, những con người bề ngoài dường như chẳng
thơ mộng chất nào. Vậy mà tứ thơ nhiều khi cứ vút lên và ngân nga mãi trong lòng
người dọc" (47,140).
Cuối cùng, luận văn cũng đề cập đến ý kiến của Như Phong và Hà Minh Đức
về bộ tiểu thuyết "Cửa biển". Như Phong đã đánh giá ở góc độ nghệ thuật trần thuật
của Ngun Hồng : "Đó là một tác phẩm khơng đều nhưng đọc xong có một cái gì
xô rất mạnh vào chúng ra, rung chuyển trong chúng ta rất lâu ...Nguyên Hồng đã tả
lại cuộc đời cực khổ của những người nghèo trong xã hội trước cách mạng với một
sức tái hiện mạnh mẽ lạ thường. Người đọc như bị lôi xoắn vào một thế giới sâu
thẳm và kinh hồng trong đó con người hàng ngày bị rút xương rút tủy bởi những
công việc kiệt lực, bị tùng xẻo liên miên bởi những nỗi đói rách, thiếu thốn công nợ
bị treo lơ lửng suốt đời trên miệng vực của một ngày mai khủng khiếp, trông ra chỉ
thấy lởm chởm toàn những tai họa, bất trắc, những viễn cảnh mất việc. tàn tật,
nghiệp ngập, ăn mày. chết đường, chết chợ ..." (17,76).
Hà Minh Đức trong bài "Nguyên Hồng - nhà văn của những khát vọng sống"
đăng trên tạp chí văn học, số 9/2001 đã đánh giá một cách tổng quát và khẳng định
vị trí quan trọng của bộ tiểu thuyết "Cửa biển" trong văn học hiện đại và trong sự
nghiệp viết văn của Nguyên Hồng : "Bộ tiểu thuyết "Cửa biển " được xem là bộ tiểu
thuyết dài nhất, đồ sộ nhất trong văn học thời kỳ hiện đại. Đây là bức tranh lớn,
toàn cảnh về xã hội Việt Nam từ thời kỳ mặt trận dân chủ, qua những ngày đen tối
dưới chế độ Nhật Pháp cho đến khi Cách mạng tháng Tám thành cơng, Nói cho đúng
hơn thì bộ Cửa biển là tập đại thành của tồn bộ đời viết văn Nguyên Hồng" (15,16).
Thực chất, những ý kiến trên khơng hồn tồn mâu thuẫn nhau. Mỗi nhà nghiên
cứu nhìn nhận vấn đề ở mỗi khía cạnh và mức độ khác nhau. Nhìn chung, các nhà
nghiên cứu đã nhìn nhận một cách tổng qt đóng góp của bộ tiểu thuyết Cửa biển
vào nền văn học Việt Nam hiện đại và một số khía cạnh về thi pháp tiểu thuyết nhưng
vẫn chưa đi sâu vào tìm hiểu Thi pháp trong tiểu thuyết "Cửa biển " của Nguyễn
Hồng. Vì vậy luận văn sẽ đi sâu vào tìm hiểu và làm rõ phương diện này.
III. GIỚI THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
Với mục đích nghiên cứu "Thi pháp trong tiểu thuyết "Cửa biển" của Ngun
Hồng" nên luận văn khơng đề cập đến tồn bộ sáng tác của ông mà chỉ giới hạn trong
bộ tiểu thuyết "Cửa biển" gồm 4 tập : Sóng gầm (1961). Cơn bão đã đến (1967).
Thời kỳ đen tối (1973). Khi đứa con ra đời (1976).
Do những hạn chế khách quan và chủ quan của hoàn cảnh hiện tại nên luận văn
khơng nghiên cứu tồn bộ các vấn đề về thi pháp tiểu thuyết của Nguyên Hồng mà
chỉ đi sâu vào một vài phương diện trong đó có nghệ thuật xây dựng nhân vật và
nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của ơng. Ngồi ra luận văn cịn khảo sát liểu
thuyết đầu tay "Bỉ vỏ" (1938) của Nguyên Hồng để thấy rõ những nét chuyển biến
trong phong cách nghệ thuật của nhà văn này. Đồng thời luận văn cũng khảo sát tiểu
thuyết Vỡ bờ của nhà văn Nguyễn Đình Thi để chỉ ra nét độc đáo riêng biệt của nhà
văn Nguyên Hồng
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
Việc tiếp cận vấn đề 'Thi pháp trong tiểu thuyết "Cửa biển” của Ngun Hồng"
được đặt dưới góc độ nhìn nhận của các phương phápkhác nhau. Trong đó chúng tơi
lấy phương pháp luận macxit làm cơ sở cho việc nghiên cứu.
1. Phương pháp hệ thống :
Sáng tác của mỗi nhà văn là một chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn, là một hệ thống
chịu sự quy định của tư tưởng và phong cách nghệ thuật của tác giả Muốn tìm ra
những nét đặc sắc, những sáng tạo nghệ thuật có giá trị và nổi trội của nhà văn thì
phải bao qt tồn bộ thế giới nghệ thuật của nhà văn ấy như là một hệ thống. Ngồi
ra, phương pháp hệ thống cịn nhằm nhìn nhận vấn đề một cách cụ thể, rõ ràng hơn.
vấn đề được xem xét trong hệ thống để có thể thấy được các lớp nghĩa bên trong của
vấn đề.
2. Phương pháp phân tích - tổng hợp :
Để rút ra những đặc trưng về thi pháp tiểu thuyết về các loại hình nhân vật cũng
như những vấn đề khác có liên quan. Luận văn khơng thể khơng đi sâu vào xem xét,
phân tích những chi tiết tình tiết liên quan đến nhân vật, xét trong mối quan hệ ràng
buộc qua lại. Trên cơ sở đó chúng tơi tổng hợp để hệ thống hóa kết quả phân tích.
3. Phương pháp so sánh :
Trong chừng mực nhất định, phương phápso sánh được sử dụng như là phương
pháphỗ trợ. Phương pháp so sánh được sử dụng kết hợp ngay trong q trình xem
xét, phân tích từng nhân vật cụ thể và hệ thống nhân vật của Nguyên Hồng. Đồng
thời phương pháp này còn được sử dụng khi liên hệ đến sáng tác của Nguyên Hồng
trước Cách mạng tháng Tám. Đặc biệt là tiểu thuyết đầu tay "Bi vỏ" của ông. Ngồi
ra, phương pháp này cịn được sử dung khi so sánh với tiểu thuyết "Vỡ bờ"' của nhà
văn Nguyễn Đình Thi trong văn học Việt Nam hiện đại để thấy được nhưng nét độc
đáo, riêng biệt trong phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyên Hồng.
4. Phương pháp thống kê phân loại:
Phân loại thống kê các biểu hiển cụ thể của văn xuôi nghệ thuật của Nguyên
Hồng trong tiểu thuyết Luận văn có thể cung cấp những cứ liệu xác thực giúp cho
việc trình bày vấn đề trở nên rõ ràng và có sức thuyết phục hơn.
Các phương pháp trên có liên quan chặt chẽ và có ý nghĩa hỗ trợ lẫn nhau, được
sử dụng phối hợp trong quá trình nghiên cứu. Ngồi ra trong khi nghiên cứu luận
văn cịn sử dụng một số phương pháp và thi pháp nghiên cứu khác.
V. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN :
Luận án này tiếp cận và giải quyết một vấn đề vốn chưa được đào sâu, khai thác
bao nhiêu. Thực hiện luận án này chúng tôi cố gắng và hy vọng mang lại những đóng
góp sau :
- Thứ nhất : luận án đưa ra cái nhìn ttrong đối tồn diện và có hệ thống về việc
đánh giá thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết
"Cửa biển" của Nguyên Hồng ở mặt thành tựu cũng như hạn chế.
- Thứ hai : luận án nêu lên và làm sáng tỏ nghệ thuật trần thuật và giọng điệu
trần thuật trong tiểu thuyết "Cửa biển" của Nguyên Hồng - cơ sở hình thành
đặc trưng thi pháp tiểu thuyết của nhà văn. Ngoài ra, luận văn cịn chỉ ra nét
độc đáo riêng biệt khơng thể lẫn lộn Trong phong cách nghệ thuật của nhà văn
Nguyên Hồng.
VI. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN:
Không kể phần Dẫn luận và Kết luận, nội dung chính của luận án bao gồm hai
chương :
Chương một: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết "Cửa biển" của
Nguyên Hồng.
Chương hai : Nghệ thuật trần thuật của Nguyên Hồng trong tiểu thuyết "Cửa
biển”.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TIỂU
THUYẾT "CỬA BIỂN" CỦA NGUYÊN HỒNG
Nhân vật là hình bóng con người trong tác phẩm văn chương. Văn chương là
đặc sản tinh thần của con người, nên khơng có một tác phẩm văn chương nào vắng
bóng con người. Tất cả mọi vấn đề mà văn chương quan tâm đều thuộc về con người.
Luận điểm của văn hào Macxim Goorki có một ý nghĩa sâu xa khi xét tới nhân vật
trong tác phẩm văn chương "Văn học là nhân học, là khoa học về con người. Song
đây không phải là con người chung chung hay con người là đối tượng của bộ môn
giải phẫu sinh lý mà là con người của tâm linh, tâm thức. Con người trong văn
chương là con người của phần "hồn" chứ không phải là con người của phần "xác",
Văn chương thể hiện con người của thế giới tâm linh - thế giới tinh thần ở dạng này
hay dạng khác. Con người của thế giới tâm linh khi "đi vào" tác phẩm văn chương
thì trở thành nhân vật. Do sự chi phối của phtrong thức sáng tác - kiểu sáng tác và
sự chi phối của đặc trưng loại thể hay thể loại. nhân vật có thể xuất hiện ở nhiều
dạng khác nhau. Nhân vật Trong tác phẩm văn chương mang lý tưởng thẩm mỹ của
nhà văn một cách trực tiếp hay gián tiếp.
Sự cảm thụ, cách nhìn nhận, đánh giá chủ quan của nhà văn được thể hiện trong
nhân vật. "Nó là cách cắt nghĩa của văn học đối với con người”(61;30). Con người
ở ngoài đời khi "bước vào” tác phẩm văn chương hay các hiện tượng và sự vật được
nhân vật hóa phải qua "lăng kính" cảm thụ và sáng tạo của nhà văn. Nhân vật trong
tác phẩm văn chương không phải là một bức ảnh chân dung chụp lại mà đó là một
sinh thể nghệ thuật được nhà văn sáng tạo theo một cách cảm nhận nào đó. Nhân vật
nào trong tác phẩm cùng bừng lên tình cảm hay thái độ của nhà văn. Đó là một điều
khơng thể chối cãi được. Vì vậy nghiên cứu nghệ thuật xây dựng nhân vật là "khám
phá cách cảm nhận con người qua việc miêu tả nhân vật” (61 ;29) của nhà văn.
1.1. Nhân vật được xây dựng từ những tính cách và hình tượng khác thường :
Ngun Hồng là người say mê văn chương và đến với văn chương từ rất sớm.
19 tuổi ông đã nổi tiếng với tiểu thuyết "Bỉ vỏ" và từ đấy suốt cuộc đời ông miệt mài
đau đáu với văn chương. Với 64 tuổi đời và ngót 50 năm cầm bút, một cuộc đời văn
nghiệp Ncuyên Hồng thật nhiều nỗi túng đói và thiếu hụt suối những năm tháng dài
dằng dặc, nhưng ở Nguyên Hồng ta vẫn thấy toát lên một niềm tin yêu cuộc sống.
Với sức lao động miệt mài, bền bỉ ông đã để lại cho nền văn xuôi Việt Nam nhiều
tác phẩm có giá trị.
Người ta gọi "Nguyên Hồng là nhà văn của lớp người cùng khổ" (17,56). Điều
này hồn tồn có cơ sở bởi thế giới nhân vật của Nguyên Hồng là những người thuộc
loại cùng đinh tròong xã hội. Bản thân ông cũng là một người nghèo khổ. Mở đầu
thiên tự truyện "Những ngày thơ ấu" Nguyên Hồng đã kể lại một cách giản dị gia
cảnh nhà mình : "Thầy tôi làm cai ngục, Mẹ tôi là con nhà huân bán rau đậu và trầu
cau lần hồi ở các chợ và trên đường sơng Nam Định - Hải Phịng". Đứa trẻ là
Nguyên Hồng trớ trêu thay là kết quả của mối tình duyên ép uổng, lớn lên trong sự
xa lánh thù ghét của người thân. Có lẽ vì thế mà Nguyên Hồng sớm hiểu được cái
khổ của những người cùng cảnh. Ngay từ tuổi thiếu niên, ông đã sớm xác định được
trách nhiệm của mình : "Tơi sẽ viết về những cảnh đói khổ, về những áp bức, về
những trái ngược, bất công, Tôi sẽ đứng vẻ những con người lầm lạc bị đọa đày,
lăng nhục. Tôi sẽ vạch trần ra những vết thương xã hội, những việc làm bạo ngược,
lộng hành của xã hội thời bấy giờ. Tôi sẽ gánh chịu lấy mọi trách nhiệm chống đối
cũng như bào chữa, bảo vệ. Tơi chỉ có tiến bước, chỉ có đi thẳng. Tơi sẽ chỉ biết có
ánh sáng và chính tôi là ánh sáng" (32:18). Ý thức này cũng giúp Nguyên Hồng
nhanh chống nắm bắt được bân chai xã hội cũ. Đó cũng là lý do để ơng đến với cách
mạng một cách hồn nhiên, tin tưởng. Nguyên Hồng đã dành trọn đời văn của mình
để thực hiện tun ngơn nghệ thuật ấy.
Năm 1935 Nguyên Hồng cùng mẹ ra Hải Phòng lần hồi kiếm sống trong những
xóm nghèo. Nguyên Hồng đã từ một cuộc đời đói khổ, lam lũ, bị hắt hủi trong xã
hội mà bước vào làng văn. Ngịi bót của Nguyên Hồng sớm được tôi luyện trong mồ
hôi, nước mắt của những kiếp sống lam lũ, cùng khổ ấy. Thế giới nhân vật của
Nguyên Hồng là những con người dưới đáy xã hội thành thị - đặc biệt là thành phố
Hải Phòng.
Dưới chế độ thuộc địa của thực dân Pháp, Hải Phịng là một thành phố cơng
nghiệp lớn nhất nước ta. Đối với những người nông dân nghèo khổ ở các làng q,
Hải Phịng có sức hấp dẫn lớn đối với họ và có khả năng đem lại cho họ một cuộc
sống no đủ, khấm khá hơn. Vì thế nhiều người lao động nghèo khổ bị xã hội phong
kiến bóc lột, đè nén hoặc các tầng lớp dân nghèo bị phá sản từ nhiều miền quê kéo
đến Hải Phòng ngày một nhiều. Nhưng sự thực Hải Phịng khơng phải là điểm hẹn
của một cuộc sống no đủ khấm khá. Những người nông dân nghèo khổ đã trở thành
nguồn lao động rẻ mạt cho bọn tư bản. Vì thế người dân thành phố cảng Hải Phịng
ít mang tính chất bản địa mà mang tính chất pha tạp. Đặc điểm này quy định tính
cách con người thành phố cảng. Họ đã tự rèn đúc cho mình một bản lĩnh sống thật
gan góc, táo tợn và liều lĩnh. Đó là tính cách mang tính chất tổng hợp pha tạp của
người dân Hải Phòng và được Nguyên Hồng thể hiện rõ nét trong các tác phẩm của
ơng.
Hơn nữa, Hải Phịng cịn là "món nợ lòng" của riêng Nguyên Hồng trong suốt
cuộc đời cầm bút. Ông đã nhiều lần viết : "Đối với Hải Phịng tơi mắc món nợ, tơi
đã u một tình u không thể nào trang trải thay thế được. nếu tôi khơng có những
tác phẩm mang tận cùng sự cố gắng và say mê của tơi khi viết về nó" (34;97). Hải
Phòng là nơi Nguyên Hồng viết tiểu thuyết đầu tay "Bỉ vỏ” và cũng là nơi được
Nguyên Hồng nói đến nhiều nhất trong bộ tiểu thuyết "Cửa biển" đồ sộ sau này.
Thành phố Hải Phòng là tâm điểm của bức tranh hiện thực mà tác giả thể hiện trong
tiểu thuyết "Cửa biển”. Mặc dù ngịi bút Ngun Hồng khơng chỉ giới hạn ở thành
phố Hải Phòng mà còn mở rộng đến các thành phố lớn như Hà Nội, Nam Định và
các vùng miền núi nông thôn miền Bắc. Nhưng dù sao thành phố Hải Phòng vẫn là
tâm điểm của bức tranh sơng nước lộng nắng, lộng gió với vơ vàn những âm thanh
của cuộc sống phồn tạp trong tác phẩm của ơng.
Vị trí địa lý cũng như thiên nhiên thành phố cửa biển Hải Phòng đã tạo nên
những dấu ấn riêng trong tính cách con người Hải Phịng và cả Trong tính cách
những nhân vật của Nguyên Hồng. Trong quá trình xây dựng hình tượng, Ngun
Hồng khơng thể chỉ dừng lại ở những sự việc, sự kiện ở bề mặt bề nổi của cuộc đời
con người mà phải tập trung Ngịi bút phân tích, mổ xẻ. soi rọi. làm sáng rõ đời sống
nội tâm của con người trong những tình huống cảnh ngộ cụ thể... Những điều đó có
nguồn gốc sâu xa từ quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn. Nguyên Hồng
đã tự nguyện làm nhà văn của những người cùng khổ. Ơng muốn dùng ngịi bút tát
cho cạn bớt cái bể khổ của cuộc đời, phải viết ra thành chữ tất cả những gì chứa
đựng, nung nấu, quằn quại, đau xót, bay bổng và bái ngát của tâm hồn. Tất nhiên,
khơng phải chỉ có quan niệm nghệ thuật về con người như thế là sẽ có những trang
viết về đời sống nội tâm con người một cách sống động, đầy thu hút. ám ảnh như
Nguyên Hồng. Điều đó cịn nhờ vào tài năng nghệ thuật độc đáo của mỗi nhà văn.
Nguyên Hồng là một nhà văn hiện thực nên khi xây dựng nhân vật một mặt ông
nghiêng về khai thác cái cá biệt, khác thường, lý tưởng của tính cách nhân vật. Mặt
khác ơng cùng chú ý phản ánh cái cá biệt, khác thường ấy trong mối quan hệ hiện
thực của nhân vật
Ngay từ tiểu thuyết đầu tay "Bỉ vỏ" Nguyên Hồng đã xây dựng những nhân vật
có tính cách khác thường. Ngòi bút của Nguyên Hồng đã dẫn dắt người đọc vào thế
giới của những kẻ lưu manh với những hành động giết người không ghê tay, những
cảnh đâm chém, cướp giật và cả cảnh ăn chơi hút sách trụy lạc như khơng có giới
hạn. Năm Sài Gịn và bọn đàn em của hắn đều có nguồn góc xuất thân khơng rõ ràng,
sống một cuộc sống khác thường với những hành vi và ngôn ngữ cũng khác thường.
Ngôn ngữ mà bọn chúng sử dụng là những tiếng lóng chứ khơng phải là ngôn ngữ
của đồng loại ... Những nhân vật này vừa như những nạn nhân đáng thương vừa như
những con người khác lạ. Con người dù không dễ bị lưu manh hóa nhưng khi đã
nhiễm chất lưu manh thì họ sẽ trở thành những nhân vật khác thường hay có những
nét khác thường.
Cửa biển là bộ tiểu thuyết lớn dài hơn 2000 trang gồm 4 tập Sóng gầm (1961),
Cơn bão đã đến (1968), Thời kỳ đen tối (1973) Khi đứa con ra đời (1976). Tác
phẩm viết về một thời kỳ sôi động nhất của lịch sử cách mạng Việt Nam : Thời kỳ
mặt trận dân chủ Đông Dương 1936 - 1939 đến cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng
tháng Tám 1945. Thế giới nhân vật trong bộ tiểu thuyết rất đông đảo, gồm hàng trăm
người thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội. nghề nghiệp và khuynh hướng chính trị khác
nhau, hoạt động chủ yếu ở thành phố Hải Phòng.
Các nhân vật chủ yếu được chia làm hai loại : Thứ nhất đó là những người lao
động cùng khổ của thành phố cảng. Đó là những con người phải bán sức lao động ở
những bến tàu, những công trường, nhà máy hay làm những công việc thuê mướn
lần hồi hoặc buôn bán vạt vãnh nơi hè phố hay các chợ gần xa. Loại nhân vật thứ hai
là những ông chủ, bà chủ của xã hội và bọn tay sai của chúng : Thực dân Pháp, phát
xít Nhật những tên đại tư sản, đại địa chủ và bọn mật thám, lưu manh, côn đồ phục
vụ cho bộ máy thống trị.
Cuộc cạnh tranh sinh tồn diễn ra quyết liệt giữa những người dân tứ chiếng đến
kiếm việc làm và miếng ăn ở thành phố cảng này đã tạo nên ở những người dân
xóm cấm tính cách phóng túng, ngang tàng, pha chất "anh chị". Với cái nhìn yêu
thương trân trọng con người, Nguyên Hồng đã nhìn thấy vẻ đẹp bên trong của những
con người tuy thơ nhám xù xì mà đằm thắm dịu dàng, dữ dội mà nhân hậu, khổ đau
mà khỏe mạnh quật cường. Nhân vật có tính cách và hình lượng khác thường nhưng
lại giàu nghĩa khí và có dáng dấp anh hùng hảo hán. Mẹ La, Mẹ Nghĩa, Gái đen là
những nhân vật như thế.
Mẹ La làm nghề đội than ở Sáu Kho. ở các bến tàu. các lán. các xưởng ở Hải
Phòng. Me La đã đội than từ năm mười hai, mười ba tuổi cho đến nay mẹ đã gần 40
tuổi. Mồ côi từ thuở bé. mẹ không thể nhớ và không thể biết được cha mẹ mình là
ai, mà chỉ nhớ, chỉ biết mang máng quê mình ở một vùng biển. Đội than quanh năm
suối tháng đầu Mẹ La đã thành chai, da dẻ thì cóc cáy lại, người mẹ lại nhỏ bé khịm
khịm như bà cụ còng bảy mươi tuổi. Mẹ La đã làm ăn lam lũ nhưng quanh năm túng
thiếu vì cịn phải nuôi một đàn con nhỏ. Đã vậy Mẹ La lại cịn vai vả cực nhọc với
một ơng chồng nghiện rượu và vũ phu. Trên người Mẹ La có hàng chục vết sẹo :
"cái vì leo cầu trượt ngã, cái vì hàng rơi sắt đổ, cái vì thằng chồng nó đánh (28:64).
Các trận địn ấy có khi là do lão La giận cá chém thớt hay khảo tiền đi uống rượu và
đánh sóc dĩa. Lão La thường bỏ nhà đi biền biệt cứ lúc nào "bịn khơng ra. sờ khơng
thấy lão lại mò về, mẹ lại chửa, lại đẻ, vẫn một mình chạy vạy ni đàn con" (28;25).
Mẹ La nghèo khổ nhưng lại là người sống xởi lởi chân thành và tốt bụng với bà con
lối xóm. Mẹ sẵn sàng giúp đỡ mọi người khi gặp khó khăn và biết trân trọng nghĩa
tình đối với những người đã cưu mang giúp đỡ gia đình mẹ trong cơn hoạn nạn. Mẹ
La là người căm ghét áp bức bóc lột. Niềm căm ghét này chưa phải được xác lập
trên lập trường giai cấp của Đảng nhưng bao giờ cũng dứt khốt khơng bao giờ lẫn
lộn giữa bạn và thù. Đối với bọn nhà giàu, bóc lột Mẹ La khơng ngần ngại dành cho
chúng những câu nói vồ mặt "À! Chúng mày bụng bọ thì bà chật "nhồn” vào mặt
chúng mày đây này" (28;25). Khi mụ đội Nhị dọa bỏ tù thằng La và thằng Nghĩa vì
hai ơng Lương này đã làm mấy đêm loạn cả xóm, dám nhát ma các bà già và mấy ả
có tiếng là đanh đá và hay đồng bóng làm mấy mẹ nọ sợ phát sốt, phái ốm. Cịn hai
ơng tướng thì nẫng các thứ hoa quả, bánh kẹo và cả tiền ở các khay trầu rồi kéo nhau
sang núi Voi, núi Dế ăn uống với nhau.
Khi câu nói của mụ đội Nhị đến tai Mẹ La, mẹ đã ra đứng giữa đường, lối vào
ngõ. "Tóc mẹ búi ngược, cạp quần xắn để trễ cả lườn ra, ống quần một bên kéo xếch
... Mẹ La đã vẫy tay về phía nhà đội Nhị mà chưởi - Nào thằng nào con nào đe bỏ
tù con bà thì ra đây cho bà xem mặt nào! Đang lúc mẹ con bà túng đói, lại được
chúng nó đưa con cái đi cho đề lao ni cơm thì cịn gì hơn nữa! Ra đây, cứ ra mặt
đây với bà" (28;213). Mẹ La sẵn sàng chống trả lại bọn giàu có, bọn mật thám, chỉ
điểm, không xin xỏ, không quy lụy, cắn răng "vượt lên hồn cảnh mà sống.
Mẹ La cịn bị ở tù nữa vì cái tội "làm cho chồng phải tự vẫn” và mang cái tên
là "con mẹ giết chồng". Mẹ La bị kết án 5 năm tù ở Hải Phòng, nhưng tòa trên Hà
Nội thấy xử cái tội "làm cho chồng tự vẫn" của Mẹ La còn chưa cân xứng, đã đòi
lên xử lại. Mẹ La lại bị lăng thêm 5 năm nữa là 10 năm rồi phát vãng lên đề lao Hà
Giang. Mẹ La phải đi làm cỏ vê như mọi người đàn ông ốm nặng khác. Mẹ càng
ngày càng ốm yếu rồi cũng chết vì "ma thiêng nước độc" như hầu hết những tội nhân
dưới xuôi lên vùng ngược mà nhất là tỉnh Hà Giang đây. Nhưng tất cả những cảnh
cơm vội, cá mắm, cỏ vê, quét dọn nhà xí, nhà mồ, nhà xác Mẹ La đều coi thường.
Duy chỉ có hai điều làm mẹ La rất sợ là sốt rét và nhớ các con.
Mỗi khi bị sốt nặng, đầu óc Mẹ La lại nặng trĩu, trong người cồn cào, mình mẩy
chân tay như bị dần, bị cặp, bị xẻo, mỏi nhức, buốt chói vơ cùng. Trong cơn sốt Mẹ
La vừa mê vừa tỉnh nên mẹ thấy bao nhiêu cảnh khiếp sự, vừa lại được gặp các con,
gặp chồng rõ ràng như mẹ đang ở nhà.
Đó là một buổi trưa, Mẹ La vừa lĩnh được mấy hào liền thẻ ghi những thúng
than đội từ sáng đến chiều trong đầu tuần nay. Mẹ vừa đèo cái bị gạo, vừa xách thức
ăn mua vội ở chợ dọc đường, về đến nhà thì con lớn, con bé tíu tít vây quanh, mẹ La
vừa nựng nịu vừa mắng các con làm cả nhà chộn rộn cả lên.
Trong bóng tối hun hút của gian trại hơi nồng, những hình ảnh kia cịn đang
phảng phất bên mình Mẹ La thì Lão La lại hiện ra. Mẹ La lại thấy, lại gặp chồng. Đó
là một buổi chiều Lão La về nhà và lại đang uống rượu trên mê chiếu rách cùng với
hai đứa con gái của lão. Cái gái con và cái gái nhỡ là bạn rượu của lão trong nhà lại
nhộn cả lên nhưng tiếng bi bô ngọng nghịu của hai đứa con :
- "Con chó êu chầy nhé (Con có yêu thầy nhé).
- ừ ừ ... ề ề ề chầy cũng chó êu con (Thầy cũng có yêu con)
- Con chó êu cả bu nữa
- ừ ừ ... ề ế ề chầy cũng chó êu bu
- Thầy tao, hu tao, anh La cũng của tao
-Thầy của tao, bu của tao, anh La cũng của tao ..." (29; 18).
Tự nhiên có một luồng gió lốc đen như mực bỗng xốy đến, cuốn đi tất cả cây
cối, nhà cửa đtrong hiển hiện ở chung quanh mẹ. Lão La đã chối rồi, Mẹ La đoạn
tang lão từ năm ngoái. Thế là Mẹ La đã đi tù hơn ba năm, con cái đứa lớn, đứa bé
mỗi đứa đi một cửa. Thực ra, Lão La cũng không phải là người chồng vô trách nhiệm
và nát rượu. Lão La cũng mồ côi giống như Mẹ La. Lão La cũng rất mực chịu thượng
chịu khó. Từ thằng quýt tàu lão đã ngoi được lên chân nấu bếp. Lão đã dành dụm
được bạc trăm định lên bờ đóng một cái xe bán phở để cùng vợ con quấn túm làm
ăn cho mát mày mát mặt. Nhưng tiền thì bị bọn côn đồ chân tay mật thám đội xếp
thộp được cướp hết, việc thì mất. Từ đó Lão La hay uống rượu rồi nghiện rượu lúc
nào không hay. Nhưng càng về sau, khổ sở, cùng túng phải bòn nhặt từng đồng để
uống rượu, Lão La lại càng chăm chút các con, lại càng chiều ý vợ. Nguyên Hồng
đã chỉ ra nguyên nhân của sự bất hạnh và cấu xé lẫn nhau trong gia đình Mẹ La là
do hoàn cảnh xã hội.
Mẹ La đã nhiều lần nghĩ phải trốn tù. Và lần này Mẹ La nhất định phải vượt
ngục để về với lũ con mà mẹ mang nặng đẻ đau, sinh nó ra làm người trên mặt đất
này, trong cái xã hội trước kia này ...và cũng để chuộc lỗi với Lão La.
Nguyên Hồng kể rằng ông đã từng nghe nói về cảnh nhà chùa làm lễ phá ngục.
Ơng đã đọc truyện "Thúy Hử" có đoạn Lâm Xung vượt ngục. Ông đã đọc "Những
người khốn khổ" của V.Huy Gơ, nhân vật chính là Giăng -Văn - Giang vượt ngục.
Và ơng cũng đọc cả truyện 'Thím Tường Lâm" của Lỗ Tấn. Những câu mụ thường
rên rỉ. vừa nắm tay tự đấm và ngực mình. Những câu mụ nói như cào xé thịt mình
vì hối liếc đã khờ dại để thằng A Mao - thằng con độc nhất của mình, rời xa mình
trong một ngày đóng băng tuyết nhưng trời nóng rồi bị sói ăn thịt ấy. Đó là những
tiếng siết xoáy càng ngày càng sâu càng văng vẳng trong tâm trí ơng trước khi viết
về mẹ La. Vì thế lần này "Nguyên Hồng đã để một bà mẹ u u minh minh vượt cả nhà
tù đế quốc lẫn nhà tù thần quyền ngay trong lịng mình" (13;98).
"Thế là ta nhất định trốn! Tối hôm nay ta cúng tổ bố chồng ta, khấn cụ xong ta
chuyện trò với các chị em hàng trại, ngủ một đêm nữa, sáng mai ta đi làm, trưa về
ăn bữa cơm cuối cùng rồi chiều mai ta sang suối luồn rừng tắt về Bắc Giang, về
Tun Quang rồi về xi khơng cịn đi lại chốn này nữa" (29;49).
Cái ý định thầm kín ấy chỉ một mình mẹ La biết, thế mà mẹ cứ luống cuống
ngỡ như mọi người đều biết cả rồi. Mẹ La xin phép người lính Mèo vào tịa miếu để
cúng bà chúa ngục. Khi vào tòa miếu giở bọc đồ lễ gồm một đĩa xơi đỗ xanh, gói
hoa, ba quả cau, ba lá trầu và bao htrong ... Mẹ La khấn và xin âm dtrong. Cả ba lần
khấn hai đồng tiền đều xấp mặt xuống lòng dĩa. Đầu -gối mẹ La run rẩy, tưởng như
khụy xuống bục gạch xây, rơi vỡ toang cả đĩa. Trong khi đó trong tâm trí mẹ La hiện
lên rõ làng một đồng xấp, một đồng -ngửa nổi lên hẳn hoi trong lòng đĩa trắng. Trong
lịng mẹ La bâng khng lo ngại vì không được sự chấp thuận của đấng thần linh.
Nhưng mẹ La chợt nghĩ đến ơng già phe mì đa sống ở đây trên hai mươi năm, nghĩ
đến mùa hè nắng nơi viêm nhiệt, strong lam, chướng khí, đang nắng thì mưa mà phải
đi làm cả trưa trên ấy. Không biết bao giờ mới có dịp đi làm ở sở nhà thương như
thế này. Bao nhiêu ý nghĩ quay cuồng trong đầu mẹ La. Thế rồi mẹ La quyết định
bỏ trốn trong dịp này dù chẳng được sự đồng ý của thần linh. Cái con mẹ người Hải
Phòng mang án giết chồng ấy trốn. Cả trại tù đàn bà bị phạt ăn cơm nhạt trưa, tối
cùm một chân luôn một tháng. "Chỗ mẹ La không ai nằm cả. Cái vệt người mẹ La
hằn bụi trên mặt sàn gỗ lim hàng tháng rồi cứ y nguyên ở góc trại lạnh lẽo ấy"
(29;58).
Người đàn bà trốn tù ấy luồn rừng băng đồng tìm về thành phố quê htrong, chết
đi sống lại mấy lần. Mẹ La bước đi giữa thành phố Hải Phòng mà như một hồn ma
đi giữa ban ngày, "một hồn ma bóng quỷ thốt khỏi âm ty địa ngục trở về dtrong
gian làm người” (29; 146).
Mẹ La đã trốn tù được trót lọi, mẹ lại về với cái đất Hải Phịng để tìm lũ con
của mẹ, tìm những bà con hàng xóm đã thành ruột thịt của mẹ và để ... mẹ con lại
được đội than nuôi sống nhau. Mẹ La đa đón gặp Gái đen - "con một ơng tù chính
trị cộng sản" bị đày chết ngồi Cơn Đảo, người hàng xóm và bạn Sáu Kho của mẹ.
Gái đen kiếm chỗ giấu giếm mẹ La và xếp cho mẹ La một công việc tuy vất vả, bẩn
thỉu là quét dọn cống rãnh, bếp núc, làm lòng gà, lòng vịt và hầu hạ, giặt giũ cho tất
cả đầu bếp ở khách sạn Thiên Tân nhưng hết sức kín đáo. Hàng tháng mẹ La lại có
được chút tiền gởi gắm cho con cái. Mẹ La bắt liên lạc được với Xim - người nuôi
con gái mẹ. Xim làm công nhân máy tơ bị chủ sa thai vì tham gia đấu tranh. Xim