ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HƠ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
TÌM HIỂU ĐẶC TRƯNG TRUYỆN
NGẮN MGUYỄN QUANG SÁNG
LUẬN VĂN
THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Mã số 5-04-33
Người hướng dẫn : PGS.PTS. PHÙNG QUÍ NHÂM
Người thực hiện : PHAN DUY QUAN
Thành phố Hồ Chí Minh - 1996
MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................ 2
T
2
T
2
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 4
T
2
T
2
1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: ...................................................................................................... 4
T
2
T
2
2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ : .......................................................................................................... 5
T
2
T
2
3. PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: ........................................................... 9
T
2
T
2
Chương 1 : CẢM HỨNG THỜI ĐẠI.............................................................. 13
T
2
T
2
1.1. TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG SÁNG QUA CÁC THỜI KÌ SÁNG TÁC .... 13
T
2
T
2
1.2. DẤU ẤN THỜI ĐẠI: ................................................................................................... 15
T
2
T
2
Chương 2. CON NGƯỜI TRONG TRUYỆN NGẤN NGUYỄN QUANG
T
2
SÁNG .................................................................................................................. 25
T
2
2.1. SỰ CẢM NHẬN VỀ CON NGƯỜI ............................................................................ 25
T
2
T
2
2.1.1 Hình tượng người nơng dân Nam bộ: .................................................................... 27
T
2
T
2
2.1.2.Hình tượng người phụ nữ: ..................................................................................... 30
T
2
T
2
2.2. SỰ THỂ HIỆN NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI..................................................... 32
T
2
T
2
2.2.1.Miêu tả ngoại hình nhân vật: ................................................................................. 32
T
2
T
2
2.2.2.Hành động nhân vật: .............................................................................................. 37
T
2
T
2
2.2.3.Biểu hiện nội tâm nhân vật: ................................................................................... 43
T
2
T
2
2.3.NHỮNG THÀNH CÔNG CỦA NGUYỄN QUANG SÁNG TRONG SỰ THỂ HIỆN
T
2
VỀ CON NGƯỜI ................................................................................................................ 48
T
2
2.3.2. Phải Viết về cuộc sống đang diễn ra; về nhữg con người dũng cảm trên chiến
T
2
trường. ............................................................................................................................ 50
T
2
2.3.3. Nhân vật phản diện trong tác phẩm hay còn mờ nhạt: ......................................... 51
T
2
T
2
Chương 3 . KẾT CẤU TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG
T
2
SÁNG .................................................................................................................. 53
T
2
3.1.KẾT CẤU TÌNH HUỐNG TRUYỆN : ........................................................................ 53
T
2
T
2
3.2.KHÔNG GIAN - THỜI GIAN NGHỆ THUẬT : ......................................................... 61
T
2
T
2
Chương 4. NGÔN TỪ TRONG TRUYỆN MGẮN NGUYỄN QUANG
T
2
SÁNG .................................................................................................................. 65
T
2
3.1. NGÔN NGỮ NHÂN VẬT : ........................................................................................ 65
T
2
T
2
3.2.NGÔN NGỮ NGƯỜI KỂ CHUYỆN: .......................................................................... 73
T
2
T
2
3.3. GIỌNG - TÌNH ĐIỆU : ............................................................................................... 79
T
2
T
2
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 84
T
2
T
2
THƯ MỤC ......................................................................................................... 87
T
2
T
2
TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN QUANG SÁNG.................................................................. 87
T
2
T
2
Sáng tác văn học: ............................................................................................................ 87
T
2
T
2
Các bài báo, bài viết: ...................................................................................................... 87
T
2
T
2
TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC: .................................................... 87
T
2
T
2
I. SÁCH LÍ LUẬN: ........................................................................................................ 87
T
2
T
2
I. TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU PHÊ BÌNH :..................................................................... 88
T
2
T
2
III. TẠP CHÍ - BÁO : ..................................................................................................... 89
T
2
T
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Kể từ tập truyện ngắn Con chim vàng (1958) cho đến nay, Nguyễn Quang Sáng
đã có đến gần bốn năm cầm bút;Trong suốt thời gian cầm bút ấy, Nguyễn Quang Sáng
đã thử ngòi bút trong nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim...Trong
mỗi thể loại, ông đều đạt được những thành công nhất định.Từ lâu, các tác phẩm của
nhà văn Nguyễn Quang Sáng được bạn đọc khắp nơi trong cả nước yêu thích.
Truyện dài Mùa gió chướng (1976) được dư luận bạn đọc trong và ngoài nước
đánh giá cao, Nhà xuất bản cầu vồng (Liên xô) ấn hành với số lượng lớn trong danh
mục “Tủ sách văn học Việt Nam (1985)”. Tác phẩm Dịng sơng thơ ấu (1984) được
tặng giải A văn học phục vụ thiếu nhi năm 1985 của Hội nhà văn Việt Nam. Mấy năm
gần đây, một số kịch bản phim truyện của nhà văn được dựng thành phim và có tiếng
vang lớn : ' Cánh đồng hoang đoạt giải Bông sen vàng liên hoan phim Việt Nam 1980,
Huy chương vàng liên hoan! phim Matxcơva 1981, Mùa gió chướng giải Bơng sen
bạc liên hoan phim Việt Nam 1980, Dịng sơng thơ ấu. Giữa dòng (1) (chuyến thể từ
truyện ngấn ‘Tên của đứa cọn’) được dựng thành phim được dư luận dành giá cao.
Tuy nhiên, thành công lớn nhất của ông có lẽ vẫn là trên lĩnh vực truyện ngắn.
Nguyễn Quang Sáng là cây bút truyện ngắn được quen thuộc từ giữa những năm sáu
mươi cho đến nay với lối viết giản dị hồn nhiên, phóng khống, giàu chất thơ, đơi khi
dí dỏm và rất hồn nhiên. Các sự kiện trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng
không rườm rà rắc rối, hay giản đơn cơng thức mà rất sinh động. Tình tiết diễn biến
lắm éo le, bất ngờ nhưng phát triển khá tự nhiên, lơ gích, cách giải quyết vấn đề linh
hoạt và đậm đà tình người.
Bản thân nhà văn cũng tâm đắc với thể loại này: “Trước nhất, tơi thích truyện
ngắn.Tôi không xem nhẹ thể loại ngắn. Về truyện ngắn tơi hiểu, tuy ngắn nhưng nó có
sức chứa đưng một thực tế vừa lớn lao,vừa bén nhọn.” ).
Sau những thành tựu trong lĩnh vực tiểu thuyết và kịch bản "phim, có người đã
hỏi Nguyễn Quang Sáng, sẽ cịn trở lại với truyện ngắn nữa hay không? Nhà văn đã
khẳng định: "Trở lại chứ ! Tôi vẫn mê truyện ngắn. Viết truyện ngắn tức là chơi bố
cục, thú lắm !" (2) Có lẽ vì vậy mà trong ba mươi năm ấy, Nguyễn Quang Sáng đã
góp với đời 7 tập truyện ngắn ?
Hai tập truyện đầu viết khi tập kết ra Bắc. Con chim vàng và Người quê hương
có thể xem là một dịp thử bút của Nguyễn Ọuang Sáng. Trở lại với chiến trường miền
Nam. Không khí ác liệt của những năm chống chống Mỹ và tinh thần của người Nam
Bộ đã tạo nêu sức sống cho ngòi bút của nhà văn. Chỉ trong một thời gian ngắn hai tập
truyện ra đời: Chiếc lược ngà (1968) Bông cẩm thạch (1969). Không gian và con
người Nam Bộ được thâu tóm lại trong hai tập truyện này với một sắc thái độc đáo,
mang: đậm chất Nam Bộ, Bước ra khỏi cuộc chiến, Nguyễn Quang Sáng lại có Người
con đi xa (1977). Bàn thờ tở cu3a một cô đào. (1985) và rồi trong cơn lốc của thời đại
con mèo của Fujita ra đời (1992).
Gắn liền với những biến thiên lịch sử, phản ánh chân thật con người-và thời đại
bằng một cách cảm nhận riêng biệt trong ý thức công dân – nghệ sĩ, nghệ sĩ - công
dân, các tập truyện củaa Nguyễn Quang Sáng đã khẳng định được một chân giá trị
cũng như một vi trí khơng nhỏ trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Nhìn chung, qua
những ý kiến đánh giá. Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng khá được đề cao.Tuy nhiên,
việc đề cao và đánh giá chưa thật thấu đáo, chưa làm nổi bật sức khái quát của ngòi
bút cũng như nghệ thuật xây dựng nhân vật, và kiểu kết cấu tạo tình huống lơi cuốn
người đọc... vốn là thế mạnh của nhà văn. Sau một loạt những ý kiến trái ngược nhau
về văn học thời chống Mỹ và rồi là những khác biệt trong cách cảm nhận về vấn đề
văn học với phán ánh hiện thực, thiết nghĩ việc "tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn
Nguyễn Quang Sáng" hẳn không phải là một việc làm vô bở. "Tìm hiểu đặc trưng
truyện ngắn Nguyễn Quang Sảng” định rõ giá trị những truyện ngắn của Nguyễn
Quang Sáng, cũng như qua đó sẽ góp phần định rõ hơn nữa giá trị của văn học thời
chống Mĩ - Văn học chống Mĩ : có minh họa?
2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ :
Trong nhang tài liệu mà chúng tơi tiếp cận, có khá nhiều ý kiến đánh giá của các
nhà nghiên cứu, nhàvăn…, về Nguyễn Quang Sáng.
Tác giả Từ điển văn học nhận định (1): "Nguyễn Quang Sáng có một phong cách
U
U
viết truyện ngắn độc đáo,..Truyện thường lắm những tình huống bất ngờ nhưng tự
nhiên, giàu chi tiết sống động và kì diệu nhưng hợp lí, tính kịch rất nổi nhưng cũng
đậm chất trữ tình.
Trong Văn học giải phóng miền Nam, Phạm Văn Sĩ ghi nhận: "Nguyễn Sáng có
U
U
thể là người được chú ý hơn hết với những truyện ngắn của anh viết về cuộc sống của
người Nam Bộ trong chiến tranh. Đó là những bức tranh khác nhau thể hiện những vẻ
đẹp khác nhau của người dân thường người cán bộ cơ sở, người chiến sĩ giải phóng...
Anh tỏ ra có tài năng, có tìm tịi trong thể loại truyện ngắn. Truyện ngắn của anh có
nhiều nhân tố tích cực đáng chú ý .Anh vận dụng khéo những xung đột mang tính
thẩm mĩ như xung đột giữa người cha (anh Sáu) và đứa con gái (Thu) trong Chiếc
U
lược ngà- xung đột giữa người mẹ và cô gái trong chuyện Bông cẩm thạch," (1).
U
U
U
Khi Đọc Chiếc lược ngà , Ngọc Trai cho rằng: "….Chiếc lược ngà làm xúc động
U
U
U
U
người đọc, có tác dụng cở vũ và nâng cao tâm hồn con người. Nguyễn Sáng là nhà
văn ngợi ca, anh ngợi ca không chỉ bằng niềm tin cách mạng mà bằng sự hiểu biết,
bằng những suy nghĩ về cuộc sống và con người miền Nam quật cường, anh dũng...(tr.
319).,. Chúng tôi vui mừng về những thành công của Nguyễn Sáng và chờ đợi những
tác phẩm mới của anh về vẻ đẹp con người và đất nước miền Nam.(tr. 326) (2).
Phong Lê đã viết về Nguyễn Quang Sáng: "ở các truyện ngắn của Nguyễn Sáng,
bên cạnh cái đột ngột ngạc nhiên, chứa nhiều tính kịch khi anh giới thiệu với ta
về Quán rượu người câm, với hình ảnh một người "bốn năm rồi tơi khơng nói không
U
U
phải tôi câm. Mà tôi im lặng! Khi anh dẫn ta vào những cuộc gặp gỡ tình cờ, rắc rối
mà xúc động giữa tình chà con, bạn bè, đồng chí như trong Chiếc lược
U
ngà (1968), Bông cẩm thạch (1969).., nhưng chất thơ niềm vui sống vẫn là nét nổi
U
U
U
đậm trong sáng tác Nguyễn Sáng khi anh kể cho ta nghe chuyện Người đàn bà Tháp
U
Mười để cho thấy: "Thời bây giờ đánh với Mĩ. người mẹ muốn nuôi con phải có súng
U
? hoặc Một chuyện vui với hình ảnh anh Bảy Ngàn, sau hai lần hút chết vì trực thăng
U
U
địch, đến bên một gốc tràm ngồi hút thuốc thở khói phì phào. Cũng xúc động là
chuyện tình u của cơ gái Khơmer Sarết bao năm trời gìn giữ chiếc áo của người yêu,
rồi từ chiếc áo cô gửi theo chồng, chuyển từ chiến trường này qua chiến trường kia,
mà dệt nên cả một câu chuyện đẹp như cở tích, khác nào câu chuyện cô gái làm ren
Natchia trong một truyện ngắn của Pautốpxki. (1).
Trong Nhà văn Việt Nam (1945 - 1975) (2) một cơng trình có giá trị, những
U
U
thành tưạ trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng được xếp ngang hàng với các "bậc
đàn anh": Kim Lân, Tơ Hồi, Hồ Phương... "nhiều truyện ngắn tập trung cô đúc, chứa
đựng một dung lượng lớn cuộc sống được dồn nén. Với những tình huống điển hình,
những chi tiết sinh động, nhiều truyện ngắn có cốt truyện hấp dẫn, xây dựng được
nhiều nhân vật và cuộc đời có số phận riêng, có tâm hồn và tình cảm tinh tế (Làng.
U
Thư nhà, Vợ chồng A Phủ. Mùa lạc,Khói. Chiếc lược ngà. Những đứa con trong gia
đình...)".
U
Vân Thanh, trong Tác giả văn xuôi Việt Nam hiện đại, đánh giá về truyện ngắn
U
U
Nguyễn Sáng: "Có thể nói nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Sáng là những con
người được vươn lên trong ánh sáng của cách mạng. Những nét u buồn khơng đọng
lâu trong con người họ. Khó khăn, mất mát, chết chóc là điều khó tránh khỏi trong
cuộc chiến đấu ác liệt này, nhưng điều đó khơng hề làm giảm lòng tin của họ vào
chiến thắng ngày mai; Niềm lạc quan và lịng tin đó tốt lên trong mọi truyện ngắn
của Nguyễn Sáng. Đó là dụng ý của tác giả. Anh muốn gieo vào lòng người đọc niềm
tin, lòng yêu đời để sống và chiến đâu. (1).
Những trang viết những nhịp cầu đã nhắc đến những nhân vật được nhiều người
U
U
ghi nhớ: "Hầu như chưa có nhân vật nào giữ được chỗ đứng lâu bền như ông Tám
trong Đất, ông Năm Hạng trong truyện ngắn cùng tên, nhưng những truyện ngắn của
anh vẫn là món ăn tinh thần được nhiều độc giả ưa chuộng với những ưu điểm vốn có
trong nghệ thuật viết truyện ngắn." Tác giả cũng nhắc đến truyện ngắn Linh Đa mang
U
U
chủ đề của cuộc đởi đời, thay đởi số phận của những con người dưới đáy xã hội miền
Nam thời Mĩ Ngụy.(2)
Trên Tạp chí Văn học các số 4 - 1969. 7 - 1969, 4 - 1974, Văn nghệ tp HCM...
có một số bài viết về Nguyễn Quang Sáng hoặc bài của chính Nguyễn Quang Sáng (
Xem phần thư mục), xin được nêu ra đây một số bài viết tiêu biểu: Nguyễn Nghiệp
trong bài viết Đất nước và con người miền Nam trong Chiếc lược ngà của Nguyễn
U
Sáng nhận định: "Toàn truyện là một bài thơ, trong đó chất hùng ca quyện chặt với
U
chất trữ tình làm một, cái trữ tình riêng của tác giả lẫn kín trong khơng khí tình cảm
khách quan của câu chuyện. Có thể nói Chiếc lược ngà là một tác phẩm trong đó bản
U
U
tính riêng của Nguyễn Sáng được bộc lộ trên khá nhiều mặt đặc sắc. (3).
Đinh Thị Bích Ngọc trong bài Hiện thực mới ở các tỉnh phía Nam sau ngày giải
U
Phóng qua mót số truyện ngắn , có nhận định : "Có truyện như Con đường đi tới của
U
U
U
Hoàng Thị Diệu, Linh Đa của Nguyễn Quang Sáng, Thị trấn của Đinh Quang Nhã đã
U
U
U
U
xây dụng một cốt truyện hoàn chỉnh với những mâu thuẫn, xung đột rõ nét, để qua
những diễn biến của sự kiện và qua hành động của nhân vật mà làm nổi rõ sự phát
triển tâm lí của nhân vật."(1).
Hồng Như Mai nhận xét cụ thể và chính xác hơn với Nguyễn Quang Sáng, nhà
U
văn của B2 : "Chỗ đặc sắc nhất của Nguyễn Quang Sáng là tính cách nhân vật.. Tiểu
U
thuyết và truyện của Nguyễn Quang Sáng về thời chống Mĩ và cả thời kì chống Pháp.
đến nay độc giã vẫn thích thú chính là vì giá trị nhân bản của nó. Qua những nhân vật
"một thuở" của Nguyễn Quang Sáng, độc giả thấy được tính cách "mn thuở" của
người miền Nam, người Nam Bộ. "(2).
Phùng Quí Nhâm trong Điều thấy thêm ở truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng đã có
U
U
những phát hiện về cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Quang Sáng : "Khi xây dựng
nhân vật anh ít chú khắc họa nội tâm, mà chủ yếu là phân tích tâm lí nhân vật, kiến
giải hành động nhân vật trước các biến cố, nhân vật thường được đặt trong các biến cố
có tính kịch, tăng tiến theo trơn ốc, để qui tụ về điểm cơ bản của tính cách." (3)
Trong một bài viết khác, Khát vọng về tình yên Thương về cái đẹp đánh giá về
U
U
tập truyện Con mèo gia Foujita. Phùng Qúi Nhâm đánh giá: "Điều nhận thấy trước
U
U
tiên là trong nguồn cảm xúc và văn mạch truyện ngắn của anh vẫn tn chảy theo
hướng chính của cảm hứng nghệ thuật: tình yêu mặn mà, sâu đậm đối với con người
và vùng đất Nam Bộ, là khát vọng về đạo lí, về nhân bản. Đặc biệt là cách tạo những
tính huống bất ngờ mà hợp lí, là tính kịch trong truyện. Phải thừa nhận Nguyễn Quang
Sáng là người viết truyện ngắn khá nhuần nhuyễn và có bản lĩnh nghề nghiệp. Hay nói
đúng hơn là anh có duyên với thể truyện ngắn. Có người cho là anh viết truyện ngắn
thật dễ dàng. Tôi không nghĩ như vậy. Đối với người sáng tạo khơng có gì là dễ dàng
cả. Ở anh, đó là một q trình sống, là một sự nghiệm trải, là một luyện công nghệ
thuật cả một đời văn. Mỗi truyện của anh là kết đọng cả tâm huyết, là sự tìm tịi về ý
tưởng, về cách thể hiện nghệ thuật. Sự định hình nghê thuật của Nguyễn Quang Sáng
chắc sẽ kết đọng ở thể truyện ngắn. Tập truyện Con mèo của Foujita là một minh
U
U
chứng cho điền ấy. Mới đọc lướt qua chắc có người chưa thích. Song nếu đọc kĩ, và
đặt nó trong văn mạch truyện ngắn của anh ta sẽ nhận ra nét độc đáo của tập truyện. Ở
nhữg tập truyện trước, ngòi bút của anh tập trung khám phá những sức mạnh ẩn tàng
của lịng u nước, lí giải sự chuyển hóa của tính cách nhân vật theo chiều hướng tích
cực. Ở tập Con mèo của Foujita nhà văn hướng sáng tạo của mình vào việc thể hiện
khát vọng về tình u thương con người, về cái đẹp…Có đủ căn cứ để nói, với tập
truyện này; Nguyễn Quang Sáng vẫn là cây bút viết truyện ngắn có bản lĩnh, bản sắc.
(1).
Nhìn chung, các tác giả của các bài viết đều nhất trí đánh giá cao truyện ngắn
của Nguyễn Quang Sáng : đặc sắc trong lựa chọn chi tiế, linh hoạt trong kiến tạo cốt
truyện, nhiều rẽ ngoặt bất ngờ, lôi cuốn, kịch tính cao nhưng cũng rất đậm màu sắc trữ
tình... cũng như sự đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Tuy được đánh giá
cao, nhung vẫn chưa có một cơng trình "dài hơi" nào về Nguyễn Quang Sáng để tìm
hiểu cũng như đánh giá thỏa đáng về ông. Một vài khóa luận tốt nghiệp của sinh viên
Ngữ văn ĐHSP TPHCM và ĐH cần Thơ chỉ dừng lại ở góc độ khao sát trên từng khía
cạnh một: phong cách Nam Bộ, nghệ thuật xây dựng nhân vật;.. Nguyễn Quang Sáng
vẫn chỉ mới được xem như là một tác giả, một người cầm bút có những tác phẩm gây
được chú ý?
Nghiên cứu một cách hệ thống và mang tính lí luận về sức khái qt của ngịi bút
Nguyễn Quang Sáng, và trọng tâm là nghiên cứu nghệ thuật xây dựng nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng thiết nghỉ là một công việc hết sức cần thiết trong
giai đoạn hiện nay. Một công việc không chỉ để chỉ rõ giá trị đích thực về những tác
phẩm của một tác giả mà cịn là góp phần làm rõ thêm sự phong phu của văn học Việt
Nam hiện đại.
3. PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Đề tài của luận văn này là " tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn của Nguyễn Quang
Sáng", tìm hiểu những truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng viết trong thời chống Mĩ
cho đến tập truyện gần đây nhất: Con mèo của Foujita. Các truyện vừa, kí, tiểu thuyết,
kịch bản phim của nhà văn được xem như tư liệu tham khảo.
Trong một tác phẩm văn học: nội dung và hình thức là hai mặt của một chỉnh thể
thống nhất. Không thể tách bạch chung một cách rõ ràng. Sự hài hòa giữa nội dung và
hình thức sẽ làm nên giá trị của một tác phẩm văn học, bởi nội dung là từ sự "chuyển
hóa " (theo cách dùng của Hegel) của hình thức.
Vậy việc nghiên cứu về Nguyễn Quang Sáng với cách nhìn mới cần được chú
trọng. Luận văn này với cơng việc khảo sát thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Quang Sáng nhằm tìm ra sự hài hịa, hợp lí của hình thức nghệ thuật mà tác
giả đã tạo dựng nên đối với những nội dung và những tư tưởng tương ứng. Như nhà
nghiên cứu Trần Đình Sử đã viết: "Việc nghiên cứu thi pháp cho phép ta hiểu đúng,
hiểu sâu tác phẩm văn học và cho ta thấy được quá trình phát triển của tư duy nghệ
thuật, đánh giá được ý nghĩa nghệ thuật của tác phẩm trong lịch sử tiến hoá của tư
duy. Đây là cách giúp ta tiếp cận tác phẩm văn học trong tính thống nhất giữa nội
dung và hình thức và kết quả là tìm hiểu nội dung một cách đích thực, khơng phải là
gán ghép.
Có nhiều con đường để đi đến việc tiếp cặn chân lí khoa học, mỗi người có một
cách đi riêng để tiếp cận chân lí, tuỳ theo sở trường của mình. Do vậy, trong giới hạn
của khả năng bản thân cịn nhiều bất cập, chúng tơi giới hạn đề tài nghiên cứu chỉ
trong việc xem xét cách thể hiện của nhà văn ở các khía cạnh : nhân vật, kết câu, ngôn
từ. Cho dù phạm vi đề tài đã được giới hạn, nhưng chắc chắn rằng việc trình bày
những suy nghĩ cùng cách lí giải vấn đề của chúng tơi, vẫn chưa thể nào tránh khỏi
những sai sót, cũng như chưa thật thấu đáo.
Luận văn này được viết theo quan điểm Mác-Lênin về văn học nghệ thuật. Do
vậy, luận văn sẽ dựa trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Trên cơ sở đó, chúng tơi vận dụng phương pháp hệ thống, theo đó các sự
vật, hiện tượng bao giờ cũng tồn tại tròog một hệ thống nhất định. Nhiệm vụ của
nghiên cứu hệ thống là tìm ra được những mối liên hệ, quan hệ và những tác động của
các hiện tượng, sự phối thuộc giữa các bộ phận, các thành tố trong một hệ thống.
Nghiên cứu thế giới nghệ thuật phải chú ý trước hết đến hệ thống các yếu tố hình thức
của tác phẩm. Nếu đem các yếu tố được xem xét một cách biệt lập tách rời khỏi hệ
thống là khơng phải nghiên cứu thi pháp, vì các yếu tố chỉ có giá trị khi nằm trong hệ
thống. Điều cần lưu ý, hệ thống phải được đặt dưới sự chiếu rọi của một quan điểm
nghệ thuật. Ngoài ra. luận văn cũng sử dụng phương pháp thống kê xem xét các yếu tố
hình ảnh, chi tiết, kết cấu... tìm xem sự "lặp lại" nghệ thuật của nhà văn với dụng ý
nghệ thuật như thế nào?
Các truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng được viết vào hai thời kì: Thời kì chống
Mĩ mang đậm cảm hứng khẳng định lãng mạn, giàu chất nhân văn. Thời kì sau giải
phóng, cam hứng khẳng định vẫn tồn tại cùng cảm hứng phê phán. Về cơ bản khơng
có nhiều thay đởi trong sáng tác của Nguyễn Quang Sáng. Do đó, khơng nhất thiết
tách thành các giai đoạn sáng tác để tìm hiểm mà chỉ nên vận dụng phương pháp lịch
sử miêu tả để tìm hiểu những dấu ấn thời đại tìm lại trong tác phẩm, một yếu tố đã tạo
nên cảm hứng sáng tác cho nhà văn. lí giải ảnh hưởng của tư tưởng thời đại tới cảm
quan nghệ thuật của nhà văn, tới quá trình chuyển biến, tự vượt lên chính mình của tác
giả để hướng tới một cách thể hiện giàu tính nhân văn hơn trong sáng tạo nghệ thuật.
Với mục đích và phương pháp nghiên cứu của luận văn như đã nêu, cấu trúc
luận văn bao gồm các phần sau:
Mở đầu
1.Lí do chọn đề tài
2.Lịch sử vấn đề
3.Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Nội dung : Gồm 4 chương
chương 1 : Cảm hứng thời đại
1.1.Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng qua các thời kì sáng tác
1.2. Dấu ấn của thời đại
chương 2 : Con người trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng
2.1. Cảm nhận về con người
2.1.1. Hình tượng người nơng dân Nam bộ
2.1.2.Hình tượng người phụ nữ
2.2.Sự thể hiện nghệ thuật về con người
2.2.1.Miêu tả ngoại hình nhân vật
2.2.2.Hành động của nhân vật
2.2.3.Biểu hiện nội tâm của nhân vật
2.3.Những thành công của Nguyễn Quang Sáng trong sự thể hiện về con người
chương 3 : Kết cấu nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng
3.1.Kết cấu tình huống truyện
3.2.Khơng gian và Thời gian nghệ thuật
chương 4 : Ngôn từ nghệ thuật.
4.1.Ngôn ngữ người kể chuyện
4.2.Ngôn ngữ nhân vật
4.3.Giọng - tình điệu
Tìm hiểu đặc trưng-truyện ngan Ngm ẻn Quang Sóng
Kết luận
PHẨN NỘI DUNG
Chương 1 : CẢM HỨNG THỜI ĐẠI
1.1. TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG SÁNG QUA CÁC THỜI KÌ
SÁNG TÁC
Nguyễn Quang Sáng sinh ngày 12 - 01 - 1932. tại làng Mĩ Luông, Chợ Mới,
Long Xuyên (An Giang). Sinh ra và lớn lên lại một làng quê bên bờ sông Tiền, miền
sông nước mênh mông của đồng bằng sông Cửu Long đối với Nguyễn Quang Sáng là
"quê hương của tuổi thơ đầy kỉ niệm". Ông tham gia cách mạng rất sớm, khi mới 14
tuổi (1946), công tác ở Ban tuyên truyền Chợ Mới. Sau đó vào bộ đội, cơng tác ở Ban
Ngụy vận Phịng chính trị Tây Nam Bộ (1950), rồi về Tòa soạn báo Văn nghệ quân
đội miền Tây (1952).
Năm 1954 ra Bắc, ông công tác tại Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam. Hội nhà
văn và làm biên tập báo Văn học. Các tác phẩm Con chim vàng (1958). Người quê
U
U
U
hương (1960), Nhật kí người ở lại (1962), Đất lửa, tập 1 (1963), Câu chuyện trên trận
U
U
U
U
U
U
địa pháo (1966) lần lượt ra đời.
U
Năm 1965, ông về Nam chiến đấu và sáng tác trong vùng đồng bằng sông Cửu
Long, miền đất ông “quen thuộc từng cây cỏ, từ con nước rịng con nước lớn, từ mùa
nước đến mùa khơ”. Lăn lộn trên chiến trường miền Tây Nam bộ, nhất là Đồng Tháp
Mười, với vốn hiểu biết sẵn có, lại chịu khó tìm tịi, phát hiện. Nguyễn Quang Sáng
càng am hiểu hơn và thông thạo cuộc sống chiến đấu của người Nam Bộ trên địa hình
sơng nước.
Đối tượng phản ánh của ông trong giai đoạn này không thể nào ngoài những
người Nam Bộ lạc quan, dũng cảm trong chiến đấu, phóng khống, trọng đạo lí, lẽ
phải trong cuộc sống : “Phải viết về cuộc sống đang diễn ra, viết về nhung con người
dũng cảm trên chiến trường đồng bằng... Những con người dũng cảm đáng yêu ấy
phải có mặt trong văn học”, và theo nhà văn "sống trong thực tế của bom đạn... phải
đánh trả lại kẻ thù từng miếng, từng nhát thật sâu.
Ông luôn tâm niệm như vậy và tập chuyện Chiếc lược ngà ra đời (1968). Sau lầu
U
U
tham gia đợt tởng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân. "chiến lợi phẩm" ông thu
lượm được trên đường chiến dịch là tập truyện Bông cẩm thạch (1969).
U
U
Năm 1975, đất nước thống nhất, những cảnh sum họp, gặp gỡ sau ngày giải
phóng trở thành một đề tài, thời sự chủ yếu. Nguyễn Quang Sáng góp vào đề tài trên
tập truyện Người con đi xa (1977), mà theo ông: cảnh gặp gỡ ở các tỉnh phía Nam sau
U
U
ngày giải phóng có nhiều khía cạnh và lắm màu sắc, chỉ dồn lại một chuyện không
thỏa, cứ thấy thèm thèm, nhưng không thể viết tiểu thuyết được, vì một cuốn tiểu
thuyết khơng thể dịng lại ở một cảnh gặp gỡ. Vì vậy ơng làm hẳn một tập gồm 7
truyện mà "ở đây, có nhiều chuyện, tơi lấy từ đời thật, chuyện làng xóm, chuyện
người thân.
Với tư cách một ngươi đã đi qua hai cuộc chiến tranh, ông viết nhiều về những
suy nghĩ, những kĩ niệm của thế hệ mình và qua đó nhắn gởi nỗi niềm, lẽ sống, bài
học đạo lí ở đời: "lớp anh chị em nhà văn đi trước, bằng sự từng trải về kinh nghiệm
của mình, vừa đến với đời sống hằng ngày, vừa có điều kiện và thời giờ để nhìn lại
những bước đường đã đi qua, nhìn lại cuộc chiến tranh... chẳng những không bị mờ đi
mà hiện rõ hơn, sâu hơn và rộng hơn". Thuộc đề tài trên là tập truyện ngắn Bàn thờ tở
U
của một cô đào (1985), vài truyện ngắn trong tập truyện trên như: Kỉ niệm một ca
U
U
khúc, Chuyện nhỏ đất Củ Chi...tập trung phản ánh cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới
U
U
U
Tây Nam, lao động xây dụng tở quốc xã hội chủ nghĩa.
Con mèo của Foujita (1992) vẫn trong nguồn cảm hứng và văn mạch chảy theo
hướng chính của cảm hứng nghệ thuật: tình u mặn mà, sâu đậm đối với con người
và vùng đất Nam Bộ, là khát vọng về đạo lí nhân bản. Đọc các truyện : Bài học tuổi
U
thơ, Người bạn lính, Con ma da, Con khỉ mồ côi, đặc biệt là hai truyện Người đàn bà
U
U
U
U
U
U
U
U
đức hạnh, Tím bằng lăng, ta bắt gặp ở đó những khát vọng của con người: con người
U
U
U
sống trong tình bạn, tình n thương. Bơric Pơlêvơi nói: "Truyện ngắn bao giờ cũng
chứa chất nhiều khát vọng lớn lao của nhân dân", nhận xét này có phần đúng với
truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng.
Có ý kiến cho rằng: "Đề tài tuy quan trọng nhưnog quan trọng hơn là việc xử lí
đề tài. Dù thuộc đề tài gì, nhân vật cũng phải là những con người sống thật, câu
chuyện phải thật với câu chuyện thật. Đã thế thì khơng thể có sự tích rời giữa con
người anh hừng và con người bình thường, giữa lao động, chiến đấu và các mặt quan
hệ khác. Có đề tài nào lại cho phép gạt bỏ những q trình tâm lí, làm ngơ trước
những tính cách, những tâm tư khác nhau? Thực ra khó khăn khơng phải ở đề tài. Nếu
khơng viết về cuộc sống của nhân dân trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong đấu
tranh giải phóng dân tộc thì cũng chẳng cịn gì đáng kể để mà viết…”
Cái riêng của Nguyễn Quang Sáng là ở đề tài nào, chủ đề nào, ông cũng khéo léo
đi vào từng mảng nhỏ của đời sống, ngịi bút của ơng ln phát hiện ra vẻ đẹp trong
cuộc sống và trong sức mạnh tinh thần của nhân vật mà sự trưởng thành, số phận của
mỗi người đều gắn với mối quan hệ riêng-chung, ngẫu nhiên và tất nhiên, giữa chất
anh hùng ca cao cả và chất thơ trong trẻo. Đối với Nguyễn Quang Sáng, cuộc sống
đầy màu sắc luôn chuyển động và đang tiếp diễn. Chính trên bối cảnh của cuộc sống
ấy nhà văn đã giúp ta đi tới khám phá một cách đúng đắn và sâu sắc về con người
Nam bộ. Đây là những con người sẵn sàng gạt bỏ những riêng tư trong cuộc đời chỉ
với mục đích cao quí nhất là được sống thanh bình tự do, sống làm sao vẫn giữ được
truyền thống nhân nghĩa thủy chung nhưng không làm mất đi tính cách ngang tàng khí
khái của người Nam bộ.
Chính vì lẽ đó mà truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng không phải là thứ trang sức
mỏng mảnh mà thời gian dể làm phai mờ. Đó là hiện thực cuộc sống tự biểu hiện
trong cái phần sâu lắng nhưng trữ tình, mãnh liệt và kì diệu.
Nhìn chung, bút pháp Nguyễn Quang Sáng thể hiện qua các truyện ngắn là một
bút pháp giàu tính trữ tình và có một tầm khái quát cao. Truyện của ông thường gợi
cho người đọc những suy nghĩ sâu lắng về các vấn đề thiết thân trong cuộc sống. Mỗi
truyện của ông như một lá thư, một lời tâm sự ông muốn gửi đến người đọc về những
suy ngẫm của ông đối với con người và cuộc sống ngày hôm qua và cả ngày hôm nay.
1.2. DẤU ẤN THỜI ĐẠI:
Tréc-nư-sép-xki có nói: “Cái đẹp chính là cuộc sống” văn học phản ánh cuộc
sống thông qua thế giới bên trong của nhà văn tức là chủ thể sáng tạo. Bởi vậy, có thể
xem tác phẩm là một thực thể mang tính chất hai nguồn : cuộc sống và con người nhà
văn, về phía sáng tác, có thể xem sáng tác văn học là sự tự thể hiện mình, một lời bộc
lộ một cam kết. Nó mang tâm huyết của nhà văn, mang tinh thần tự nguyện cao nhất.
Khơng có thế lực nào buộc nhà văn phải sáng tác, phải trực tiếp hoặc gián tiếp nói lên
những lời tự nhận, những nỗi buồn, những đau khổ, những ham muốn, những hứa hẹn
của mình bằng chính bản thân mình.
Hiện thực cuộc sống tất cả đều phải được tiếp nhận đến mức có thể chuyên hóa
thành tinh thần tự giác, thành cảm quan, thành tình cảm thì mới có sáng tác văn học
chân chính. Vì thế những u thương đau khổ; đẩy nhà văn sáng tác để biểu thị thái độ
của mình trước những sự kiện hay những vần đề nào đó xảy ra trong cuộc sống!
Nguyễn Quang Sáng trở lại với chiến trường miền Nam, theo đường dây giao
liên ông đến và bám trụ tại vùng đồng bằng. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt ở chiến
trường, Nguyễn Quang Sáng tích lũy được nhiều cho " vốn sống" của người cầm bứt.
Nhà thơ Musset trong bài Tặng bạn Edourd có viết: "Hãy đập vào trái tim anh, nơi đó
U
U
chính là thiên tài", thực tế cuộc sống chiến đấu của người dân đồng bằng đã "đập vào
con tim" của Nguyễn Quang Sáng. Ông đã : viết những trang viết những trang viết
trong bom đạn, giữa cái chết và sự sống ln kề bên. Có lẽ do vậy, mà nhà văn đã
chọn truyện ngắn, mặc dù ông rất mê tiểu thuyết?
"Tôi rất thích viết tiểu thuyết. Ngay lúc bắt đầu lên đường về chiến trường tôi đã
nghĩ đến tiểu thuyết. Nhưng khi sống trong thực tế của bom đạn, tôi nghĩ biết sống
biết chết lúc nào mà để dành, có cái gì viết cái ấy phục vụ ngay.
Nhà văn đã viết về mảnh đất mà ông thuộc tùng con nước lớn con nước ròng,
viết về những gì có thực trong cuộc đời thực, khơng tơ hồng, không bịa đặt, không
tưởng tượng...
Trong Một chuyện vui, nhà văn viết ngay sau khi nghe chuyện về một anh nông
U
U
dân một mình với cây súng đánh trả lại máy bay địch giữa mùa nước nổi. Gặp lại cha
sau bao năm xa cách, kỉ niệm về người chị tên Đàm từng chăm sóc mình khi cịn bé,
nhớ thương cảm mến thế là nhà văn xây dựng thành câu chuyện Người đàn bà Tháp
U
Mười
Mỗi chuyện của ông đều xuất phát từ những con người thật, những con người
từng gắn bó với ơng, ông đã gom góp tất cả lại trong tập Chiếc lược ngà . Phần lớn
U
U
truyện trong Chiếc lược ngà đã phản ánh một giai đoạn đấu tranh của nhân dân miền
U
U
Nam trước và sau ngày Đồng khổi. Nhà văn đã đi sâu phân tích những động lực sâu
xa tạo nên sức mạnh quật cường của nhân dân miền Nam ương hoàn cảnh khắc nghiệt
gian khó của cuộc chiến đấu chống Mĩ. Cách thể hiện những vấn đề của thời đại một
cách khéo léo cũng như bút pháp trữ tình mượt mà, nhờ vậy mà Chiếc lược ngà đã
U
U
chinh phục một cách trọn vẹn con tim và khối óc của người đọc ngay khi vừa ra đời.
Ngày nay, chiến tranh chỉ còn đọng lại trong kí ức của những người có tuổi,
chiến tranh là một khái niệm mơ hồ với những người trẻ tuổi thông qua những gì mà
họ nhận biết từ sách báo và phim ảnh... nhưng chiến tranh sẽ vẫn còn in đậm trong trí
óc con người mỗi khi lần giở lại Chiếc lược ngà. Khơng khí miền Nam trước, trong và
U
U
sau những ngày Đồng khổi hiện dần lên trước mất trong Quán rượu người câm với
U
U
những cảnh tù đày, tra tấn, khủng bố mà anh Ba Hoành là một nhân chứng sống! Hình
ảnh anh Ba Hồnh là một cán bộ cách mạng trung kiên thành người câm được miêu tả
bằng những chi tiết như huyền ảo bao phủ vỏ ngoài của nhân vật tạo dáng vẻ bí ẩn pha
chút xót xa "...vốn là người lực lưỡng, một tay phát thế nổi tiếng, ở nhà tù về anh chỉ
cịn có bộ xương, lại câm. Anh không thể cầm nỗi cái phảng được nữa. Nhưng nếu
cịn sức cầm phảng thì anh cầm phảng nữa làm gì, ba cơng đất của anh bị giật mất rồi.
Anh câm, anh hết cả sức lực, nhưng anh vẫn cịn sống, anh sống vì người vợ, vì
ba đứa con, và vì cái gì nữa ai mà biết được..." Rồi cho đến một hôm "dân làng san
bằng tất cả đồn bót bằng tiếng trống tiếng mõ, bằng những tiếng nổ lớn của pháo tre,
của khí đá. Sau khi san bằng hết đồn bót, dân làng đốt đuốc kéo nhau ra đồng, dựng
lên một khán đài cao... Trong ánh lửa hồng của hàng ngàn ngọn đuốc, người chỉ huy
hiện lên trước khán đài. Người ấy, một con người cao, gầy gò, mặc bộ bà ba màu cháo
lịng tóc bùm xúm. Đó chính là người câm của qn rượu. Anh Ba Hồnh...
... Cả làng. Mỗi người một ngọn đuốc mỗi người một thứ giọng lại dấy lên, đáp
lại lời của anh... Làng lúc nào cũng tràn trề tiếng sóng, người ta khơng nghe tiếng
sóng nữa, người ta chỉ nghe tiếng vang dội của dân làng...Hàng ngàn ngọn đuốc đang
đốt cả trời đêm".
Tất cả sức mạnh quật cường của người dân Nam bộ thể hiện tập trung ở nhân vật
Ba Hoành : nhẫn nhục chịu đựng... chỉ để chờ thời cơ là vùng lên làm cách mạng. Một
sự lí giải cho sức mạnh cách mạng cũng như con đường đến với cách mạng của nhân
dân.
Đến với cách mạng, một lịng tin theo cách mạng đó là trường hợp của ông Năm
Hạng trong truyện ngắn cùng tên hay của đôi vợ chồng già người Khơmer trong Vợ
U
chồng ông- già Sa Thét . Theo cách mạng không thiếu những gian khó hi sinh như anh
U
Ba Hồnh nhưng con người ở đồng nước này vẫn sống vui vẻ (Một chuyện vui), vẫn
U
U
yêu thương hờn giận ( Chị xã đội trưỏng) và sanh con nuôi con. Nhưng theo chị Bảy:
U
U
'Thời bây giờ đánh với Mĩ người mẹ muốn nuôi con cũng phải có súng... Và mỗi lần
nghe tiếng máy bay, sau khi điều các con vào hầm, chị mang súng chạy ra cơng sự của
mình lên đạn và chờ nó đến." (Người đàn bà Tháp Mười)
U
U
Theo cách mạng, cầm súng đánh giặc bỗng nhiên trở thành một nhu cầu không
thể thiếu được của con người trong cuộc sống. Nó đã là một công việc của nhiều thế
hệ con người trong vùng... cùng tham gia. Cô Thu - giao liên trong Chiếc lược ngà là
U
U
đại diện cho thế hệ mới của cách mạng, những con người luôn biết nén chặt đau
thương để mà sống mà chiến đấu.
"...Hình như cháu muốn khóc, mắt cháu đỏ hoe nhưng cố nén và nói:
Nếu cháu khơng lầm thì chắc bác sợ cháu buồn nên bác nói giấu cháu. Cháu biết
ba cháu đã chết rồi - Cháu chớp mắt, hai giọt lệ ứa ra, vỡ tràn đôi mắt -Cháu chịu
đựng được, bác đừng ngại, cháu nghe tin ba cháu chết đã hai năm rồi, sau đó thì cháu
xin má cháu đi giao liên...Cháu muốn nói gì nữa nhưng giọng tắt nghẹn...
Nhìn cháu tơi bỗng buột miệng nói: Thôi ba đi nghe con !
Tôi không nghe cháu đáp lại, chỉ thấy đôi môi tái nhợt của cháu mấp máy..."
(Chiếc lược ngà).
U
U
Sự khắc nghiệt của cuộc chiến đã tạo nên ý thức như thế trong mỗi con người.
Chiến tranh dạy cho người ta sớm trưởng thành hơn trong suy nghĩ, nhưng cùng chính
chiến tranh đã tạo nên khơng biết bao nhiêu là bi kịch cho mỗi con người, mỗi gia
đình. Mất mát chia li trong gia đình cơ Thu giao liên chỉ là một trong muôn vàn mất
mát của cả dân tộc trong cuộc chiến ấy. Nhưng sự tài tình của nhà văn là đã thâu tóm
được cả bi kịch thời đại trong một bi kịch của một gia đình ở đất Cù lao Giêng. Câu
chuyện đơn giản nhưng éo le qua lời kể lại của một cán bộ già tại một trạm giao liên.
Anh Sáu ba của Thu (nhân vật trong Chiếc lược ngà) một lần về thăm nhà, thăm đứa
U
U
con duy nhất từ lâu anh hằng thương nhớ nhưng chỉ mới biết mặt hịn máu của mình
qua ảnh và qua lời kể của vợ trong những lần đến thăm anh ở chiến trương miền
Đông. Nhưng bất ngờ là đứa bé lại không nhận ra anh, khơng nhận anh là cha nó, bất
chấp mọi nổ lực trong bất lực của anh Sáu.
"Suốt ngày anh chẳng đi đâu xa lúc nào cũng vỗ về con. Nhưng càng vỗ về con
bé càng đẩy anh ra. Anh mong được nghe một tiếng "ba" của con bé, nhưng con bé
chẳng bao giờ chịu gọi. Nghe mẹ nó bảo gọi ba vào ăn cơm thì nó bảo lại:-Thì má cứ
kêu đi.
Mẹ nó nổi giận, quơ đũa bếp dọa đánh, nó phải gọi nhưng lại nối trổng -Vơ ăn
cơm.
Anh Sáu vẫn ngồi im, giả vờ khơng nghe, chờ nó gọi "ba vô ăn cơm ". Con bé
cứ đứng trong bếp gọi vọng ra:
- Cơm chín rồi! - Anh cũng khơng quay lại.
Con bé bực quá quay lại mẹ và bảo: - Con kêu mà người ta không nghe.
Anh quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu và cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi
khơng khóc được nên anh phải cười vậy thơi..."
Và rồi vì giận con, anh khơng kịp suy nghĩ "... vung tay đánh vào mơng nó..." để
phải mang mãi nỗi day dứt ấy cho đến lúc chết.
Ngun nhân để bé Thu khơng nhìn anh Sáu là cha vì “Ba khơng giống cái hình
ba chụp với má...Té ra nó khơng nhận ba nó vì cái thẹo…” Và chắc là mãi về sau này
nó sẽ cịn ân hận mãi vì chuyện này? Cho dù cha con anh Sáu đã kịp nhận nhau trước
lúc chia tay. Anh Sáu đã kịp nghe tiếng "ba" mà anh hằng mong đợi.
"Chắc anh cũng muốn ơm con, hơn con, nhưng hình như cũng lại sợ nó giẫy lên
bỏ chạy, nên anh chỉ đứng nhìn nó. Anh nhìn với đơi mắt trìu mến lẫn buồn rầu. Tôi
thấy đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao. .
- Thôi! Ba đi nghe con! Anh vSáu khe khẽ nói:. ....
Nó bỗng kêu thét lên: -Ba... a.. a... ba!
Tiếng kêu của nó như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người nghe thật
xót xa. Đó là tiếng "ba" mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng "ba" như vỡ
tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xơ tới, nhanh như một con sóc, nó chạy
thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói
trong tiếng khóc:
- Ba! Khơng cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!
Cha con gặp nhau không nhận ra nhau, để rồi ân hận trong ray rứt... và không
bao giờ gặp lại nhau nữa. Tất cả vì một vết thẹo, vết tích của cuộc chiến.
Bi kịch của một gia đình mà tất cả mỗi thành viên đều là nạn nhân. Lối dẫn
chuyện theo đường xốy trơn ốc, mang dáng dấp cổ tích thần kì, cũng như cách đan
chéo giữa hiện tại và quá khứ của các tình tiết càng làm tăng vẻ éo le của câu chuyện.
Do đó, bi kịch này khơng cịn là bi kịch của gia đình anh Sáu mà đã trở thành bi kịch
của cả thời đại, bi kịch mà cả dân tộc cùng gánh chịu. Khơng có một bút lực khái qt
cao, khơng có cái tâm nhân hậu của một nghệ si lớn, không tài nào thể hiện một cách
sâu sắc và xúc động lòng người đến được như vậy!
Chỉ có điều là trong thời kì ấy, văn học vốn quen thể hiện những điều hào hùng
nên khái niệm bi kịch không được chấp nhận. Nhất là bi kịch đời thường. Người ta
thiên về tập trung khai thác hình ảnh sự trưởng thành của thế hệ trẻ trong chiến đấu
qua nhân vật Thu - khai thác cái hùng - nhiều hơn là khai thác nỗi đau như nỗi đau của
gia đình nhân vật Thu. Các nhà phê bình thường có thói quen xem xét đánh giá tác
phẩm từ góc độ vĩ mơ, nhìn từ góc độ hùng tráng nên tính nhân văn vốn rất đậm đà
như trong Chiếc lược ngà hay bị "lãng quên". Sức sống của Chiếc lược ngà -bức tranh
U
U
U
U
sinh động về đất nước và con người Nam bộ qua hai cuộc chiến - được làm nên là
chính bởi tính nhân văn ấy? Nhờ vậy mà vốn là sản phẩm của một thời đại lịch sử
nhưng Chiếc lược ngà đến nay vẫn tồn tại cho dù thời đại ấy đã lùi dần vào kí ức của
U
U
con người.
Cùng trong tinh thần phản ánh thời đại bằng "cảm nhận " của chính mình.
Nguyễn Quang Sáng đã gây ấn tượng mạnh trong lịng người đọc với Bơng cẩm thạch
U
U
trong tập truyện cứng tên. Tác giả khai thác một cách khéo léo những yếu tố ngẫu
nhiên để diễn tả xung đột trong quan hệ " địch - ta" diễn ra trong lòng mỗi người dân
Nam bộ. Cả ba Truyện: Người bạn mới quen Chị Nhung. Bông cẩm thạch đều với lối
U
U
U
U
dẫn truyện đan chéo hiện tại với quá khứ, bằng giọng kể mượt mà trữ tình. Hai
truyện: Người bạn mới quen và Chị Nhung diễn tả con đường đến với cách mạng cũng
U
U
U
U
như tinh thần chiến đấu của con người miền Nam trong lòng địch. Hai câu chuyện này
như bức tranh hoành tráng về cuộc chiến đấu chống Mĩ cứu nước trong đó Bơng cẩm
U
thạch xuất hiện như một dấu lặng, một bông hoa điểm xuyết làm cho bức tranh thêm
U
sinh động.
Câu chuyện xung đột trong gia đình giữa cơ giao liên tên Mì và người mẹ (Bơng
U
cẩm thạch) được kể trong tiếng súng của cuộc chiến càng làm tăng thêm sức hấp dẫn.
U
Câu chuyện xung đột gia đình ấy trong nền của tiếng súng càng phản ánh rõ nét sự cay
nghiệt của cuộc chiến đấu của nhân dân ta trong lòng địch. Nếu như trong Chiếc lược
U
ngà, chiến tranh đã cướp đi sự êm ấm gia đình, gây nên bi kịch của sự chia li, nhưng
U
vẫn cịn đó tình cảm gia đình, trong Bơng cẩm thạch, nghiệt ngã hơn, chiến tranh và
U
U
sự tàn bạo của kẻ thù không cịn góc nhỏ nào cho sự tồn tại của tình cảm gia đình. Cơ
Mì (Hạnh), bở nhà đi với đơi bông cẩm thạch - kỉ vật của cha - chỉ vì giận mẹ, cho
rằng mẹ đã quên mối thù về người cha bị thảm sát của cô mà đi "lấy Việt gian", Người
mẹ trong nỗi đau mất chồng, lại vì công tác không thể giải bày cùng con, nên suýt nữa
mất cả con gái. May nhờ vào sự tình cờ-đây cũng là dụng ý nghệ thuật của tác giả mọi chuyện được giải tỏa. Trong cuộc đời thực có bao nhiêu gia đình đã rời vào bi
kịch này? Có bao nhiêu trường hợp xung đột ấy được giải tỏa? Điều tác giả muốn nói
ở đây là cái giá - càng ngày càng đắt - mà con người Nam bộ phải trả bên cạnh những
mất mát đau thương khác trong cuộc chiến đấu chống Mĩ cứu nước.
Con người và cuộc sống miền Nam trong hai cuộc chiến đã trở thành một đề tài
cứ "ám ảnh" mãi Nguyễn Quang Sáng. Bước ra khỏi cuộc chiến, trước bao bề bộn của
cuộc sống mới vậy mà đề tài ấy vẫn xuất hiện thường xuyên trong các truyện ngắn của
nhà văn. Bảy truyện trong Người con đi xa có đến 5 truyện viết về đề tài này: Bạn
U
U
U
hàng xóm, Đồng chí già trở về, Người con đi xa, Dấu chân, Sự tích một bài ca.
U
U
U
U
U
U
U
U
U
Truyện Hạnh viết về con người và cuộc sống vùng kinh tế mới. -Linh Đa, câu chuyện
U
U
U
U
về một cô gái nạn nhân của chiến tranh trở lại với cuộc sống đời thường sau chiến
tranh, cũng lồng trong đó là chuyện của chiến tranh quá khứ nhiều hơn chuyện cuộc
sống hiện tại.
Viết về cuộc sống hôm qua trong chiến tranh, Nguyễn Quang Sáng viết trong sự
hoài niệm trân trọng. Viết về một điều dường như đã là một phần cuộc sống bản thân,
nên có thể cảm thấy được tất cả tâm huyết, tất cả những trăn trở của nhà văn. Bạn
U
hàng xóm và Người con đi xa là hai truyện nổi bật trong cảm hứng này.
U
U
U
Bàn tha tổ của một cơ đào, tất cả có 9 truyện và 1 bút kí. Trong đó 2 truyện cũ là
U
U
: Bạn hàng xóm và Dấu chân, 7 truyện mới lại có đến 3 truyện về con người và cuộc
U
U
U
U
chiến hơm qua: Tên của đứa con, Kỉ niệm một ca khúc, Người bạn gái, Cuộc sống
U
U
U
U
U
U
hiện tại được đề cập đến trong: Bàn thờ tổ của một cô đào, Đứa bé bị đi xa, Cơ gái
U
U
U
U
U
thích soi gương, Chuyện nhỏ đất Củ Chi vẫn có vẻ như cịn hơi "mỏng" và tác giả còn
U
U
U
đứng bên lề cuộc sống, Tác giả dường như vẫn chưa hòa nhập được vào cuộc sống
hiện tại bởi kí ức về một thời chiến tranh cứ day dứt mãi trong ơng; Có thể tìm thấy
tâm trạng "hồi cổ" này của tác giả qua tâm trạng nhân vật Quỳnh Anh trong Người
U
bạn gái:
U
"Tám năm qua,tôi chưa nghe một bạn nào gặp lại Quỳnh Anh ở thành phố'. Tính
lại thì Quỳnh Anh đã trên ba mươi rồi. Chưa nghe ai nổi em nghĩ đến ai. vẫn vậy một
mình, miệt mài với cởng việc. Và vẫn như xưa, vẫn chiếc áo dài màu khói lam với
chiếc khăn quàng màu hương khói, cơ bạn nói. Quỳnh Anh vẫn nghĩ đến anh Sĩ nên
chưa muốn nghĩ đến một người nào khác. Lòng chung thủy và tinh thần cao cả của
Quỳnh Anh khiến cho chúng tơi cảm phục đến xốn xang”.
Nói như Nguyễn Minh Châu: " Viết về chiến tranh... mấy tiếng đó không chỉ đơn
thuần là chuyện một đề tài văn chương mà cịn có gì đây? Có máu thịt của mình. Kẻ
cịn sống và người đã chết. Có kỉ niệm đồng đội đồng chí mình. Có cuộc đời mình,
cuộc đời dân tộc." .
Viết về chiến tranh và vẫn mãi bị chiến tranh "ám ảnh " là vẫn còn nặng nợ đối
với quá khứ. Dường như Nguyễn Quang Sáng cũng cùng chung "căn bệnh" với
Nguyễn Minh Châu ..
Đến Con mèo của Foujita có 9 truyện, hiện thực cuộc sống hôm nay đã xuất hiện
U
U
đầy ắp trong các trang viết của nhà văn. Bảy trong chín truyện là: mhững vấn đề của
đời thường của hiện tại, Hai truyện trong đó có bóng dáng của cuộc chiến trong quá
khứ.: Người bạn lính và Tím bằng lăng. Nhưng chủ yếu là mượn chuyện xưa để luận
U
U
U
U
bàn chuyện đời nay. Những khía cạnh của đời thường được nhà văn đưa vào trang viết
trong sự trăn trở về cái đẹp, cái thuần khiết (Con mèo của Foujita, Người đàn bà đức
U
U
U
hạnh, Tím bằng lăng…), trăn trở và suy ngẫm về lẽ sống ở đời, về cái thiện và cái
U
U
U
ác...(Con ma da, Con khỉ mồ cơi) về chần lí... (Con chim qn tiếng hót, Đạo
U
U
U
U
U
U
U
Tưởng, Bài học tuổi thơ). Ngay cả hai truyện hồi ức chiến tranh : Tím bằng
U
U
U
U
lăng, Người bạn lính cũng tràn đầy những suy nghĩ về lí tưởng về lòng chung thủy…
U
U
U
những điều xem như cao siêu và xa với khá đông người trong thời buổi "kinh tế thị
trường " hiện tại.
Nguyễn Quang Sáng có ba mươi năm lăn lộn trong chiến tranh và chỉ mới có hai
mươi năm sống giữa cuộc sống không tiếng súng. Thật dễ hiểu vì sao những trang viết
của ơng ln mang đậm bóng dáng của con người và khơng khí của cuộc chiến. Tuy
nhiên khơng phải vì vậy, cuộc sống đời thường trong trang viết của ông kém đi phần
sinh động, Bao giờ đung lượng đời thường cùng vẫn luôn ngồn ngộn trong trang viết
của ông. Truyện Con mèo của Foujita lâu nay được dư luận chủ ý và đánh giá cao bởi
U
U
cách cảm nhận sắc sảo cuộc sống, cuộc sống với những đòi hỏi về hưởng thụ trần tục
cũng như hưởng thụ cái đẹp tinh thần. Những vấn đề bức xúc của thời đại hôm nay
được thể hiện một cách thật dung dị, trong bút pháp quen thuộc của nhà văn.
Từ Chiếc lược ngà đến Con mèo của Foujita, 5 tập truyện, lúc nào trong những
U
U
U
U
trang viết của Nguyễn Quang Sáng cùng ăm ắp những sự kiện của thời đại. Thời đại
lưu dấu ấn khá rõ nét qua từng viết. Khơng khí thời đại và con người trong thời chống
Mĩ đã tạo nên cảm hứng sáng tác cho nhà văn. Nhà văn đã tập trung phản ánh những
vấn đề của hiện thực cuộc sống. Nhưng ít nhiều trong cách phản ánh hiện thực của
ơng có khác với cách viết chung lúc bấy giờ là thiên về phản ánh hiện thực lớn, chú
trọng nhiều đến mục tiêu phục vụ cho cuộc chiến đấu hơn là đề cập đến những khía
cạnh của đời thường đến thân phận con người. Không phải lúc nào Nguyễn Quang
Sáng cũng tránh được những hạn chế như trên trong cách phản ánh hiện thực, thậm
chí mãi đến gần đây trong những truyện như : Hạnh (Người con đi xa) hay Chuyện
U
U
U
U
U
nhỏ đất Củ Chi (Bàn thờ tổ của một cô đào) cách viết trên vẫn tồn tại. Nhưng hầu hết
U
U
U
truyện ngắn của ông đều viết với góc độ cảm nhận trên tinh thần nhân văn, trên góc độ
đời thường (Chiếc lược ngà, Bơng cẩm thạch, Con gà trống, Bạn hàng xóm, Người
U
U
U
U
U
U
U
U
U
đàn bà đức hạnh, Người bạn lính...) mà phản ánh. Có thể nói những vấn đề của thời
U
U
U
đại là nguồn cảm hứng cho Nguyễn Quang Sáng. Thời đại trong trang viết của ông là
thời đại trong cảm nhận của một nghệ sĩ - công dân, một công dân - nghệ sĩ . Sự trở lại
trăn trở mãi với những đề tài của cuộc chiến hôm qua, cũng như những suy nghĩ day
dứt về cuộc sống hôm nay trong sáng tác của nhà văn là một bằng chứng.
Truyện ngắn là trình bày ngắn gọn một yến đề, nhưng thông điệp gửi đến người
đọc vẫn mang đầy đủ ý nghĩa và giá trị thuyết phục như bất cứ thể loại nào khác. Hiệu
quả của nó trong việc đảm nhận chức năng của văn học đối với con người và đời sống
vẫn được bảo đảm. Vì thế tniyện ngắn có những đặc trưng rất riêng của thể loại, yêu
cầu cao đối với người sáng tác. Một số nhà văn viết truyện ngắn khá thành công đã có
nhận xét về thể loại này. "Một truyện ngắn hay như một thứ quả có nhiều vỏ, ln
ln làm đứa trẻ háu ăn bị "nhờ tàu ". Mỗi lần bóc ra một lớp vỏ, người đọc thở phào
thế là xong truyện, chắc là khơng phải chờ đợi gì nữa, thì một lớp vỏ khác lại hiện ra".
Hiện thực trong truyện ngắn chỉ là "một khoảnh khấc trong cuộc đời một con người
mà dựng lên" nên " viết truyện ngắn là nhận lấy việc chạm trổ một cái khay, một tấm
tranh khắc gỗ".
Với đặc trưng riêng của truyện ngắn như vậy, nên nhà văn muốn chiếm lĩnh
được thể loại văn học địi hỏi sự hồn thiện này, phải nắm bắt vấn đề một cách thấu
đáo để có thể phản ánh, miêu tả cơ đọng tập trung, khơng có chi tiết thừa, ý lỗng.
Truyện ngắn như vậy, địi hỏi nhà văn tài năng lựa chọn, không ôm đồm tham lam tất
cả các chi tiết và chi tiết đưa vào phải được chắt lọc thấm đượm chất trí tuệ.
Thực tế sáng tác của Nguyễn Quang Sáng trong thể loại truyện ngắn là một đóng
góp rất đáng trân trọng cho bộ phận văn học thời chống Mĩ và nền văn học Việt Nam
hiện đại.
Chương 2. CON NGƯỜI TRONG TRUYỆN NGẤN NGUYỄN
QUANG SÁNG
2.1. SỰ CẢM NHẬN VỀ CON NGƯỜI
Con người là một sản phẩm tuyệt vời, đẹp đẽ nhất của tạo hóa. Các nhà văn ở
mọi thời đại đều hướng ngịi bút của mình vào đối tượng con người để phản ánh,
khám phá. Trong dòng chảy của cuộc sống, con người đã và sẽ hịa nhập vào đó với cả
"những niềm vui và những nỗi buồn, được và mất, thành công và thất bại diễn ra trên
bối cảnh những vấn đề của xã hội" 1. Con người không thể tách ra khỏi lịch sử, thời đại
F
8
P
P
mà mình đang sống. Dấu ấn của đời sống, của lịch sử chạm khắc sắc nét lên số phận
con người: "số phận cá nhân gắn với số phận của dân tộc như hai mặt của một tờ giấy
"2
F
9
P
P
Một trong những chức năng của văn học là phản ánh cuộc sống. Trung tâm của
bức tranh cuộc sống là con người. Con người từ bao đời nay và mãi mãi về sau nữa là
đối tượng nhận thức chủ yếu của văn học, vừa là cái đích để sáng tạo văn học hướng
tới. Văn học với đặc trưng riêng của nó, có khả năng đi sâu vào thế giới tâm hồn
huyền diệu, phong phú và bí ẩn của con người bằng những hình tượng, hình ảnh, âm
điệu nhằm mục đích nhân đạo hóa con người. Trên cuộc đời này khơng; có gì cao q
hơn giá trị con người, vì vậy nền văn học nào biết quan tâm đến hạnh phúc, số phận.
niềm đau của con người đó là thể hiện chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc.
Tsinghiz Aitmatov, Nhà văn, lương tâm của thịi đại, Trích 'Nhà văn bàn về nhà văn, Hội VHNT
QNĐN, 1983, tr. 32.
2
Phong Lê. Văn học Việt Nam và đề tài chiến tranh. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 8 ,1984.
1