Tải bản đầy đủ (.pdf) (243 trang)

Truyện dân gian an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 243 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM BỊN NĂM

TRUYỆN DÂN GIAN AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
Tiến sĩ HỒ QUỐC HÙNG

Thành phố Hồ Chí Minh - 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM BỊN NĂM

TRUYỆN DÂN GIAN AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
Tiến sĩ HỒ QUỐC HÙNG

Thành phố Hồ Chí Minh - 2011


LỜI CÁM ƠN


Để hồn thành q trình học tập, hồn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ
của rất nhiều người.
Trước hết, tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến Ban giám hiệu, Phòng Khoa học Cơng
nghệ - Sau đại học, tồn thể q thầy cơ đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi được học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Thứ nữa, luận văn này có nội dung liên quan đến địa phương An Giang, nên tôi cũng đã
nhận từ mảnh đất này nhiều sự giúp đỡ chân thành và hết sức quý giá. Đó là sự giúp đỡ của các
cán bộ của Thư viện Tỉnh An Giang trong q trình tơi nghiên cứu tài liệu tại đây; sự giúp đỡ
nhiệt tình của các cá nhân trong q trình tơi thực hiện điền dã…
Đặc biệt nhất, tôi xin mãi tri ân Tiến sĩ Hồ Quốc Hùng, người hướng dẫn khoa học cho
luận văn này. Thầy đã làm việc với tinh thần hết sức nghiêm túc, tận tình và chu đáo. Có thể
nói, thầy là người đầu tiên hướng dẫn tôi phương pháp nghiên cứu khoa học.
Cuối cùng, đó là những người thân trong gia đình tơi. Gần nhất là người bạn đời của tôi
đã phải vất vả vừa công tác vừa chăm sóc hai con thơ của chúng tơi trong suốt thời gian tơi đi
học cũng như thời gian hồn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 11 năm 2011.


MỤC LỤC
LỜI CÁM ƠN ..................................................................................................3
MỤC LỤC ........................................................................................................4
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................6
1. Lý do chọn đề tài - mục đích nghiên cứu ....................................................................... 6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.............................................................................................. 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 9
4. Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................................................... 10
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 10
6. Đóng góp mới của luận văn.......................................................................................... 12
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................................... 12


Chương 1 :KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI VÀ VĂN HÓA
AN GIANG .....................................................................................................14
1.1. Đặc điểm vùng đất An Giang ................................................................................... 14
1.1.1. Về địa giới ..................................................................................................................... 14
1.1.2 Về địa mạo vùng đất An Giang hiện nay ....................................................................... 16

1.2 Đặc điểm về dân cư, con người An Giang ................................................................. 23
1.3. Đặc điểm về văn hóa An Giang ................................................................................ 31
1.3.1. Vài nét khái quát: .......................................................................................................... 31
1.3.2. Văn hoá Việt - sự kế thừa văn hố từ vùng đồng bằng sơng Hồng. ............................. 32
1.3.3. Sự giao lưu văn hóa trên địa bàn An Giang .................................................................. 36

Chương 2: TÌNH HÌNH TƯ LIỆU VÀ PHÂN LOẠI TRUYỆN DÂN
GIAN AN GIANG .........................................................................................39
2.1 Tình hình tư liệu ......................................................................................................... 39
2.2. Cơ cấu thể loại ........................................................................................................... 43
2.2.1.Về phân loại: .................................................................................................................. 43
2.2.2.Thống kê số lượng tác phẩm ở các thể loại của hai cơng trình Văn học dân gian An
Giang và Văn học dân gian Châu Đốc .................................................................................... 43
2.2.3. Nhận xét về sự phân loại, số lượng tác phẩm truyện dân gian của hai cơng trình Văn
học dân gian An Giang và Văn học dân gian Châu Đốc ........................................................ 44

2.3. Đề xuất cách phân loại truyện dân gian An Giang.................................................... 49


2.3.1. Cơ sở lý thuyết để phân loại truyện dân gian ............................................................... 49
2.3.2. Các thể loại của truyện dân gian An Giang .................................................................. 50
2.3.3. Nhận xét về mức độ đậm nhạt của các thể loại truyện dân gian An Giang .................. 51


2.4. Cách phân loại của thể loại truyền thuyết An Giang ................................................ 54
2.4.1. Lí thuyết phân loại thể loại truyền thuyết: .................................................................... 54
2.4.2. Cách phân loại và số lượng văn bản của thể loại truyền thuyết An Giang:.................. 58

Chương 3: ĐẶC TRƯNG VÀ ĐẶC ĐIỂM VỀ KẾT CẤU CỦA
TRUYỀN THUYẾT AN GIANG.................................................................61
3.1. Đặc trưng của truyền thuyết An Giang ..................................................................... 61
3.1.1. Truyền thuyết An Giang gắn với quá trình con người chinh phục thiên nhiên trên vùng
đất mới. ................................................................................................................................... 61
3.1.2. Truyền thuyết An Giang gắn với lịch sử đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài trên
mảnh đất An Giang. ................................................................................................................ 63
3.1.3. Truyền thuyết An Giang là truyền thuyết có mối liên hệ mật thiết với các tôn giáo, lễ
hội của địa phương .................................................................................................................. 66

3.2. Đặc điểm về kết cấu của truyền thuyết An Giang ..................................................... 71
3.2.1. Cốt truyện...................................................................................................................... 71
3.2.2. Nhân vật: ....................................................................................................................... 95

KẾT LUẬN ..................................................................................................121
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................123
PHỤ LỤC .....................................................................................................133


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài - mục đích nghiên cứu
Được thiên nhiên ban tặng “Thất Sơn huyền bí”, và là “thánh địa” của văn hóa Ĩc Eo, có
thể nói, An Giang là đất “địa linh nhân kiệt” của đồng bằng sông Cửu Long cũng như của cả
nước. Nơi đây cũng là vùng đất được xem là mặt bằng lý tưởng xuất hiện các tôn giáo cứu thế
bản địa miền Nam, là nơi sản sinh những danh nhân văn hóa của địa phương, là điểm dừng

chân của các danh nhân văn hóa, các sĩ phu yêu nước, các anh hùng hảo hán…từ nơi khác.
Ngồi núi cao, An Giang cịn có sơng sâu. Đó là hai con sơng lớn của vùng đồng bằng sông
Cửu Long chảy qua: sông Tiền và sông Hậu. Hai con sông này, bên cạnh những giá trị khác, giá
trị nổi bật nhất là con đường lưu thơng quan trọng nhất để hình thành, gắn kết văn hóa, văn học,
lịch sử… của địa phương với cả Nam Bộ và rộng hơn nữa là cả nước. Chưa hết, đây còn là nơi
hội tụ đầy đủ nhất của bốn tộc người chủ yếu Kinh, Hoa, Khmer, Chăm của vùng đồng bằng
sông Cửu Long…Mỗi dân tộc nơi đây, cũng như các dân tộc anh em khác, là mỗi bông hoa tươi
thắm nhất, góp phần tơ điểm cho vườn hoa văn hóa, trong đó có văn học dân gian, của dân tộc
Việt … Tất cả góp phần tạo nên một An Giang đa dạng về dân tộc, văn hóa, văn học, tơn
giáo… Đúng là đất “địa linh nhân kiệt”. Điều đó ít nhiều phản ảnh được chiều sâu văn hóa của
vùng An Giang. Nó tác động vào văn học dân gian An Giang, tạo nên gương mặt phong phú, đa
dạng. Dù vậy, để có cái nhìn tồn diện, khái qt về diện mạo văn học dân gian của An Giang,
đến nay, hầu như cịn rất ít những cơng trình nghiên cứu, đặc biệt là các cơng trình mang tính
tổng luận, khái quát về cơ cấu, thể loại văn học dân gian. Có thể nói, các tác phẩm văn học dân
gian của An Giang cịn rải rác đâu đó trong quần chúng, hoặc đã được ghi chép lại một cách lẻ
tẻ trong các cơng trình sưu tầm chung. Nhận thức được thực tiễn đó, chúng tơi nhận thấy việc
tập hợp các tác phẩm văn học dân gian có trong các cơng trình, và sưu tầm thêm trong dân gian,
sau đó phân loại, hệ thống lại, đánh giá, khái quát …là những đòi hỏi hết sức cần thiết, cấp
bách. Cụ thể hơn, chúng tôi đi sâu nghiên cứu phần truyện dân gian, trước hết là góp phần bổ
sung thêm cách nhìn, cách đánh giá về diện mạo văn học dân gian An Giang. Đấy là lí do của
việc chọn đề tài cho luận văn này.


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có thể nói cơng tác sưu tầm về văn học dân gian An Giang từ trước đến nay phát triển
rất chậm. Về lĩnh vực sưu tầm, trước đây, nếu có sưu tầm riêng biệt về tác phẩm truyện của An
Giang thì cũng chỉ là những cơng trình nhỏ, sưu tầm ở phạm vi hẹp, số lượng văn bản khơng
nhiều. Gần đây nhất, có vài cơng trình sưu tầm có qui mơ khá lớn, tồn diện. Cịn ở phạm vi
rộng hơn, có nhiều cơng trình sưu tầm, mà trong đó, số lượng tác phẩm truyện của An Giang lại
không nhiều. Chúng tôi xin phác thảo sơ lược lại các cơng trình đó.

2.1.Về tư liệu sưu tầm:
- Có khá nhiều cơng trình. Đó là Nam kỳ cố sự - Truyện kể dân gian Nam Bộ, Nguyễn
Hữu Hiếu (Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1987), Giai thoại dân gian Đồng Tháp
Mười, Nguyễn Hữu Hiếu, (Nhà xuất bản Đồng Tháp, 1988), Chuyện xưa tích cũ, Sơn Nam và
Tơ Nguyệt Đình, 3 tập, (Nhà xuất bản trẻ, 1993), Nghìn năm bia miệng, Huỳnh Ngọc Trảng và
Trương Ngọc Tường, (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1993), Văn học dân gian đồng
bằng sông Cửu Long, Nhiều tác giả, (Nhà xuất bản giáo dục, 1997), Huyền thoại miệt vườn,
Nguyễn Phương Thảo, (Nhà xuất bản Văn hóa – Thơng tin, 1994), Chuyện kể địa danh, Vũ
Ngọc Khánh, (Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội, 2000), Tổng tập văn học dân gian người
Việt, Truyền thuyết dân gian người Việt, Tập 4 và 5, Viện Khoa học Xã hội, (Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, 2004)…
Qua khảo sát các cơng trình trên, chúng tơi nhận thấy hầu hết các cơng trình đều viết hai
phần: phần tổng thuật và phần tác phẩm. Trong phần tác phẩm, các cơng trình tập trung sưu tầm
mảng truyện dân gian, còn mảng thơ ca dân gian chỉ có duy nhất trong cơng trình Văn học dân
gian đồng bằng sông Cửu Long, Nhiều tác giả, (Nhà xuất bản giáo dục, 1997). Các cơng trình
cịn lại, chẳng hạn, Nam kỳ cố sự - Truyện kể dân gian Nam Bộ, tác giả sưu tầm những truyện
kể gắn với vùng đất Nam Bộ, Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long sưu tầm một số
thể loại truyện dân gian của vùng đồng bằng sông Cửu Long bên cạnh mảng thơ ca dân gian,
Huyền thoại miệt vườn sưu tầm một số thể loại truyện dân gian của các dân tộc tiêu biểu của
vùng đất Nam Bộ… Rộng hơn, Chuyện kể địa danh sưu tầm hầu hết các truyện địa danh tiêu
biểu của cả nước.
- Sưu tầm về văn học dân gian An Giang, tiêu biểu nhất có lẽ là cơng trình Văn học dân
gian An Giang, Huỳnh Cơng Tín (Cơng trình đã được nghiệm thu năm 2007, chưa in thành


sách). Đây có thể xem là cơng trình đầu tiên sưu tầm một cách đầy đủ, có hệ thống về văn học
dân gian An Giang. Chỉ riêng mảng truyện dân gian, cơng trình này đã tập hợp được 542 văn
bản chính và 180 dị bản ở các thể loại. Ngồi ra, đề tài còn sưu tầm được tập ảnh hơn 50 tác
phẩm phản ánh các sinh hoạt nổi bật về sản xuất, đời sống, chiến đấu, văn hóa, xã hội... trong
lịch sử hình thành và phát triển vùng đất An Giang. Song song với cơng trình này, trong q

trình thực hiện đề tài, chúng tôi tiếp nhận thêm một công trình khác của tác giả Nguyễn Ngọc
Quang sưu tầm về văn học dân gian An Giang với tiêu đề Văn học dân gian Châu Đốc. Đây
cũng là một cơng trình khá đầy đủ, toàn diện về diện mạo văn học dân gian An Giang. Về
mảng truyện dân gian, cơng trình đã sưu tầm được số lượng 211 truyện chính, 16 dị bản, khảo
dị.
- Ngồi hai cơng trình có thể nói là tiêu biểu trên, trước đây, đã có nhiều cơng trình khác
sưu tầm về văn học dân gian An Giang, nhưng chủ yếu là truyện dân gian. Đáng kể nhất có thể
kể là: Kì tích núi Sam (4 tập), Liêm Châu, (Nhà xuất bản Mũi Cà Mau – Hội văn nghệ Châu
Đốc, 1999), Mười đỉnh núi thiêng, Liêm Châu, (Văn nghệ Châu Đốc, 1997), Thất Sơn truyền
kỳ, Liêm Châu, (Văn nghệ Châu Đốc, 1994), 48 giờ vòng quanh núi Sam, Trịnh Bửu Hoài,
(Văn nghệ Châu Đốc, 1994), Truyền thuyết cồn Tiên, Trình Minh, (Văn nghệ Châu Đốc,
1996), Văn học dân gian An Giang và những tư liệu mới , Nguyễn Hữu Hiệp, (2007). Bên
cạnh đó, văn học dân gian An Giang cịn xuất hiện trong các cơng trình khác, nhưng không phải
chuyên về sưu tầm văn học dân gian, như: Thất Sơn mầu nhiệm, Dật Sĩ và Nguyễn Văn Hầu,
(Nhà xuất bản Từ Tâm 1972)…
2.2. Về tư liệu nghiên cứu
- Đáng kể nhất là cơng trình Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ, Nguyễn Văn Hầu
viết từ trước 1975, (Nhà xuất bản trẻ, 2004). Cơng trình gồm 2 tập, mỗi tập 5 chương. Đây là
cơng trình được đánh giá là có sự nghiên cứu cơng phu, tỉ mỉ, khái quát được một cách cơ bản
quá trình hình thành và phát triển của văn học dân gian Nam Bộ, giúp chúng ta hình dung được
diện mạo của văn học dân gian cũng như những đặc điểm về lịch sử, văn hóa, xã hội…của vùng
đất Nam Bộ trong hơn 300 năm qua.
- Đến thời điểm thực hiện đề tài này, có một số cơng trình khác nghiên cứu diện mạo văn
học dân gian Nam Bộ, trong đó có khảo sát qua một số tác phẩm văn học dân gian của An
Giang.


+ Đáng kể nhất là luận văn Thạc sĩ Bước đầu tìm hiểu truyện kể dân gian về các địa
danh ở Nam Bộ của Trần Tùng Chinh (2000). Trong luận văn, tác giả đã tập hợp được 95
truyện kể địa danh liên quan đến vùng đất Nam Bộ, trong đó có 15 truyện kể liên quan đến con

người, vùng đất An Giang. Qua kết quả nghiên cứu, luận văn này đã khái quát được những đặc
diểm cơ bản về cốt truyện, nhân vật, thời gian, không gian của truyện kể địa danh Nam Bộ. Đây
là đóng sự góp rất lớn của luận văn đối với văn học dân gian Nam Bộ nói riêng, văn học cả
nước nói chung. Tuy vậy, phạm vi nghiên cứu của luận văn là chỉ giới hạn ở bộ phận truyện kể
địa danh, chưa bao quát hết các thể loại truyện dân gian Nam Bộ.
+ Luận án Tiến sĩ Truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở
Nam Bộ (1858 – 1918) của Võ Phúc Châu (2010). Trong luận án này, tác giả tập hợp đươc 101
truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918), trong
đó, có đề cập đến một nhóm truyện truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa vùng Thất Sơn với 4
truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa của Đức Cố Quản Trần Văn Thành (Bửu Sơn Kỳ Hương), 5
truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa của Đức Bổn Sư Ngô Lợi (Tứ Ân Hiếu Nghĩa). Đóng góp
quan trọng nhất của luận án là sưu tầm, biên soạn được 101 truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa
chống Pháp từ 1858 đến 1918; khảo sát, hệ thống hóa và miêu tả 25 motif tiêu biểu, theo 6
nhóm motif của hệ thống truyền thuyết trong luận án…Đây được xem là những đóng góp hết
sức nổi bật của luận án đối với văn học dân gian Nam Bộ cũng như của cả nước. Tuy nhiên, vì
khảo sát của luận án chỉ giới hạn trong thời gian từ 1858 đến 1918 nên một số truyền thuyết
trước và sau giai đoạn này chưa được khảo sát. Mặc khác, thể loại mà luận án hướng đến chỉ là
truyền thuyết, nên chưa bao quát hết các thể loại của truyện dân gian Nam Bộ…
+ Ngồi ra, chúng tơi cũng tìm thấy được một số luận văn liên quan đến hai trong số ba
dân tộc anh em sống trên địa bàn An Giang. Đó là Luận án Tiến sĩ Khảo sát truyện cổ dân tộc
Chăm của Nguyễn Thị Thu Vân (2005) và Luận văn Thạc sĩ Khảo sát nguồn truyện dân gian
Khmer Nam Bộ của Nguyễn Thị Như Ngun (2006). Cả hai cơng trình này đã giúp chúng tôi
hiểu được một cách khá sâu sắc về văn hóa hai dân tộc Khmer và Chăm, mà đặc biệt nhất là
văn học dân gian.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là truyện dân gian An Giang. Trong phạm vi đề tài,
chúng tôi chỉ nghiên cứu mảng truyện dân gian của người Việt. Trong luận văn, chúng tôi chú



trọng sắp xếp, phân loại hoàn chỉnh, phù hợp kho tàng truyện dân gian của người Việt. Từ kết
quả sắp xếp, phân loại, chúng tôi tiến hành khảo sát về đặc trưng và đặc điểm kết cấu của
truyện dân gian An Giang.

4. Mục tiêu nghiên cứu
Với đề tài này, một đề tài có tính chất “khai phá” mảnh đất truyện dân gian An Giang
phong phú nhưng không kém phần phức tạp, chúng tôi xác định mục tiêu nghiên cứu như sau:
- Bước đầu khảo sát, phân loại truyện dân gian An Giang trên cơ sở lý thuyết phân loại
phổ biến và theo quan điểm nghiên cứu của chúng tôi. Với chúng tôi, đây là mục tiêu phức tạp
nhất mà chúng tôi phải thực hiện. Ý thức được những vấn đề này, trong khi thực hiện mục tiêu
này, chúng tôi sẽ tiến hành công việc hết sức thận trọng và khoa học. Trong q trình khảo sát
các cơng trình sưu tầm, chúng tôi lưu ý đến vấn đề nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. Quan điểm
nhất quán của chúng tôi trong mục tiêu này là chỉ chọn những truyện dân gian sản sinh, hình
thành từ vùng đất An Giang làm đối tượng khảo sát. Cịn hệ thống tác phẩm có tính chất tồn tại
trên mảnh đất An Giang do quá trình giao lưu, nhưng chưa xác định được nguồn gốc hay có
nguồn gốc từ nơi khác thì chúng tơi khơng khảo sát. Để khoa học hơn, chúng tôi sẽ đưa ra tiêu
chí để khảo sát. Ở đây, luận văn tập trung mô tả về cơ cấu, các thể loại truyện dân gian…
- Sau khi khảo sát số lượng, phân loại một cách có hệ thống đối với truyện dân gian,
chúng tơi tiến hành tìm hiểu một số đặc trưng và đặc điểm kết cấu của truyện dân gian An
Giang.

5. Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp loại hình lịch sử
Văn học nói chung, văn học dân gian nói riêng, ln có mối quan hệ mật thiết với lịch
sử. Cho nên, sử dụng phương pháp loại hình lịch sử trong đề tài này là hết sức cần thiết. Với
phương pháp này, chúng tơi sẽ tìm hiểu các thể loại của văn học dân gian qua sự vận động của
chúng trong các thời kì lịch sử khác nhau.
5.2. Phương pháp phân loại, hệ thống
5.2.1.Phân loại các tác phẩm đã được tập hợp, lựa chọn, sưu tầm theo những tiêu chí cụ

thể, qua đó giới hạn phạm vi nghiên cứu và đối tượng khảo sát.


5.2.2. Sắp xếp các tác phẩm sau khi đã phân loại vào từng nhóm truyện khác nhau, từ đó
giúp cho việc tìm ra mơ hình cốt truyện, hệ thống nhân vật ở các nhóm truyện một cách thuận
lợi, khoa học.

5.3. Phương pháp thống kê, miêu tả
5.3.1.Thống kê nhằm tạo tiền đề để kết luận có khoa học. Sau khi tập hợp, lựa chọn, sưu
tầm, chúng tôi thống kê các tác phẩm qua các số liệu cụ thể, để từ đó làm căn cứ khẳng định
cho một số vấn đề quan trọng của luận văn.
5.3.2. Chúng tôi miêu tả kết cấu, nội dung chính… của các tác phẩm, từ đó làm cơ sở
cho việc kết luận một số vấn đề chung của truyện dân gian An Giang, tiêu biểu nhất là thể loại
truyền thuyết.
5.4. Phương pháp phân tích, so sánh
5.4.1. Chúng tơi phân tích kết cấu của từng tác phẩm, tìm ra cái hay, cái đẹp của các chi
tiết nghệ thuật…
5.4.2. So sánh tác phẩm với tác phẩm trong một nhóm truyện, giữa nhóm này với nhóm
khác; đối chiếu thể loại truyện dân gian (truyền thuyết) của An Giang với thể loại truyện dân
gian của các vùng khác hay giữa thể loại truyền thuyết với thể loại khác (thần thoại, cổ tích…).
Việc so sánh, đối chiếu là rất cần thiết nhằm tìm ra sự tương đồng, thống nhất cũng như sự
thâm nhập, chuyển hóa của các thể loại văn học dân gian.
5.5. Phương pháp tập hợp và thẩm định tư liệu
5.5.1. Chúng tôi tập hợp tác phẩm từ nhiều nguồn khác nhau, chủ yếu từ sách và sưu tầm
trong dân gian. Về sưu tầm, chúng tôi chủ yếu quan tâm đến các vùng có nguồn tư liệu dồi dào,
tìm đến các địa chỉ văn hóa, các đối tượng có khả năng thu thập được nhiều bản kể: chùa,
đình... hay các bậc cao niên, các trụ trì chùa, người có hiểu biết về văn hóa, văn học dân gian…
5.5.2. Đối với tư liệu sách vở, chúng tôi lưu ý đến các văn bản có nhiều dị bản. Đối với
các bản kể sưu tầm, chúng tơi cũng quan tâm đến trình độ người kể mà chọn những bản kể hay
nhất, phù hợp nhất. Ngồi ra, cơng việc thẩm định tự liệu cịn được chúng tôi thực hiện qua việc

điền dã, nhằm so sánh, xác minh một số văn bản đã có trong các tư liệu mà chúng tôi cho rằng
chưa ổn về nội dung, hình thức văn bản.


6. Đóng góp mới của luận văn
- Tập hợp tác phẩm, phân loại phù hợp hệ thống truyện dân gian An Giang theo tiêu chí
phân loại của khoa học văn học dân gian.
- Trong quá trình sưu tầm, tập hợp tư liệu, chúng tơi tìm thêm được 18 truyện kể và biên
soạn lại một số văn bản mà chúng tôi chưa đồng thuận về nội dung và hình thức.
- Theo kết quả tập hợp, phân loại, theo chúng tôi, trong hệ thống truyện dân gian An
Giang, truyền thuyết là thể loại đậm đặc, tiêu biểu nhất. Đây là kết luận quan trọng để chúng tơi
tập trung tìm hiểu thể loại truyền thuyết một cách chuyên sâu.
- Với thể loại truyền thuyết, chúng tôi khảo sát đặc trưng và đặc điểm kết cấu. Theo
chúng tôi, về đặc trưng thể loại, bên cạnh những đặc trưng giống như truyền thuyết của cả
nước, truyền thuyết An Giang cịn có những nét riêng. Cịn về đặc điểm kết cấu, chúng tôi cũng
nhận ra thể loại truyền thuyết ở An Giang có những nét khác biệt bên cạnh những tương đồng
về cốt truyện và nhân vật.

7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 286 trang, trong đó có 150 trang chính văn và phần phụ lục gồm 136
trang. Kết cấu như sau:
7.1. Phần chính văn:
- Mở đầu gồm 9 trang dành cho việc trình bày về : Lí do chọn đề tài - mục đích nghiên
cứu; Lịch sử nghiên cứu vấn đề; Đối tượng và phạm vi nghiên cứu; Mục tiêu nghiên cứu;
Phương pháp nghiên cứu; Đóng góp mới của luận văn và Kết cấu của luận văn.
- Chương 1: Khái quát về vùng đất, con người và văn hóa An Giang (gồm 30 trang).
Trong chương này, chúng tơi tìm hiểu về đặc điểm vùng đất với các vấn đề địa giới của tỉnh An
Giang từ khi thành lập đến nay để thấy được sự thay đổi về diện tích; tìm hiểu vấn đề địa mạo
để tìm ra mối quan hệ giữa thiên nhiên vùng đất với sự hình thành, phát triển, giao lưu văn hóa,
văn học của An Giang. Đặc biệt, ở chương này, chúng tơi cịn tìm hiểu về đặc điểm con người

và văn hóa của người Kinh An Giang, qua đó làm cơ sở đề chúng tơi khảo sát đối tượng chính
của luận văn – truyện dân gian.


- Chương 2: Tình hình tư liệu và phân loại truyên dân gian An Giang (gồm 26 trang).
Với chương này, chúng tơi thực hiện hai nhiệm vụ: khái qt tình hình tư liệu liên quan đến thể
loại truyện dân gian An Giang; phân loại, nêu lên mức độ đậm, nhạt của các thể loại truyện dân
gian An Giang thông qua số liệu văn bản mà chúng tôi tập hợp được.
- Chương 3: Đặc trưng và đặc điểm về kết cấu của truyền thuyết An Giang (gồm 72
trang). Đây là chương dài nhất, trọng tâm nhất của luận văn. Trong chương này, chúng tôi thực
hiện hai nội dung. Thứ nhất là tìm hiểu về đặc trưng của truyền thuyết An Giang với 3 đặc
trưng. Sau khi thực hiện nội dung thứ nhất, chúng tơi tìm hiểu nội dung thứ hai, đó là tìm hiểu
về đặc điểm kết cấu với hai vấn đề: cốt truyện và nhân vật. Về cốt truyện, chúng tơi tìm hiểu
lần lượt mơ hình cốt truyện, sự hiện thực hóa mơ hình cốt truyện của từng nhóm truyện. Cịn về
nhân vật, chúng tơi tìm hiểu lần lượt theo 3 nội dung: 1. Sự xuất hiện của nhân vật; 2. Diễn
biến chính trong cuộc đời của nhân vật; 3. Kết thúc - Tình cảm của nhân dân đối với nhân vật.
- Kết luận gồm 2 trang dành cho việc đánh giá những nội dung đã thực hiện và đề xuất
một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, thực hiện.
- Tài liệu tham khảo: có 11 trang thống kê 168 danh mục tài liệu tham khảo
7.2. Phần phụ lục:
Gồm 136 trang trình bày danh mục các 108 truyện; nội dung một số văn bản tiêu biểu
của bốn nhóm truyền thuyết An Giang; 23 văn bản truyện sưu tầm được trong thời gian thực
hiện luận văn.


Chương 1 :KHÁI

QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI VÀ
VĂN HÓA AN GIANG


1.1. Đặc điểm vùng đất An Giang
1.1.1. Về địa giới
Từ khi có tên trên bản đồ dân tộc đến nay, tỉnh An Giang trải qua một quá trình thay đổi
về địa giới nhiều lần. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu lên một số thay đổi quan trọng, tiêu biểu.
Theo “Đại Nam nhất thống chí”, trước 1832, An Giang thuộc đất Tầm Phong Long.
Sách này viết về An Giang như sau: “Xưa là đất Tầm Phong Long, năm Đinh Sửu thứ 19
(1757) đời Thế Tông, quốc vương Chân Lạp Nặc Tôn dâng đất này, đặt làm đạo Châu Đốc; vì
đất ấy có nhiều chỗ bỏ hoang, đầu đời Gia Long mộ dân đến ở, gọi là Châu Đốc Tân
Cương…”. Ngay khi vừa thu phục đất Tầm Phong Long, Nguyễn Cư Trinh đã tâu lên Chúa
Nguyễn và được chấp thuận: Dời dinh Long Hồ từ Cái Bè qua Tầm Bào (khu vực thành phố
Vĩnh Long ngày nay). Để án ngữ dinh Long Hồ, cho bố trí 3 cứ điểm phịng thủ nương tựa
nhau: đạo Châu Đốc (vị trí ở thị xã Châu Đốc ngày nay), đạo Tân Châu (vị trí tại đầu cù lao
Giêng, thuộc huyện Chợ Mới ngày nay), đạo Đơng Khẩu (phía nam sơng S(a Đéc, thuộc thị xã
Sa Đéc ngày nay). Gọi đạo, theo nghĩa quân khu, dưới chế độ quân quản thuộc dinh Long Hồ.
Bấy giờ, dinh là một đơn vị hành chính và quân sự trực thuộc Trung ương, như một tỉnh lớn.
Trong giai đoạn tranh chấp với Tây Sơn, đất Nam Bộ là phủ Gia Định.
Năm 1802, Nguyễn Ánh đổi phủ Gia Định ra trấn. Dinh Long Hồ đổi là trấn, gọi là
Vĩnh Trấn từ năm 1805. Năm 1808, đời Gia Long, gọi đất Nam Bộ cũ là Gia Định thành (có
nghĩa là đơn vị hành chính to của miền). Gia Định thành quản 5 trấn: Phiên An, Biên Hòa,
Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Trấn Vĩnh Thanh, bao gồm khu vực rộng lớn, từ biên
giới Việt – Miên đến biển, từ Bảy Núi đến Bãi Xàu, Giá Rai, gồm cả Tân Châu và vùng Bến
Tre. Như vậy, có thể nói, An Giang lúc bấy giờ thuộc trấn Vĩnh Thanh.
Năm Nhâm Thìn (1832), vua Minh Minh Mạng đổi “Ngũ trấn” thành “Lục tỉnh” gồm:
Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” viết: “Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), lấy đất này
cùng với huyện Vĩnh An tỉnh Vĩnh Long đặt làm phủ Tuy Biên và Tân Thành; đặt bốn huyện là


Tây Xuyên, Phong Phú, Đông Xuyên, và Vĩnh An lập tỉnh An Giang, đặt chức An Hà Tổng đốc,
thống lãnh hai tỉnh An Giang và Hà Tiên, lại đặt hai ty Bố Chánh và An sát”.

Như vậy, vùng Châu Đốc cùng với huyện Vĩnh An (giữa sông Tiền và sông Hậu từ Tân
Châu đến Sa Đéc) của tỉnh Vĩnh Long được lập thành tỉnh An Giang. Có thể nói, An Giang bấy
giờ quá rộng, từ biên giới (Tân Châu, Bảy Núi) xuống tận Cái Tàu Hạ (giữa sông Tiền và sơng
Hậu), kéo dài tận cả vùng Sa Đéc, Sóc Trăng, Giá Rai ra đến biển. Lỵ sở đặt tại Châu Đốc.
Năm 1835, vua Minh Mạng cho lấy đất Ba Thắc đặt thêm phủ Ba Xuyên, đặt hai huyện
Phong Nhiêu, Phong Thạnh và lấy huyện Vĩnh Định tỉnh Vĩnh Long nhập vào tỉnh An Giang.
Năm Minh Mệnh thứ 17 (1836), vua cho đạc điền lập địa bạ cả Nam Kỳ lục tỉnh. Địa bạ An
Giang được xác lập ngày 3 tháng 6 năm 1836, ghi nhận lúc bấy giờ có 2 phủ (Tuy Biên, Tân
Thành), 4 huyện (Đông Xuyên, Tây Xuyên, Vĩnh An, Vĩnh Định).
Đến thời Tự Đức (1848 – 1883), sau nhiều lần tách nhập, tỉnh An Giang có ba phủ (Tuy
Biên, Tân Thành và Ba Xuyên), và mười huyện.
Theo Nghị định ngày 05 tháng 01 năm 1876 của Thống đốc Đu-pe (Dupré), Pháp bỏ hệ
thống Nam Kỳ lục tỉnh mà chia thành 4 khu vực: Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bassac, bao
gồm 20 địa hạt. Trong đó, tỉnh An Giang cũ bị chia thành các địa hạt: Châu Đốc, Long Xuyên,
Cần Thơ, Sóc Trăng và Sa Đéc. Năm 1914, Pháp chia Nam Kỳ ra làm 17 tỉnh, An Giang được
chia làm 5 tỉnh nhỏ là Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng và Sa Đéc. Nhưng về
phương diện hành chính, lúc này tỉnh An Giang khơng còn. Từ 1945 – 1954, thực dân Pháp
chia cả nước ra làm 69 đơn vị hành chính cấp tỉnh, Nam Kì có 21 tỉnh, trong đó, An Giang hiện
nay gồm hai tỉnh Châu Đốc và Long Xuyên.
Đến thời kì Mĩ – Diệm ( 1954 – 1975), tỉnh An Giang được thành lập lại trên cơ sở hai
tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc cũ. Sau đó, chính quyền Sài Gịn lại tách An Giang thành hai
tỉnh Châu Đốc và An Giang, trong đó tỉnh An Giang là phần của tỉnh Long Xuyên (cũ) được
đặt lại. Như vậy, trong giai đoạn này, tỉnh An Giang bị thu hẹp lại.
Sau ngày miền Nam hồn tồn giải phóng, theo Quyết định số 19/QĐ của Bộ Chính trị
ngày 20 tháng 12 năm 1975, tỉnh An Giang được lập lại trên cơ sở hai tỉnh Long Xuyên và
Châu Đốc. Như vậy, lúc này, tỉnh An Giang lại được mở rộng gấp đôi so với giai đoạn trước.
Tiểu kết:


Tóm lại, từ lúc An Giang trở thành một trong Nam Kì lục tỉnh (1832) đến nay trải qua

gần 180 năm. Khoảng thời gian ấy cũng khá dài, nên diện tích có nhiều thay đổi theo lịch sử.
Lúc mới thành lập (1832), diện tích rất rộng, bao gồm cả một vùng rộng lớn có cả một số tỉnh,
thành hiện nay; có lúc lại bị chia cắt, thu hẹp, thậm chí tên An Giang khơng cịn (năm 1914).
Nhưng xét một cách tổng qt, dù có trải qua một q trình thay đổi từ một An Giang rộng lớn
trong Nam Kỳ lục tỉnh được chia cắt thành nhiều tỉnh, thành nhỏ hơn, nhưng địa bàn của tỉnh
An Giang lúc mới thành lập so với hiện nay là vẫn giữ được cái nền cơ bản ban đầu – nằm ở
đầu nguồn của hai con sông Tiền và sông Hậu cùng với hệ thống Thất Sơn hùng vĩ, duy nhất
của đồng bằng sông Cửu Long.
1.1.2 Về địa mạo vùng đất An Giang hiện nay
Giữa thiên nhiên với văn hóa dân gian ln có mối quan hệ. Nói đến mối quan hệ giữa
thiên thiên và văn hóa dân gian là đề cập đến những nhân tố lớn có tầm quan trọng, ảnh hưởng
trực tiếp đến sự hình thành bản sắc văn hóa dân gian người Việt trên vùng đất mới, trong đó có
An Giang. Nhận thức được mối quan hệ này, đề cập đến địa mạo vùng đất An Giang, chúng tôi
cũng hết sức lưu ý vấn đề này.
Xét một cách tổng quát, địa mạo An Giang có 2 dạng chính: đồng bằng và đồi núi.
Nằm trong hệ thống của đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng ở An Giang cũng “thẳng
cánh cò bay”. Theo thống kê, đồng bằng ở An Giang chiếm đến 87% diện tích tự nhiên và là
nơi sinh sống của 89% dân cư toàn tỉnh. Về phân loại, đồng bằng ở An Giang có hai dạng
chính. Đó là đồng bằng phù sa và đồng bằng ven núi. Đồng bằng phù sa của An Giang là một
bộ phận của đồng bằng sông Cửu Long, có nguồn gốc trầm tích lâu đời của phù sa sông Mê
Kông. Dạng này tập trung ở các nơi như An Phú, Phú Tân, Chợ Mới, thị xã Tân Châu, thành
phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc, các huyện Thoại Sơn, Châu Thành, Châu Phú và một phần
hai huyện miền núi Tri Tơn, Tịnh Biên. Cịn đồng bằng ven núi, xét về nguồn gốc hình thành,
được phân làm hai kiểu: kiểu sườn tích và kiểu đồng bằng phù sa cổ. Dạng này tập trung quanh
chân các núi Cô Tô, núi Dài, núi Cấm hay ở một số xã của hai huyện Tịnh Biên và Tri Tơn.
Trước hết, nói đến hệ thống đồng bằng ở An Giang là nói đến giá trị lớn trong lĩnh vực
nông nghiệp. Phần lớn, diện tích đất đai vùng đồng bằng ở An Giang được sử dụng vào mục
đích nơng nghiệp, mà nhiều nhất là trồng lúa. Nói đến đồng bằng ở An Giang là nói đến cây lúa



và nghề trồng lúa. Cây lúa được người dân trồng nhiều ở các huyện cù lao nằm giữa sông Tiền
và sông Hậu và các huyện trong vùng Tứ giác Long Xuyên. Trước đây, khi mới được khai phá,
đồng bằng ở An Giang là một vùng đất hoang sơ, đầy những cỏ lác, lau, sậy… Căn cứ vào Gia
Định thành thông chí và Địa chí An Giang cho biết, phần lớn lưu dân đến vùng đất mới này
chủ yếu sống bằng nghề nơng. Diện tích đất khai thác lớn hay nhỏ tùy thuộc vào khả năng của
mỗi gia đình. Họ tự lựa chọn nơi ở và nơi khai khẩn. Ai muốn ở đâu, khai khẩn ở ruộng gò hay
ruộng thấp ở nơi nào tùy ý. Trong quá trình khai phá đất hoang ở An Giang dưới thời nhà
Nguyễn, lưu dân người Việt đã dử dụng phần lớn diện tích đất khẩn hoang để trồng lúa. Ngồi
ra, họ cịn trồng một số hoa màu và cây ăn trái. Theo Trịnh Hoài Đức (Gia Định thành thơng
chí), khi mới khẩn hoang trồng lúa, lúa lúc bấy giờ có hai loại: lúa canh và lúa thuật. Lúa canh
là thứ lúa không dẻo, hạt gạo nhỏ, cơm mềm, mùi thơm. Lúa thuật là thứ lúa dẻo, hạt tròn mà
lớn. Lúc bấy giờ, lúa chỉ được trồng một vụ theo hình thức gieo mạ và cấy. Kĩ thuật rất đơn sơ,
lạc hậu.
Cùng với việc đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang của triều Nguyễn, và sau này là thời
Pháp thuộc, những vùng hoang sơ của đồng bằng ở An Giang dần được khai phá, biến thành
những cánh đồng lúa bạt ngàn. Trong thời gian này, tuy có tăng về diện tích, sản lượng, nhưng
số vụ vẫn khơng tăng. Kĩ thuật canh tác các loại lúa mùa, lúa nổi trong khoảng thời gian này
cũng rất đơn sơ, phần lớn là dựa vào nước mưa, không sử dụng phân bón hóa học. Cho nên,
gặp thiên tai như hạn hán, lũ lụt thì mất mùa, nơng dân dễ rơi vào cảnh nghèo đói. Lịch sử cịn
ghi lại hạn hán năm 1865 khiến nông dân An Giang phải bỏ nhiều ruộng hoang do các cơng
trình thủy lợi lúc bấy giờ chưa đủ sức giải quyết nhu cầu nước tưới. Rồi lũ lớn vào các năm
1904, 1923… khiến mùa màng bị thiệt hại nặng nề.
Cây lúa nổi tồn tại trên các cánh đồng của vùng An Giang rất dài. Với điều kiện địa
hình, thổ nhưỡng, thời tiết, thủy văn phức tạp và với kĩ thuật giản đơn, cây lúa nổi không thể
phát triển phù hợp và thiếu ổn định trên vùng đất An Giang. Phải đợi một thời gian khá dài,
nhất là sau 1975, cùng với phong trào thâm canh, chuyển vụ, tăng vụ, diện tích lúa cao sản
ngắn ngày phát triển nhanh chóng. Diện tích trồng lúa nổi thu hẹp dần. Vùng lúa nổi ngày xưa,
giờ đã dày đặc các hệ thống thủy nông các cấp. Nông dân lựa chọn trồng những cây có giá trị
và hiệu quả hơn cây lúa nổi. Cây lúa cao sản ngắn ngày đã ngự trị trên một vùng đất rộng lớn
mà ngày xưa chỉ có cây lúa nổi trị vì.



Bên cạnh cây lúa là cây trồng chính, trên các cánh đồng của vùng An Giang còn trồng
nhiều loại cây màu khác tùy theo sự thích hợp của thổ nhưỡng. Đó là bắp (ngơ), thuốc lá, mía,
đậu, dưa, rau cải… Dâu tằm cũng là một nghề có tập quán lâu đời. Cây dâu được trồng nhiều
theo hai bên bờ sông của sông Tiền và sông Hậu và vùng đồi núi. Nhưng, hiện nay, cây dâu
cũng chịu cảnh thăng trầm như nghề tằm tơ. Diện tích trồng dâu vì thế cũng dần bị thu hẹp,
thay thế cho các loại cây khác phù hợp, có giá trị hơn.
Tóm lại, so với cách đây vài trăm năm, đồng bằng ở An Giang có sự thay đổi rất lớn. Từ
những thảm rừng tràm mênh mông với vô số đàn ong xây tổ làm mật hay những cánh đồng lác,
lau, sậy… hoang vu khi xưa, nay đã được khai thác gần hết để trồng lúa và màu, từ một vụ đến
hai, ba vụ mỗi năm.
Thứ hai, nói đến đồng bằng ở An Giang là nói đến một vùng sơng nước với hệ thống
sơng ngịi, kênh đào chằng chịt bậc nhất của cả nước, với dân cư đơng đúc.
Về hệ thống sơng ngịi, vùng đồng bằng An Giang có hệ thống hạ lưu của dịng Mê
Kơng chảy qua gọi là sông Tiền và sông Hậu. Đây là hai con sông lớn nhất của vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Đoạn chảy qua An Giang, sông Tiền dài hơn 80km, sông Hậu dài khoảng
100km. Bên cạnh những giá trị to lớn về kinh tế, văn hóa, xã hội…, hai con sơng này cịn gây
ra những khó khăn khác khơng chỉ riêng cho An Giang mà cịn cho cả vùng đồng bằng sông
Cửu Long.
Giá trị lớn nhất mà hai dịng sơng này mang lại từ xưa đến nay, đó là thuận lợi cho giao
thông đường thủy, là nguồn cung cấp nước ngọt và phù sa lớn cho toàn vùng. Ngồi ra, với vị
trí thuận lợi là vùng đầu nguồn, sông Tiền và sông Hậu đoạn chảy qua An Giang mang lại
nguồn lợi quan trọng khác mà các nơi khác, vùng hạ lưu, khơng thể sánh bằng, đó là nguồn lợi
thủy sản. Nguồn lợi thủy sản của An Giang rất phong phú, đa dạng, nhất là vào mùa nước nổi.
Lượng tôm, cá nơi đây rất dồi dào. Trước đây, khi còn là vùng đất hoang, con người chủ yếu
dựa vào đánh bắt trong tự nhiên nhằm phục vụ nhu cầu đời sống hằng ngày. Hình ảnh “trên
cơm, dưới cá” nêu lên sự thuận lợi, hào phóng của vùng đất mà thiên nhiên ban tặng cho những
lưu dân trong buổi đầu khai phá. Ngày nay, lượng cá tơm khơng cịn nhiều, con người chuyển
sang khai thác nguồn lợi từ dịng sơng qua việc nuôi trồng thủy sản. Nuôi trồng thủy sản là

nguồn lợi kinh tế quan trọng của An Giang bên cạnh cây lúa.


Cùng với hệ thống sông lớn, đồng bằng ở An Giang cịn có một hệ thống sơng, rạch tự
nhiên và hệ thống kênh đào do con người thực hiện trong q trình khai hoang, phục hóa, phát
triển nơng nghiệp từ xưa đến nay. Đó là các sơng Vàm Nao, Bình Di, Châu Đốc; các rạch tự
nhiên như Mương Khai, Cái Đầm, Cái Tắc, Ông Chưởng, Cái Tàu Thượng, Long Xuyên, Chắc
Cà Đao, Mặc Cần Dưng, Cần Thảo; kênh đào có các kênh nổi tiếng như Thoại Hà, Vĩnh Tế,
Vĩnh An, Trà Sư, Thần Nông, Vàm Xáng,… Giá trị của các kênh rạch ở An Giang cũng gần
như hệ thống sông lớn. Đó là thuận lợi cho việc giao thơng, là nguồn cung cấp nước ngọt quan
trọng cho dân cư, đặc biệt nhất là nông nghiệp. Với vùng Tứ giác Long Xun, các sơng, rạch
tự nhiên, các kênh đào cịn giúp tháo chua, rửa phèn, cung cấp nguồn phù sa quan trọng cho
phát triển nông nghiệp, cụ thể là trồng lúa.
Một hình ảnh khác khơng thể khơng nhắc đến mang tính chất diện mạo văn hóa, xã hội
khi nói về đồng bằng An Giang gắn với hệ thống sơng ngịi, kênh rạch. Đó là khi nói đến hệ
thống sơng Tiền, sơng Hậu, chúng ta liên tưởng ngay đến những trung tâm kinh tế, văn hóa…
lớn hay những trung tâm dân cư đông đúc nằm dọc hệ thống hai con sông này như thị xã Châu
Đốc thơ mộng tại ngã ba sông của đầu nguồn sơng Hậu, phía sau là rặng Thất Sơn hùng vĩ (các
nhà phong thủy gọi là thế tiền tam giang, hậu thất lĩnh); thị xã Tân Châu với nghề truyền thống
dệt lụa nổi tiếng nằm ở đầu nguồn sông Tiền; thành phố Long Xuyên sầm uất nằm bên dịng
sơng Hậu; hay các huyện cù lao đơng dân cư nằm giữa hai con sông Tiền và sông Hậu như Chợ
Mới, Phú Tân, vùng dân cư đông đúc của huyện Châu Phú, Châu Thành nằm bên bờ sông
Hậu… Ở phạm vi hẹp hơn, đó là hình ảnh dân cư sống tập trung, đông đúc, lâu đời dọc các
kênh rạch tự nhiên như rạch Ông Chưởng, Cái Tàu Thượng, Long Xuyên, Chắc Cà Đao, Mặc
Cần Dưng… Cịn các kênh đào, có thể nói, kênh đào đến đâu, dân ở đến đó, tùy theo lịch sử
đào kênh mà dân tập trung nhiều hay ít. Các kênh đào nổi tiếng như Thoại Hà, Vĩnh Tế, Vĩnh
An… là những kênh đào từ thế kỉ XIX nên có đơng dân cư sinh sống. Một số kênh mới đào sau
này thì dân cư tập trung ít hay nhiều tùy thuộc vào sự thuận lợi mà kênh đào đó mang lại.
Đặc điểm tập trung dân cư dọc theo các kênh rạch tự nhiên hay kênh đào vùng đồng
bằng của An Giang, cũng như của Nam Bộ, có thể xem là điểm khác biệt trong vấn đề quần cư

với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài chức năng thu hút dân cư, các kênh rạch tự nhiên hay kênh
đào ở An Giang, cũng là của Nam Bộ, còn là ranh giới tự nhiên giữa các làng (ấp), xã, huyện,
thậm chí tỉnh so với hình ảnh lũy tre làng là ranh giới làng, xã… ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.


Thêm một diện mạo cũng khá quan trọng đang diễn ra trên vùng đồng bằng An Giang
mà từ thế kỉ XX về trước khơng có. Đó là hình ảnh những cánh đồng lúa hay màu được bảo vệ
bởi hệ thống đê bao khép kín hồn chỉnh, an tồn thay thế cho những cánh đồng nước mênh
mông mỗi khi nước lũ dâng cao hàng năm. Đây chính là phương thức “sống chung với lũ” mà
vùng đồng bằng An Giang đang thực hiện. Điều này góp phần rất lớn, làm thay đổi diện mạo
vùng đất so với trước đây.
Bên cạnh những thuận lợi, tiềm năng, vùng đồng bằng An Giang cịn có những khó
khăn, cịn tiềm ẩn nhiều bất lợi. Điển hình nhất là từ hai dịng sơng lớn (sơng Tiền và sông
Hậu). Hai con sông này đã nhận một lượng lớn nước từ đầu nguồn, gây ra lũ lụt thường xuyên
trên vùng đồng bằng An Giang. Theo thống kê trong Địa chí An Giang, quyển I, trong gần 80
năm qua, từ 1926 đến năm 2000, trên vùng đồng bằng An Giang xảy ra 9 lần lũ lớn, gây thiệt
hại lớn về tài sản, con người. Từ lúc con người đặt chân đến vùng này khai phá đến hết thế kỉ
XX, lũ vẫn là nỗi ám ảnh thường xuyên mỗi khi nước đầu nguồn đổ về hằng năm, thì hiện nay,
tâm lí “sợ khơng có nước” hay lũ khơng về lại đang diễn ra. Lí do phần lớn từ thiên nhiên với
sự can thiệp quá đáng của con người từ vùng thượng nguồn. Lũ không về đồng nghĩa với lượng
phù sa không nhiều, nguồn lợi thủy sản ngày càng ít…Tất cả nhà những khó khăn đối với vùng
đồng bằng An Giang, rộng hơn nữa là của tồn vùng đồng bằng sơng Cửu Long.
Tìm hiểu qua các diện mạo cơ bản của vùng đồng bằng ở An Giang, chúng tôi nhận thấy
diện mạo hệ thống sơng ngịi, kênh rạch chằng chịt có tác động mạnh mẽ nhất đến sự phát triển
của văn hóa, văn học dân gian An Giang.
Tác động đầu tiên là hệ thống sơng ngịi, kênh rạch chằng chịt liên quan đến các thể loại
của văn học dân gian ở An Giang. Với thể loại dân ca, sông nước, kênh rạch vừa là môi trường
diễn xướng vừa là yếu tố tạo ra nhịp điệu, lề lối diễn xướng, nhất là hò diễn xướng. Với truyện
dân gian, nội dung thường hướng đến thiên nhiên nhiều hơn là xã hội. Đặc biệt, các truyện kể
nhằm giải thích tên gọi địa danh thời khai phá có số lượng khá lớn. Cù lao, cánh đồng lúa, hệ

thống thủy lợi, con sông, cây cầu, doi đất… đều là những đối tượng mà tác giả dân gian hướng
tới. Tất cả đi vào nội dung truyện kể một cách hết sức tự nhiên, phù hợp.
Thứ hai, hệ động thực vật phong phú của vùng sông nước, kênh rạch đã là đối tượng của
các sáng tác dân gian. Cá sấu, cá mập của vùng sông nước An Giang cũng đi vào các truyện kể


một cách sinh động, hấp dẫn, minh chứng cho thời kì hoang sơ, đầy nguy hiểm, khó khăn
nhưng cũng hết sức giàu có về hệ động, thực vật của vùng đất…
Yếu tố thời tiết, khí hậu của vùng đồng bằng lắm sơng ngịi, kênh rạch cũng có tác động
lớn đến sinh hoạt, văn hóa dân gian nơi đây…Mặt khác, nó cũng là đối tượng được tác giả dân
gian miêu tả trong các truyện kể của mình.
Ngồi đồng bằng, An Giang cịn có đời núi. Đồi núi ở An Giang tập trung ở bốn huyện,
thị là Tịnh Biên, Tri Tôn, Thoại Sơn và thị xã Châu Đốc. Đây là nét đặc sắc, nổi bật của An
Giang giữa vùng đồng bằng mênh mông của miền Tây Nam Bộ. Theo thống kê, diện tích đồi
núi ở An Giang chiếm 13% diện tích và 11% dân số. Về núi, theo thống kê, ở An Giang có 37
ngọn lớn nhỏ, cao nhất là núi Cấm (Thiên Cấm Sơn), cao 716m. Tuy nhiên, nói đến núi ở An
Giang thì chúng ta thường nghĩ đến hệ thống Thất Sơn (bảy ngọn núi tiêu biểu) cho toàn vùng.
Đất đai của vùng đồi núi chủ yếu là đất xám, nghèo dinh dưỡng, thốt nước mạnh, dễ bị khơ
hạn và xói mịn…
Với diện mạo đặc biệt, vùng đồi núi ở An Giang chứa đựng trong đó bao nhiêu là vấn đề
từ lịch sử, kinh tế, văn hóa…
Trước tiên, đó là vấn đề kinh tế. Cách nay vài trăm năm, hệ thống thực vật, động vật
vùng Thất Sơn hết sức phong phú đa dạng. Thực vật gồm nhiều loại cây quý như: gỗ mật, căm
xe, giáng hương, dầu, sao, tếch… Động vật cũng phong phú đa dạng như cọp, voi, hươu, heo
rừng, nai, trăn, rắn, rùa… Chính sự phong phú của các loài động vật mà nơi đây từng là nỗi ám
ảnh đối với những lưu dân khi đến đây khai phá. Nhiều truyện kể li kì ra đời về việc con người
chống lại các loài thú dữ như cọp, heo rừng… là minh chứng cho điều này. Tuy nhiên, ngày
nay, hệ thống động thực vật bị mai một rất nhiều, một số lồi khơng cịn, nhất là các loại động
vật như voi, hổ…
Tuy đất đồi núi ở An Giang không thuận lợi để phát triển nơng nghiệp, nhưng lại thích

hợp cho cây ăn trái và cây dược liệu. Cây ăn trái như xồi, mít, chuối, na, dừa, bơ… được trồng
khắp nơi.
Một nguồn lợi khác cũng khá quan trọng từ vùng đồi núi An Giang, đó là nguồn khống
sản. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, nguồn tài nguyên khoáng sản từ vùng đồi núi An
Giang là rất phong phú, nhưng sản lượng khơng nhiều. Đó là vật liệu xây dựng (đá grannit, cát
sỏi…), than bùn, cao lanh…


Nói đến diện mạo đồi núi của An Giang, khơng thể khơng nói đến khía cạnh lịch sử. Xa
xưa nhất, đây là vùng sinh sống chủ yếu của người Phù Nam (vùng Thoại Sơn), mà hiện nay,
cịn đó vết tích của nền văn hóa Phù Nam rực rỡ được khai quật gần đây. Tiếp theo là đến bộ
phận người Khmer sinh sống chủ yếu quanh vùng Bảy Núi, mà hiện nay, họ vẫn cịn đó, tạo
cho nơi đây một nét văn hóa rất riêng. Gần hơn có Nguyễn Ánh (Gia Long) trong q trình
đánh nhau với Tây Sơn đã khơng ít lần rút về vùng Thất Sơn lánh nạn để lại nơi đây bao nhiêu
truyền thuyết. Vùng Thất Sơn còn là nơi diễn ra nhiều cuộc chiến quan trọng giữa Việt Nam
với liên quân Xiêm – Chân Lạp được lịch sử ghi lại. Đến khi thực dân Pháp xâm lược, vùng
Thất Sơn lại là nơi để những nhà yêu nước mưu đồ sự nghiệp như Ngô Lợi, Phan Bội Châu,
Phan Phát Sanh, hay đến đây để qui ẩn, bày tỏ thái độ bất hợp tác với giặc như Nguyễn Sinh
Sắc, Trương Gia Mơ…
Ngồi ra, vùng Thất Sơn cịn được xem là nơi phát tích các tơn giáo bản địa miền Nam.
Những nhà khai sáng đạo thường chọn Thất Sơn làm nơi để tu hành, sau đó khai sáng đạo
pháp. Đó là các nhân vật như Đồn Minh Hun, Ngơ Lợi, Phạm Thái Chung, Huỳnh Phú
Sổ…Điều gì đã thu hút mọi người đến vùng Thất Sơn để tu hành, giác ngộ? Với địa thế có hai
con sơng lớn chảy qua, có dãy Thất Sơn hùng vĩ, An Giang từ xưa đã được các nhà phong thủy
xem là đất có linh khí, là nơi hội tụ, chung đúc khí thiêng của trời đất… Điều này chính là động
lực rất lớn thu hút họ. Phương ngữ Nam Bộ có câu “Tu phật Phú Yên, tu tiên Bảy Núi” cũng là
đúc kết từ hiện tượng này.
Tóm lại, An Giang là vùng đất được cấu tạo bởi một địa hình khá độc đáo: vừa có đồng
bằng rộng lớn, có hai con sơng dài chảy qua (sông Tiền và sông Hậu), với nhiều cồn bãi, cù lao
đất đai màu mỡ; có hệ thống kinh đào chằng chịt; vừa có núi (hệ thống Thất Sơn hùng vĩ, duy

nhất ở đồng bằng sơng Cửu Long), có rừng ngập nước quanh năm, với hệ sinh vật đa dạng,
phong phú; phía bờ tây sơng Hậu là vùng bán sơn địa, “cò bay mỏi cánh” (nằm trong khu tứ
giác Long Xuyên); rồi đường biên giới dài, tiếp giáp với nước bạn Campuchia. Với địa hình
này, có thể nói, An Giang là vùng đất có đầy đủ tiền để để hình thành nên một vùng đất với
diện mạo văn hóa dân gian đa dạng, nhất là văn học dân gian. Riêng vùng bán sơn địa Thất Sơn
đã là nơi thu hút biết bao danh nhân văn hóa, sĩ phu yêu nước, anh hùng hào kiệt và chứa đựng
trong đó biết bao huyền thoại về thiên nhiên, về con người.


1.2 Đặc điểm về dân cư, con người An Giang
Có thể khẳng định, An Giang là một địa bàn dân cư có nhiều tộc người sinh sống. Tiêu
biểu nhất là bốn tộc người: Kinh, Hoa, Khmer, Chăm.
Vấn đề nguồn gốc và phân bố dân cư. Trước hết là cư dân bản địa. Cư dân bản địa của
vùng đất An Giang, rộng hơn nữa là của cả Nam Bộ hiện nay, chính là dân cư của quốc gia Phù
Nam tồn tại và phát triển từ những năm đầu công nguyên đến khoảng thế kỉ thứ VII. Tuy vậy,
hiện nay, di duệ của người Phù Nam khơng được xác định cịn hay đã bị tuyệt diệt theo sự diệt
vong của quốc gia Phù Nam. Địa bàn cư trú chủ yếu của người Phù Nam cổ là các vùng đất
cao, gò đồi của tồn vùng Nam Bộ, trong đó, An Giang là một địa bàn tập trung và quan trọng
nhất.
Một nhóm cư dân khác cũng được xem là cư dân bản địa của vùng đất An Giang hiện
nay là người Khmer. Theo một số tài liệu, thư tịch cổ thì người Khmer đã có một q trình lịch
sử lâu đời ở vùng đất An Giang, Nam Bộ (khoảng thế kỉ XIII). Họ đã có mặt ở đây sinh sống
và khai khẩn nhiều nơi ngay khi người Việt chưa đặt chân tới. Họ thường cư trú tại những miền
đất cao, chủ yếu chung quanh các dãy núi và tập hợp theo phum, sóc. Do điều kiện lịch sử, dù
có xáo trộn ít nhiều, nhưng căn bản, người Khmer vẫn an cư lạc nghiệp với nơi chốn cũ, gắn bó
với chùa chiền đã được xây dựng từ trước trên địa bàn các huyện Tri Tôn, Tịnh Biên, Châu
Thành, Thoại Sơn. Tuy nhiên, vùng Bảy Núi thuộc hai huyện biên giới Tri Tơn và Tịnh Biên
có mật độ dân số Khmer đơng nhất.
Ngồi ra, ở An Giang cịn có cư dân di cư. Đầu tiên là cư dân người Việt. Họ di cư từ
miền Trung vào theo hai cách. Một là, họ tự động đi lẻ tẻ, đơn thân độc mã hoặc cả gia đình

bầu đồn thê tử. Có lẽ, họ là lớp người Việt đầu tiên đến An Giang. Tuy nhiên, họ có mặt ở An
Giang từ lúc nào thì cho đến nay, chưa thấy sử sách ghi chép rõ ràng. Theo truyền thuyết dân
gian và một số vết tích cịn lại đến ngày nay thì đã có một số nhóm người Việt gốc miền Trung
vào đây từ rất lâu. Nhưng do điều kiện của vùng đất mới cịn nhiều khó khăn, khắc nghiệt, nên
dân cư còn thưa thớt. Nơi họ dừng chân đầu tiên là dọc theo hai bờ sông Tiền và sông Hậu.
Cuối thế kỉ XVII, khi Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, đã thấy có người Việt sinh sống ở
vùng Bình Mỹ (Châu Phú), Châu Đốc, cù lao Cây Sao (cù lao Ơng Chưởng, Chợ Mới). Tương
truyền, khi thuyền qn xi dòng Cửu Long (1700), Nguyễn Hữu Cảnh đã ghé lại những nơi


có người Việt ở để hỏi thăm và khích lệ mọi người. Điều này được kể lại trong nhiều truyện
dân gian có liên quan đến Nguyễn Hữu Cảnh.
Cù lao Giêng, cù lao Ơng Chưởng (Chợ Mới) là nơi có lưu dân từ rất sớm, đặc biệt là
lưu dân ở cù lao Ông Chưởng. Họ được gọi là dân “hai huyện” (Phước Long và Tân Bình). Họ
được xem là mẫu mực về thuần phong mỹ tục, vẫn giữ được nếp ăn, nếp nghĩ của người Việt.
Từ Chợ Mới đến Cái Hố, theo lịng rạch Ơng Chưởng, ta bắt gặp nơi đây có một số gia đình cố
cư, ơng bà của họ đến cư ngụ nơi đây từ đời Gia Long, Minh Mạng hoặc lâu hơn nữa. Cịn ở cù
lao Giêng, có một địa danh là bến đò Phủ Thờ. Nơi đây có một Phủ Thờ. Phủ Thờ này là của
họ Nguyễn từ Bình Định vào, con cháu ngày nay ở vào đời thứ 10, thứ 11, cư ngụ kề nhau
đông đúc. Truyện kể dân gian An Giang có nhiều truyện về dịng họ này. Có thể nói, đây là một
trong những họ đến lập nghiệp đầu tiên trong vùng.
Một điều đáng lưu ý là, như trên đã đề cập, số người Việt đi vào phương Nam khai
hoang lập nghiệp là đi với cả gia đình cha me, vợ con, chứ khơng phải đợi khá giả rồi mới trở
về quê cha đất tổ rước cha me, vợ con vào. Họ đã đến đây là khơng thể về, vì điều kiện xa xơi
(ở tận vùng Ngũ Quảng), và đặc biệt là điều kiện sống ngồi đó q khắc nghiệt, đói khổ, bị áp
bức bóc lột nặng nề…
Hai là, họ tham gia vào các đợt di dân khẩn hoang do triều Nguyễn đứng ra tổ chức đơn
đốc, khuyến khích và bảo trợ. Các chúa nhà Nguyễn tổ chức di dân vào Nam khá sớm. Trước
tiên là chính sách cưỡng bức di dân của chúa Nguyễn Phúc Tần và chính sách chiêu mộ di dân
của Nguyễn Phúc Chu mở ra từ cuối thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XVIII trên quy mô ngày càng

lớn.
Năm 1802, ngay từ buổi đầu lên ngôi, Gia Long (Nguyễn Ánh) đã chủ trương đẩy mạnh
khai hoang nằm giải quyết các khó khăn về kinh tế - xã hội. Bấy giờ, An Giang thuộc trấn Vĩnh
Thanh, cư dân thưa thớt, đất hoang cịn nhiều, nhất là vùng bờ tây sơng Hâu, triều Nguyễn đã
dùng các biện pháp khác nhau để khuyến khích người dân khai hoang. Các chỉ dụ khuyến khích
mọi người đi khai hoang với thủ tục dễ dãi như cho tự chọn đất khẩn hoang, cho vay thóc
giống… Cịn đối với vùng biên giới, có hai biện pháp: chiêu mộ dân cường tráng, lập thành cơ
đội để phòng thủ trong trấn và xúc tiến việc đào kênh. Trọng trách đó được giao cho cơng thần
Nguyễn Văn Thoại. Năm 1817, khi làm trấn thủ Vĩnh Thanh, Nguyễn Văn Thoại kiến nghị lên
vua Gia Long việc đào kênh Đông Xuyên, nối vàm rạch Đông Xuyên (tức Long Xuyên ngày


nay) với ngọn Giá Khê (Rạch Giá). Triều đình đã chấp thuận. Sau khi đào kênh xong, triều
đình khuyến khích dân chúng đến khai phá đất đai và lập thôn ấp.
Sau khi đào kênh nối liền Đông Xuyên và Rạch Giá (gọi là kênh Thoại Hà, để ghi nhớ
công lao của Nguyễn Văn Thoại), Nguyễn Văn Thoại xúc tiến đào kênh từ Châu Đốc đến Hà
Tiên. Sau năm năm (1819 – 1824), trải qua nhiều giai đoạn, cuối cùng, con kênh cũng được
hoàn thành. Sau khi kênh hoàn thành, vua Minh Mạng ban lệnh đặt tên là kênh Vĩnh Tế (tên
của phu nhân Nguyễn Văn Thoại là bà Châu Thị Tế). Kênh Vĩnh Tế là cơng trình thủy lợi có
quy mô lớn nhất ở miền Nam thực hiện đầu thế kỉ XIX. Sau khi kênh Vĩnh Tế hoàn thành,
Nguyễn Văn Thoại cho chiêu mộ dân đến lập ấp, lập được 20 thơn. Cũng trong thời gian này,
Nguyễn Văn Thoại cịn cho đắp con lộ từ Châu Đốc vào núi Sam dài 8 dặm. Nhờ con lộ này
mà người Việt đến cư ngụ ở núi Sam ngày càng đơng đúc. Tính đến 1819, tồn trấn Gia Định
thành có 97.000 dân đinh, trong đó Vĩnh Thanh có 37.000 người, chiếm hơn 38% dân số Nam
Bộ (Theo Đại Nam thực lục).
Có thể nói, dưới triều Gia Long (1802 – 1819), nhờ chủ trương đào kênh, đắp lộ của
Thoại Ngọc Hầu, nên phần lớn đất cù lao, ven sông Hậu, bờ kênh Thoại Hà, Vĩnh Tế được khai
khẩn. Đất canh tác được mở rộng, dân đinh đông hơn, thôn ấp được thành lập nhiều hơn.
Sang thời Minh Mạng (1820 – 1840), rồi Thiệu Trị (1840 – 1847), nhà Nguyễn tiếp tục
chính sách khai hoang lập ấp. Năm 1821, Nguyễn Văn Thoại chiêu mộ dân địa phương, những

người buôn bán đến Châu Đốc lập làng mở chợ. Dân đinh tăng lên, ruộng đất tiếp tục được mở
mang. Bấy giờ, tình hình biên phịng có biến động, nên triều đình chuyển số dân đồn điền vào
ngạch lính, đồn điền biến thành các phiên hiệu quân đội. Vua Minh Mạng đã khuyến khích dân
đến vùng đất mới để khai hoang bằng cách miễn thuế đinh, thuế điền ba năm. Tuy nhiên, trên
thực tế, số diện tích khai hoang khơng đáng kể do cơng việc rất khó khăn, thiếu vốn, cơng cụ,
thời tiết khí hậu khắc nghiệt…Đây cũng là vấn đề lí giải vì sao số người đến nhiều, nhưng bỏ đi
cũng khơng ít. Chính vì điều này mà vua Minh Mạng đã gia hạn thuế nhiều lần.
Đến thời Tự Đức (1848 – 1883), do thực trạng trạng đất đai ở An Giang còn bỏ hoang
nhiều như đã nói trên, vua đã ban bố nhiều biện pháp khuyến khích khẩn hoang, tổ chức lại đồn
điền và lập ấp. Đó là năm 1849, vua Tự Đức cử Nguyễn Tri Phương làm Kinh lược sứ Nam kỳ.
Khi làm Tổng đốc An Giang, Nguyễn Tri Phương đã kiến nghị với triều đình Huế cho phép dân
chúng đến An Giang khẩn hoang để sinh kế. Năm 1851, Tự Đức chỉ dụ Nguyễn Tri Phương


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×