Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

Triết lý hiện sinh trong tiểu thuyết ở đô thị miền nam trước 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.12 MB, 144 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Huỳnh Diễm Hồng Thư

TRIẾT LÝ HIỆN SINH
TRONG TIỂU THUYẾT Ở ĐÔ THỊ MIỀN NAM
TRƯỚC 1975

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Huỳnh Diễm Hồng Thư

TRIẾT LÝ HIỆN SINH
TRONG TIỂU THUYẾT Ở ĐÔ THỊ MIỀN NAM
TRƯỚC 1975
Chuyên ngành :

Văn học Việt Nam

Mã số

60 22 01 21

:



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THÀNH THI

Thành phố Hồ Chí Minh - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung nghiên cứu trong luận văn này là cơng trình nghiên
cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn trực tiếp của PGS.TS. Nguyễn Thành Thi. Mọi
trích dẫn trong luận văn đều có trích dẫn rõ ràng tên tác giả, tên cơng trình, thời gian
và địa điểm công bố. Moi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy chế đào tạo, tơi xin
hồn tồn chịu trách nhiệm.
Tác giả
Huỳnh Diễm Hồng Thư


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Thành
Thi – người thầy đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, động viên em trong suốt quá
trình thực hiện luận văn này.
Em xin trân trọng cảm ơn quý Thầy cô Khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh, quý đồng nghiệp trường THPT chuyên Lê
Quý Đôn đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em trong thời gian học tập và
nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã quan tâm, cổ vũ tinh thần để tơi
có thể hồn thành đề tài.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2016

Tác giả

Huỳnh Diễm Hồng Thư


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................................1
Chương 1. CHỦ NGHĨA HIỆN SINH VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ
NGHĨA HIỆN SINH TRONG VĂN HỌC ĐÔ THỊ MIỀN NAM
TRƯỚC 1975 ................................................................................................ 14
1.1. Sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh ............................................................................ 14
1.2. Những tư tưởng chính của Chủ nghĩa hiện sinh .................................................... 18
1.2.1. Vấn đề “nhân vị” – vấn đề trung tâm của chủ nghĩa hiện sinh ..................... 18
1.2.2. Những phạm trù xoay quanh vấn đề “nhân vị” ............................................... 20
1.3. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh đối với văn hóa, văn học miền Nam
trước 1975................................................................................................................... 24
1.3.1. Bối cảnh xã hội miền Nam trước 1975............................................................. 24
1.3.2. Quá trình du nhập của chủ nghĩa hiện sinh vào miền Nam trước 1975 ....... 26
1.4. Xu hướng tiếp nhận chủ nghĩa hiện sinh trong văn học ở đô thị miền Nam
trước 1975................................................................................................................... 29
1.4.1. Tiếp nhận chủ nghĩa hiện sinh trong văn học ở đơ thị miền Nam trước
1975 trên bình diện sáng tác ............................................................................. 29
1.4.2. Tiếp nhận chủ nghĩa hiện sinh trong văn học ở đơ thị miền Nam trước
1975 trên bình diện lí luận, phê bình ............................................................... 32
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................................ 35
Chương 2. TRIẾT LÝ HIỆN SINH


TRONG TIỂU THUYẾT ĐÔ THỊ

MIỀN NAM TRƯỚC 1975 NHÌN TỪ BÌNH DIỆN NỘI DUNG
TỰ SỰ ............................................................................................................. 36
2.1. Con người với khát vọng dấn thân và trăn trở về số phận .................................... 36
2.1.1. Đánh mất sự hiện hữu để dấn thân truy tìm bản thể ....................................... 36
2.1.2. Những trăn trở về số phận con người ............................................................... 42


2.2. Con người cô đơn....................................................................................................... 47
2.2.1. Con người bơ vơ, lạc lõng.................................................................................. 49
2.2.2. Con người tách biệt với đám đông .................................................................... 53
2.3. Con người tha hóa ...................................................................................................... 58
2.3.1. Con người vong thân .......................................................................................... 59
2.3.2. Con người bỏ cuộc .............................................................................................. 65
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................................ 70
Chương 3. DẤU ẤN CỦA TRIẾT LÝ HIỆN SINH TRONG TIỂU THUYẾT
ĐÔ THỊ MIỀN NAM TRƯỚC 1975 NHÌN TỪ BÌNH DIỆN
PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ .............................................................................. 71
3.1. Dấu ấn triết lý hiện sinh qua phương thức kết cấu và tổ chức cốt truyện........... 71
3.1.1. Tình tiết bất ngờ, hồi hộp ................................................................................... 71
3.1.2. Kết thúc mở.......................................................................................................... 75
3.2. Dấu ấn triết lý hiện sinh qua phương thức xây dựng nhân vật............................. 78
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật .................................................................. 78
3.2.2. Sự khám phá con người từ góc nhìn phân tâm học......................................... 82
3.3. Dấu ấn của triết lý hiện sinh trong phương thức kiến tạo diễn ngôn................... 87
3.3.1. Triết lý hiện sinh trong diễn ngôn của người kể chuyện ................................ 88
3.3.2. Triết lý hiện sinh trong diễn ngôn của nhân vật .............................................. 96
3.3.3. Sự hòa phối giữa diễn ngôn người kể chuyện và diễn ngôn nhân vật ........ 101

3.4. Giọng điệu đa dạng, độc đáo .................................................................................. 105
3.4.1. Giọng triết lý thâm trầm ................................................................................... 106
3.4.2. Giọng trữ tình sâu lắng ..................................................................................... 109
3.4.3. Giọng mỉa mai dí dỏm ...................................................................................... 112
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................................. 116
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 117
TÁC PHẨM KHẢO SÁT ................................................................................................ 120
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 121
PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Chủ nghĩa hiện sinh là một trào lưu triết học xuất hiện đầu tiên ở Đức dưới sự
ảnh hưởng của thế chiến thứ nhất và phát triển mạnh mẽ ở các nước phương Tây vào
đầu thế kỉ XX. Bối cảnh xã hội thời chiến đã khiến cho con người cảm thấy bơ vơ, lạc
lõng giữa cuộc đời, nghi ngờ, mất niềm tin vào các giá trị hiện tại, mù mịt phương
hướng cho tương lai. Chính vì vậy con người cảm thấy “buồn nơn”, “phi lý”, “cô
đơn”, “chán nản”. Văn học hiện sinh bắt đầu nảy nở và đi vào phản ánh những hiện
tượng bất trắc của thực tế xã hội, bày tỏ cảm giác cơ đơn của con người đồng thời cịn
thể hiện thái độ phản kháng đối với thực tế ấy bằng sự “nổi loạn”. Cuộc chiến tranh
khốc liệt những năm năm mươi của thế kỉ hai mươi đã đem đến hậu quả tất yếu là xã
hội miền Nam Việt Nam rối ren, hỗn độn. Đó chính là mảnh đất màu mỡ, thuận lợi để
văn học hiện sinh phát triển một cách tự nhiên và hợp lý nhất. Những tư tưởng về
khẳng định nhân vị, tự do, lo âu… của chủ nghĩa hiện sinh đã được các nhà tiểu thuyết
ở đô thị miền Nam Việt Nam trước 1975 thể hiện rõ nét trong các tác phẩm văn học.
Muốn nắm bắt được những tâm tư, tình cảm, quan niệm, suy nghĩ của con người trước
thời cuộc, chúng ta nên đọc và hiểu những thông điệp mà các nhà văn gửi gắm qua tác

phẩm của mình.
Trong dịng lịch sử văn học dân tộc, độc giả chưa được giới thiệu và tiếp nhận rộng
rãi một bộ phân văn học đó là văn học hiện sinh ở đô thị miền Nam trước 1975. Chiến
tranh với cảnh chết chóc, mất mát, tang thương tạo nên tâm lý chán nản, cô đơn, bế tắc
và sự nổi loạn của giới trẻ. Đó là ngun nhân lí giải vì sao các tác phẩm ở đô thị miền
Nam trước 1975 lại có âm hưởng trầm uất, u buồn. Hơn nữa do một số nguyên nhân
khách quan khác, việc nhìn nhận và đánh giá văn chương hiện sinh ở đô thị miền Nam
trước 1975 chưa được xác đáng, tích cực.
Nhận thấy được vai trị và vị trí của bộ phận văn học này đối với đời sống đô thị
và con người miền Nam trong giai đoạn trước 1975, người viết mong muốn được trình
bày những hiểu biết của bản thân qua việc tiếp nhận tiểu thuyết miền Nam trong luận
văn “Triết lý hiện sinh trong tiểu thuyết ở đô thị miền Nam trước 1975”. Từ đó ở
một mức độ nhất định, giúp người đọc có sự nhìn nhận và đánh giá tiểu thuyết ở đô thị


2

miền Nam nói riêng và của văn học miền Nam nói chung một cách tồn diện và khách
quan theo hướng tích cực hơn nhằm trả lại những giá trị vốn có của bộ phận văn học
này đối với văn học nước nhà.
Từ hai lý do trên, chúng tôi chọn “Triết lý hiện sinh trong tiểu thuyết ở đô thị miền
Nam trước 1975” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
a. Khảo sát những cơng trình nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh và văn học hiện
sinh ở miền Nam trước 1975
Văn học mang hơi hướng hiện sinh xuất hiện ở đô thị miền Nam Việt Nam từ
rất sớm với những nhà văn thấm nhuần những tư tưởng của các nhà hiện sinh chủ
nghĩa và chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của văn học hiện sinh phương Tây đặc biệt là
văn học Pháp. Cùng với sự ra đời của văn học hiện sinh, các nhà phê bình nghiên cứu
cũng đã có những bước khởi động trong việc bình phẩm “mổ xẻ” những nội dung, tư

tưởng chứa đựng trong nó. Tất nhiên, một trào lưu văn học ra đời trong hoàn cảnh
chiến tranh với sự chồng chéo của nhiều khuynh hướng văn học không thể tránh khỏi
những luồng dư luận trái chiều. Văn học hiện sinh ở đô thị miền Nam trước 1975 cũng
thế, nó đã khiến cho giới phê bình tốn khơng ít nhiều giấy mực để luận bàn, tranh cãi
một thời và tận đến ngày hôm nay.
Nguyễn Trọng Văn trong “Những người con hoang của Nguyễn Văn Trung”
tạp chí Bách khoa số 264, Sài Gịn, ngày 1 tháng 1 năm 1968 đã cho rằng văn chương
hiện sinh là một thứ “làm dáng trí thức”. Do ảnh hưởng phức tạp và có những “biến
dị” trong cách tiếp nhận chủ nghĩa hiện sinh, một số phận thanh niên bế tắc trong cuộc
sống đã có những phản ứng “nổi loạn” bằng lối sống phóng khống, bng thả. Vì thế,
qua việc sử dụng hình ảnh “Những đứa con hoang của Nguyễn Văn Trung”, Nguyễn
Trọng Văn đã lên tiếng cảnh báo về hậu quả của việc truyền bá chủ nghĩa hiện sinh
vào đời sống đô thị miền Nam cũng như việc thể hiện những tư tưởng của nó trong văn
học.
Trong “Nghĩ về văn chương hiện sinh hay là tính chất sì nốp bít của xã hội
miền Nam” Nghiên cứu văn học số 6, Sài Gòn, tháng 6 năm 1968. Nhà văn Thế
Nguyên mạnh mẽ phê phán những biểu hiện của điều mà ơng gọi là “tính chất sì-nốp-


3

bít” (thói học địi làm sang) của xã hội miền Nam. Ơng bài bác thứ “văn chương hiện
sinh” “theo đi”, “làm dáng”, đồng thời đề cao văn chương hiện sinh dấn thân, trong
đó con người phản tỉnh về thân phận của mình, thơng qua những kinh nghiệm sống
trong một hồn cảnh cực đoan của đất nước.
Phạm Văn Sĩ trong “Về tư tưởng và văn học phương Tây hiện đại” đã trình bày
những quan niệm của các nhà hiện sinh chủ nghĩa. Bên cạnh việc tác giả thừa nhận
những giá trị của văn học hiện sinh phương Tây, ông vẫn phê phán đối với một số
phạm trù tư tưởng của chủ nghĩa hiện sinh. Chính vì thế, khi áp vào những tiêu chí ấy
vào văn học hiện sinh miền Nam ơng đã cho rằng: “Văn học hiện sinh ở Sài Gòn ít có

cái dáng vẻ cao đạo, cái dáng siêu thốt như một số truyện ở Phương Tây, cũng ít có
băn khoăn day dứt về thân phận con người như ở Châu Âu” [130, tr.12].
Gay gắt hơn cả, ta không thể không kể đến những lập luận dẫn đến việc “quy án”
“kết tội” văn học hiện sinh ở đô thị miền Nam của Đỗ Đức Hiểu trong chuyên luận
“Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa” năm 1978. Bằnng những lí lẽ trên lập
trường chính trị, Đỗ Đức Hiểu đã phủ nhận tất cả những nội dung mà văn học hiện
sinh miền Nam đem lại và hơn nữa tác giả đã khẳng định văn học hiện sinh miền Nam
là dòng văn học “phản động”. Ơng cho rằng: “Có thể nói, cái bộ phận văn học đó
khơng thể gọi là văn học hiện sinh chủ nghĩa. Khốc lên mình những danh từ của triết
học hiện sinh, số tác phẩm cụ thể trên mang chủ yếu nội dung của chủ nghĩa thực
dụng Mỹ - chủ nghĩa thực dụng trong một hoàn cảnh đặc biệt: chiến tranh xâm lược;
nó đẫm máu và đồi bại. Hung bạo và đầy tính dục, hai tính chất này phục vụ trực tiếp
“quân đội viễn chinh Mỹ.” [76, tr.5]. Tuy nhiên có thể thấy, ngay sau khi đất nước
thống nhất, văn học nước nhà vẫn cịn trơi theo dịng chảy ngợi ca những chiến công
hào hùng gắn liền với nhiệm vụ thống nhất đất nước, đồng thời do hoàn cảnh lịch sử
khách quan, tác giả chưa được tiếp cận nhiều tác phẩm văn học ở đô thị miền Nam
trước 1975. Vì vậy tác giả có ý kiến trái chiều như vậy cũng là điều dễ hiểu. Về sau
chính tác giả là người điều chỉnh lại quan niệm của mình đối với văn học miền Nam
trước 1975.
Bên cạnh những ý kiến phê phán, lên án văn chương hiện sinh, vẫn có những
nhìn nhận, đánh giá của các nhà nghiên cứu theo hướng đi sâu vào cốt lõi bên trong


4

vấn đề để tìm ra nguồn cội của việc biểu hiện những tư tưởng hiện sinh trong văn
chương ở đô thị miền Nam trước 1975.
Cung Tích Biền – một nhà văn nằm trong khuynh hướng ảnh hưởng của chủ
nghĩa hiện sinh đã khẳng định những đóng góp khơng thể chối cãi của chủ nghĩa hiện
sinh đối với văn học miền Nam lúc bấy giờ. Ơng nhận xét “Do có đồng khí tương cầu,

chủ nghĩa hiện sinh đã có đất gieo mầm tại miền Nam một thời. Nó là dịng chảy, từ tư
duy đến hành động, thái độ sống, nơi mỗi cá thể thành một những tập thể quần chúng,
từ cục bộ trí thức đã lan tỏa đến một tầng lớp xã hội; ảnh hưởng trực tiếp tới nhiều
lãnh vực văn chương nghệ thuật, âm nhạc, hội họa” [28, tr.2].
Viết về chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam Việt Nam một cách khái qt và tồn
diện khơng thể khơng kể đến “Chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam Việt Nam 1954 1975 (trên bình diện lý thuyết) của tác giả Huỳnh Như Phương. Bài viết như một cơng
trình thu gọn lịch sử nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam Việt Nam trên bình
diện lý thuyết. Tác giả đã khái quát sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam
Việt Nam trên ba bình diện, đó là: bình diện lý thuyết triết học và văn học, bình diện
sáng tác văn học, bình diện thái độ sống. Từ đó tác giả đã đưa đến ba nhận xét cơ bản
sau đây: “Thứ nhất có thể khẳng định rằng đại học miền Nam, tập trung các trường
đại học Văn khoa Sài Gịn và Huế, Viện đại học Vạn Hạnh, đóng vai trò rất quan
trọng. Việc giới thiệu và giảng dạy rộng rãi, đa dạng các khuynh hướng triết học và
văn học hiện sinh, một phần thỏa mãn nhu cầu có tính thời thượng của cơng chúng,
phần khác đáp ứng một địi hỏi về kiến thức toàn diện mà đại học trang bị cho sinh
viên… Thứ hai, có những phân hóa rất lớn trong việc tiếp nhận chủ nghĩa hiện sinh ở
miền Nam… Thứ ba, như một hệ quả của tình hình đó, là sự chuyển hóa và đa dạng
trong cách nhìn và tiếng nói lý giải chủ nghĩa hiện sinh…” [121].
Nguyễn Tiến Dũng trong “Chủ nghĩa hiện sinh: lịch sử, sự hiện diện ở Việt
Nam” đã đi vào khái quát sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa hiện sinh, sự hiện diện
của nó ở Việt Nam đặc biệt ở đô thị miền Nam Việt Nam qua sáng tác của một số tác
giả như Nguyễn Thị Hoàng, Thanh Tâm Tuyền, Duyên Anh,…Tác giả cho rằng:
“phần lớn các tác giả nhận thấy đời là vô nghĩa đến tận cùng, cuộc đời là nhạt nhẽo,
cuộc đời là vô vị, cuộc đời là phi lí và cuộc đời thật đáng buồn. Họ vùng vẫy để thoát


5

khỏi cuộc sống đơn điệu. Người ta nói nhiều đến cô đơn, đến cái chết…thể hiện sự bi
quan đến cùng cực” [42]. Theo ơng “chưa có một trào lưu văn học nào như văn học

hiện sinh mà chỉ trong một thời gian ngắn đã cho ra đời một khối lượng đến thế…”
[42].
Nhà nghiên cứu Trần Hồi Anh trong “Lí luận phê bình văn học đơ thị miền
Nam 1954 - 1975” trong mục 3.1.3.1 viết về chủ nghĩa hiện sinh và văn học hiện sinh
ở đô thị miền Nam, tác giả đã đề cập đến việc ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh đối
với văn học ở đô thị miền Nam trên hai phương diện đó là nội dung tư tưởng và hình
thức biểu hiện. Đặc biệt tác giả đã liệt kê một số các tác phẩm thể hiện sự ảnh hưởng
của chủ nghĩa hiện sinh ở ngay tên gọi như Con sâu, Đêm tóc rối (Dương Nghiễm
Mậu); Thở dài, Hơi thở rướn cong, Tơi nhìn tơi trên vách, Những sợi sắc không (Túy
Hồng); Chiều mênh mông, Thú hoang, Đêm tối bao la, Lao vào lửa (Nguyễn Thị Thụy
Vũ);…Và những tác phẩm mang đậm khơng khí hiện sinh với những phạm trù “hư
vô”, “lo âu”, “tha nhân”, “cuộc đời hư vô phi lí” như Nắng qua sơng (Trịnh Thị Diệu
Tân), Cát lầy (Thanh Tâm Tuyền), Con sâu (Dương Nghiễm Mậu), Ngựa chứng trong
sân trường (Duyên Anh). Từ đó tác giả khái quát “Như vậy, hầu hết các phạm trù cơ
bản của triết học hiện sinh đã ảnh hưởng sâu sắc đến sáng tác văn học ở đô thị miền
Nam. Đây là con đường để chủ nghĩa hiện sinh thâm nhập vào đời sống của xã hội
thành thị miền Nam. Và là một trong những tiền đề để hình thành khuynh hướng phê
bình hiện sinh ở đơ thị miền Nam trước 1975” [15].
Tác giả Nguyễn Phúc trong “Khảo sát sự du nhập của phân tâm học và chủ
nghĩa hiện sinh vào văn học đô thị miền nam trước năm 1975” đã khẳng định ảnh
hưởng của phân tâm học và chủ nghĩa hiện sinh vào văn học đô thị miền Nam trước
năm 1975. Tác giả đã có cái nhìn khách quan khi đánh giá những giá trị của văn học
hiện sinh miền Nam 1954 -1975. Ông khẳng định rằng: “Với cách tiếp cận con người
và phương pháp luận, văn học, kịch nghệ hiện sinh đơ thị miền Nam trước 1975 đã có
một đóng góp mới trong tiến trình văn học, kịch nghệ hiện đại ở các đô thị miền Nam
Việt Nam. Triết học, văn học kịch nghê hiện sinh đã có được một vị trí đáng kể về bản
thể luận, nhận thức luận trong lịch sử triết học, văn học đô thị miền Nam trước đây.”
[119].



6

Luận án “Vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết đô thị miền Nam
1954 - 1975” của Nguyễn Thị Việt Nga đã chỉ ra được những biểu hiện của thân phận
con người trong tiểu thuyết hiện sinh ở đô thị miền Nam như: thân phận đau khổ, nỗi
cô đơn, bơ vơ giữa thời cuộc, sự lo âu, sợ hãi, mất niềm tin vào cuộc sống. Tác giả đã
chỉ ra hình ảnh “con người cơ độc trong một thế giới phi lý”, “con người cô độc trong
cả không gian, thời gian”, con người “nổi loạn” trong tuyệt vọng và bị ám ảnh bởi cái
chết… trong các sáng tác của các nhà tiểu thuyết hiện sinh ở đô thị miền Nam. Tác giả
đã đưa ra nhận định: “triết học hiện sinh – triết học về thân phận con người du nhập
vào đơ thị miền Nam nhanh chóng được ưa chuộng và ảnh hưởng của nó in đậm trong
lối sống cũng như trong sáng tác văn học nghệ thuật. Tiểu thuyết đô thị miền Nam đã,
cất lên tiếng nói thấm thía về thân phận con người trong chiến tranh” [109].
Ngoài ra, luận văn Thạc sĩ “Triết lý hiện sinh trong thơ Bùi Giáng” của Huỳnh
Thị Diễm Diễm đã đi sâu tìm hiểu và nhận diện dấu ấn hiện sinh trong thơ Bùi Giáng.
Tác giả luận văn đã khai thác dấu ấn hiện sinh trong thơ Bùi Giáng qua cái tơi trữ tình
và phương thức biểu hiện. Từ đó góp thêm tiếng nói khẳng định vị thế của nhà thơ
trong tiến trình vận động và phát triển thơ Việt Nam hiện đại. Qua luận văn, tác giả
cũng đã có những nhận định xác đáng về sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh đến
với các thể loại văn học đặc biệt là tiểu thuyết và thơ ca: “Trong sáng tác văn học đô
thị miền Nam 1954 - 1975 chủ nghĩa hiện sinh đã để lại dấu ấn trên tất cả các thể loại
nhưng sâu đậm nhất vẫn là tiểu thuyết là thơ ca. Tiểu thuyết thời kì này “khơng chỉ
phản ánh hiện thực” mà “suy ngẫm về hiện thực”, “áp sát hiện thực”. Nó đi vào thân
phận cá nhân với tư cách là nhân vị. Thơ ca trĩu nặng nỗi buồn đau về sự mong manh,
hư vô của kiếp người và cái chết, sự đổ vỡ của niềm tin mơ ước. Các nhà văn, nhà thơ
tiêu biểu: Thanh Tâm Tuyền, Duyên Anh, Nguyễn Thị Hoàng; Bùi Giáng, Du Tử Lê,
Nguyên Sa,...” [38]. Dù nghiên cứu “Triết lý hiện sinh trong tiểu thuyết Việt nam đầu
thế kỉ XXI” không đồng mốc thời gian nghiên cứu của chúng tôi, song luận văn này
của Nguyễn Tiến Dũng cũng là nguồn tư liệu q giá vì cơng trình đã có những quan
niệm mới mẻ về chủ nghĩa hiện sinh với những lý giải thú vị và hợp lý “Thế giới quan

đa chân lý sẽ góp phần hình thành thế giới phi lý. Hơn nữa, chủ thể nhận thức về thế
giới là con người; mà theo quan niệm hiện sinh, con người bị ném ngẫu nhiên vào thế


7

giới, bị quăng quật, lơi kéo, đưa đẩy, tha hóa… Hệ lụy là con người với tư cách là chủ
thể quan sát sẽ cảm thấy thế giới đời hết sức phi lý. Thế giới phi lý sẽ nảy sinh những
con người mang tâm thức phi hiện sinh và là môi trường phản tỉnh cho con người hiện
sinh.”[43].
b. Khảo sát những cơng trình nghiên cứu về ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh
đối với những tiểu thuyết ở đô thị miền Nam trước 1975
Việc nghiên cứu tiểu thuyết hiện sinh ở đô thị miền Nam trước năm 1975 cũng
vậy, phần lớn xuất hiện ở báo chí miền Bắc đặc biệt trên tờ Nghiên cứu văn học (Tạp
chí văn học). Có khá nhiều bài báo viết về tiểu thuyết ở đô thị miền Nam, tuy nhiên
khuynh hướng chung của những bài viết này là lên án, phê phán các tác phẩm này và
coi đó là những tác phẩm chạy theo đồng tiền, các nhà văn đã “sa vào cái mê hồn trận
của chủ nghĩa hiện sinh, của các trào lưu tiểu thuyết mới, tượng trưng, siêu thực”.
Nguyễn Tiến Dũng trong “Chủ nghĩa hiện sinh: lịch sử, sự hiện diện ở Việt
Nam” đã chỉ ra những ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh trong nhiều tác giả cụ thể
như Nguyễn Thị Hoàng, Thanh Tâm Tuyền. Nguyễn Thị Hồng ví cuộc sống như một
“thành lũy hư vơ”. Ở đó “chẳng có gì khác hơn là sự tìm gặp vội vã trong chán
chường của những con đực và con cái”; “khơng có ánh sáng rực rỡ của sửng sốt ngạc
nhiên và nồng nàn của xôn xao, rung cảm”. Cịn Thanh Tâm Tuyền “nhìn đời thấy đời
như một bãi cát lầy, ở đó chỉ có những kiếp sống nhầy nhụa, lầm lỗi trong tuyệt vọng
và tôi khơng tìm thấy tơi. Tơi khơng tìm thấy mình ở ngồi khơng gian và thời gian, ở
ngồi cơ thể tơi”. Duyên Anh thì thấy “tuổi trẻ đã là sa mạc – cái khởi đầu của một
đời người cũng vẫn chỉ là một sa mạc hoang vắng; và trong cái hoang vắng đó, người
ta muốn quên đi bằng cách thỏa mãn bản năng của mình để rồi cuối cùng nhấn chìm
cái thân xác đang hiện hữu xuống đáy mồ cô tịch” [42, tr.130].

Văn học hiện sinh miền Nam nói chung tuy thu hút được nhiều sự quan tâm, bàn
luận sôi nổi, thế nhưng việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh trong
một tác giả cụ thể còn rất khiêm tốn. Có thể kể đến một số nhận định riêng về Nguyễn
Thị Hoàng, Thanh Tâm Tuyền, Duyên Anh, như sau:
Võ Phiến trong bộ “Tổng quan văn học miền Nam” đã nhận xét về nhà văn
Nguyễn Thị Hoàng: “Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng sau khi nổi tiếng với tiểu thuyết


8

Vòng tay học trò cũng cho ra đời một số sáng tác khác của bà. Những tiểu thuyết thể
hiện nỗ lực làm mới chính mình của bà, vì e ngại các nhà xuất bản có thể khơng muốn
in, bà đã tự in lấy dươi bảng hiệu Hồng Phương Đơng” [118], và có đánh giá cao vai
trị của Chu Tử đối với văn học miền Nam “nếu cần nhắc đến vai trị của một đơi cá
nhân, thật khơng thể qn Chu Tử. Nhà văn ấy cũng là một nhà báo có biệt tài, nhiều
sáng kiến, can đảm, mưu cơ… Chu Tử viết truyện được nhiều người khoái, mà làm
báo cũng khiến nhiều người khoái quá trời, bất luận là cao hay thấp, người ta khối
ơng, khối cái phong cách ơng trong cuộc sống cũng như trong văn chương” [118].
Trần Vũ trong cuộc nói chuyện với Thụy Khuê trên đài RFI phát lại ngày
13/4/2009 cũng cho rằng: “Tiểu thuyết với Nguyễn Thị Hoàng là một lựa chọn khoảnh
khắc, của tác giả, của cả người đọc. Nhà văn, độc giả gặp nhau trong khoảnh khắc
này, những gì xảy ra trước, xảy ra sau, xảy ra xung quanh đều thuộc về xã hội” [91].
Trong cuốn “Các nhà văn nữ Việt Nam 1900 - 1970”, Uyên Thao đã nhận xét về
Nguyễn Thị Hoàng: “Con đường của Nguyễn Thị Hoàng là con đường dẫn tới vũ trụ
riêng của mỗi con người hay đúng hơn là vũ trụ con người. Nguyễn Thị Hoàng theo
dõi các nhân vật tiểu thuyết của mình về nơi đó để nhận diện nhân vật với tư cách con
người” [138].
Trong “Tổng quan văn học miền Nam”, Võ Phiến đã ưu ái khi viết rất nhiều về
Duyên Anh. Ông cho rằng cái “chất hiện sinh” hiện hữu trong giọng văn, cách xây
dựng nhân vật với những cái tên thật không kiêng dè, nể sợ. Theo ơng, trong nhà văn

Dun Anh có tới hai tác giả. Một là tác giả viết tiểu thuyết với những tình cảm dạt
dào, thi vị, lãng mạn đối với những kỉ niệm ngọt ngào thời quá khứ. Một là tác giả của
thái độ phản kháng, táo bạo, manh động. Và “cả hai phương diện đều biểu hiện trung
thực Duyên Anh, đều bắt nguồn sâu thẳm tâm hồn ông” [118].
Huỳnh Phan Anh trong “Duyên Anh tuổi trẻ mộng và thực” cho rằng sở dĩ
Dun Anh có vị trí đặc biệt trong văn học đô thị ở miền Nam là do tác phẩm của ơng
có sự gắn bó thiết tha với những số phận con người nhiều ước mơ hoài bão những loay
hoay khơng tìm thấy đích đến của cuộc đời. Đó cũng chính là sự ảnh hưởng của chủ
nghĩa hiện sinh trong sáng tác của ông. Và “sự gần gũi cuộc đời, bóng dáng những
thân phận con người trong cuộc đời thực nhiều nhọc nhằn, cay đắng được thể hiện


9

chân thực trong tác phẩm Duyên Anh đã đưa ông trở thành hiện tượng tác giả có sách
bán chạy nhất mọi thời đại này” [11, tr.50].
Đến nay các cơng trình nghiên cứu đã quan tâm hơn đến việc đi vào các tác
phẩm của các nhà văn để tìm hiểu và khám phá. Nguyễn Vy Khanh trong Nhà văn
Duyên Anh đã nêu ra một cách khái quát những đề tài trong tiểu thuyết của nhà văn
Duyên Anh bao gồm: tình yêu quê hương, gia đình; tuổi thơ; tuổi trẻ; tình yêu; xã hội
thời đại. Với cách viết giản dị, trong sáng, nhà văn Duyên Anh đã trở thành một “hiện
tượng văn học” vì tác phẩm của ơng đã đáp ứng được những nhu cầu của thời đại. Tác
giả cho rằng “Duyên Anh đã tạo dựng những thần tượng tuổi thơ hiền lành nhưng hiểu
biết trong tiểu thuyết, nhưng những thần tượng tuổi thơ này đã vượt thế giới tiểu
thuyết để đi vào cuộc đời, đã ảnh hưởng giới trẻ trong Nam.” [85].
Cùng tác giả Nguyễn Vy Khanh trong “Nhân vật tiểu thuyết của Thanh Tâm
Tuyền”, ơng đã đi vào phân tích những kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của Thanh Tâm
Tuyền ở các tác phẩm: Bếp lửa, Khuôn mặt, Dọc đường, Tiếng động, Cát lầy, Một chủ
nhật khác, Ba chị em. Từ đó, tác giả đã đưa ra nhận xét nhân vật trong tiểu thuyết của
Thanh Tâm Tuyền “Nhân vật trong thế giới tiểu thuyết của Thanh Tâm Tuyền tự kỷ, ái

kỷ đôi khi đến bệnh hoạn, muốn phá hủy tha nhân, trở nên nguy hiểm vì chúng biết
hóa trang, ngụy tạo!” [86]. Qua việc phân tích sâu và gắn mỗi tác phẩm với mỗi mốc
thời gian vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tác giả Vy Khanh đã chứng tỏ tài phản ánh tâm
trạng nhân vật, có khi cầu kỳ khó hiểu của Thanh Tâm Tuyền. Ơng cho người đọc
nhận ra rằng nhân vật trong tiểu thuyết của Thanh Tâm Tuyền mang đặc điểm lạc lồi,
cơ độc, đầy “hồi nghi tư duy” và “tiêu cực hành động”.
Viết về Mai Thảo với tất cả tình yêu thương, ngưỡng mộ, Nguyễn Mộng Giác trên
Tạp chí Văn học, số 143, tháng 3 năm 1998 đã bày tỏ “Những nhà nghiên cứu phê
bình văn học sau này có thể khơng đồng ý với nhau về văn chương Mai Thảo và ảnh
hưởng thực sự của nhóm Sáng Tạo đối với văn học Miền Nam, nhưng trong sinh hoạt
văn hóa của Miền Nam suốt hai mươi năm (1955-1975), khơng ai có thể phủ nhận
được ảnh hưởng lớn lao của Mai Thảo. Anh gây thành một phong trào viết óng ả chải
chuốt như lối viết của anh, lối viết đó lan sang giới truyền thanh qua những lời giới
thiệu bài hát, chương trình Tao đàn, và cho tới bây giờ, đã trở thành cái nếp không thể


10

bỏ được, làm nhịp cầu giữa ca nhạc và văn chương. Anh tạo thành một thế lực văn
hóa ảnh hưởng lan rộng qua nhiều ngành, từ văn chương, báo chí, xuất bản, qua ca
nhạc, điện ảnh” [57].
Ngồi ra cịn có một số luận văn đã có những bước đầu tìm hiểu về dấu ấn hiện
sinh trong tiểu thuyết ở đô thị miền Nam trước năm 1975 của các tác giả cụ thể như:
Dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh qua thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Thị
Hoàng của tác giả Lê Thị Hoa. Luận văn đi vào tìm hiểu chủ nghĩa hiện sinh và một
số kiểu nhân vật và những tìm tịi nghệ thuật tiểu thuyết của Nguyễn Thị Hồng. Qua
đó cho thấy được giá trị văn chương của một tác giả trong dịng văn học đơ thị miền
Nam đã bị lãng qn, đồng thời góp phần tìm hiểu chung về văn học miền Nam 1954 1975.
Nhìn chung các bài nghiên cứu đánh giá về sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh
đối với tiểu thuyết ở đô thị miền Nam trước 1975, tuy chỉ mới dừng lại ở việc đưa ra

nhận định, đánh giá một cách chủ quan của người nghiên cứu nhưng cũng đã cung cấp
cho người đọc một cái nhìn bao quát về một trào lưu văn học sôi nổi với nhiều tên tuổi
tác giả và nhiều tác phẩm trên tất cả các lĩnh vực. Như vậy theo chúng tơi nhận thấy
chưa có cơng trình nghiên cứu nào đi sâu vào phân tích sự ảnh hưởng của chủ nghĩa
hiện sinh trên những bình diện cụ thể trong tiểu thuyết ở đô thị miền Nam như bình
diện nội dung tự sự, bình diện phương thức tự sự hoặc có chăng cũng chỉ đề cập một
cách riêng lẻ các bình diện trên của một số tác giả cụ thể. Có thể thấy rằng đề tài
“Triết lý hiện sinh trong tiểu thuyết ở đô thị miền Nam trước 1975” là một đề tài còn
khá mới mẻ.
Trên tinh thần tiếp thu những gợi mở của các nhà nghiên cứu đi trước người viết
muốn tìm tịi những dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh biểu hiện trong tiểu thuyết ở đơ thị
miền Nam trước 1975 nhằm góp phần nhận diện chung cho nền văn học miền Nam
giai đoạn 1954 - 1975.
3. Phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Như trên đề tài đã xác định rõ, đối tượng nghiên cứu của luận văn là Triết lý hiện
sinh trong tiểu thuyết ở đô thị miền Nam trước 1975.


11

b. Phạm vi tư liệu khảo sát
Trước năm 1975 ở miền Nam Việt Nam nở rộ phong trào nghiên cứu triết học
hiện sinh và văn học hiện sinh phương Tây. Đời sống văn học miền Nam cũng có
nhiều chuyển biến mới mẻ, các nhà tiểu thuyết với bút lực dồi dào đã cho ra đời hàng
loạt tác phẩm biểu hiện tinh thần hiện sinh mạnh mẽ. Tuy nhiên với đề tài này, trong
khoảng thời gian và khả năng nghiên cứu có hạn, chúng tơi xin được nghiên cứu
“khoanh vùng” trong một nhóm tác giả Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Thị Hồng, Mai
Thảo, Duyên Anh, Chu Tử. Sở dĩ chọn năm tác giả này vì những lí do cụ thể theo dựa
vào mục đích đưa ra ở trên của luận văn. Thứ nhất, Thanh Tâm Tuyền là một nhà tiểu

thuyết rất có ý thức trong việc cách tân lối viết, cách tổ chức cốt truyện, cách xây dựng
nhân vật trong tiểu thuyết của mình. Đồng thời xoay quanh vấn đề “nhân vị”, Thanh
Tâm Tuyền đã xây dựng trong tiểu thuyết của mình những nhân vật có lý tưởng, “dấn
thân” vì mục tiêu cao cả nhưng càng hi vọng lại càng nhận lấy thất vọng đau thương,
bế tắc hoặc những nhân vật ngay từ đầu đã nhận ra sự nhàm chán, phi lý của cuộc đời,
cố gắng thoát chạy những lại càng bị “cột chặt” ở cuộc đời đó dẫn đến những cuộc
sống tha hóa cơ đơn. Thứ hai, chúng tơi chọn tiểu thuyết Nguyễn Thi Hoàng làm đối
tượng khảo sát bởi đây là một tác giả nữ với những nhìn nhận những vấn đề của triết
học hiện sinh rất “phụ nữ”. Những trăn trở về tình u, hiện thực, cuộc sống có phần
táo bạo, “nổi loạn”, muốn bứt phá vươn lên khỏi những rào cản định kiến cũ nhằm
khẳng định “cái tôi” hiện sinh, mang đến cho người đọc những đồng cảm, suy ngẫm.
Thứ ba, chúng tơi chọn Mai Thảo vì ơng viết khá nhiều tác phẩm ở các thể loại, đặc
biệt với tiểu thuyết ơng đã có cách nhìn nhận về hiện thực cuộc sống độc đáo, phản
ánh được “cơn sóng ngầm” của thời đại và gắn liền với những tư tưởng của chủ nghĩa
hiện sinh. Thứ tư, chúng tôi đặt nhà văn Duyên Anh cạnh các tác giả trên vì ở Duyên
Anh có “sự nổi loạn”, phản ứng lại với thời cuộc của những con người bất đắc chí bên
trong nhưng lại khéo được “che đậy” bởi lối viết nhẹ nhàng, dí dỏm. Đó là một phong
cách riêng, mới lạ nhưng lại nằm trong xu hướng chung vì thế cần được đặt vào trong
bối cảnh chung để lí giải và khám phá. Ngồi ra chúng tơi cịn tìm hiểu thêm hai tác
phẩm của Chu Tử vì nhà văn có sức sáng tạo dồi dào và có lượng độc giả đơng đảo, là
“một tâm hồn khắc khoải, ngang trái, suốt đời đi tìm và chung thân bất mãn”. Điều


12

đặc biệt là tác phẩm của ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa hiện sinh, mang
màu sắc rất riêng, để lại nhiều ấn tượng cũng như gây ra những phản ứng trái chiều
của độc giả. Vì vậy chúng tơi muốn tìm hiều sâu hơn để trả lại giá trị khách quan của
tác phẩm cho nhà văn.
Ở mỗi tác giả, người viết cũng xin chọn lựa những tác phẩm được coi là tiêu biểu

để khai thác, nghiên cứu. Tư liệu khảo sát chính của luận văn là một số tiểu thuyết cụ
thể là: Cát lầy, Mù Khơi của Thanh Tâm Tuyền; Vòng tay học trò, Tuổi Saigon của
Nguyễn Thị Hoàng; Ảo vọng tuổi trẻ, Ngựa chứng nơi sân trường của Duyên Anh,
Sống chỉ một lần, Gần mười bảy tuổi của Mai Thảo, Yêu và Sống của Chu Tử.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dưới ánh sáng của lý thuyết phê bình hiện sinh và trên cơ sở tiếp cận, phân tích
các tác phẩm của các tác giả để làm rõ triết lý hiện sinh trong tiểu thuyết ở đô thị miền
Nam trước 1975, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu loại hình: tiểu thuyết là một loại hình văn học cho nên
trong q trình thực hiện, chúng tơi đã dựa vào đặc điểm về nội dung tư tưởng và
phương thức tự sự để triển khai những nội dung của luận văn phù hợp với yêu cầu của
loại hình tiểu thuyết.
- Phương pháp hệ thống: chúng tôi đã sử dụng phương pháp này để đặt đối tượng
nghiên cứu trong nhiều hệ thống và có nhiều cấp độ khác nhau đó là đặt tiểu thuyết
trong hệ thống sáng tác của tác giả; đặt sáng tác của một tác giả trong hệ thống lớn hơn
là văn học đơ thị miền Nam để có thể thấy được mối liên hệ giữa chúng với những tác
phẩm thuộc để loại khác, của dòng văn học khác về nội dung, tư tưởng,…
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: với cách tiếp cận này, chúng tôi không chỉ xem
xét tiểu thuyết là một loại hình của văn học riêng lẻ mà chúng tơi cịn vận dụng những
kiến thức tổng hợp về lịch sử, chính trị, văn hóa, tâm lý… liên quan đến ngôn ngữ học,
xã hội học, …
- Ngoài ra để thực hiện những phương pháp này chúng tôi đã sử dụng phối hợp các
thao tác như phân tích, tổng hợp, so sánh,…


13

5. Đóng góp của luận văn
Luận văn làm rõ Triết lý hiện sinh trong một số tiểu thuyết ở đô thị miền Nam
trước 1975 qua bình diện nội dung tự sự và bình diện phương thức tự sự trong sáng tác

của các nhà văn. Đây là một hướng tiếp cận khái qt có khả năng nhìn ra những đặc
điểm quan trọng của tiểu thuyết ở đô thị miền Nam trước năm 1975 góp phần tạo
khẳng định vị trí và vai trò chức năng của bộ phận văn học này đối với nền văn học
Việt Nam. Đồng thời chúng tôi cũng hi vọng luận văn sẽ là tiền đề để các tác giả sau
có thể đi sâu khám phá triết lý hiện sinh trong từng tác giả cụ thể để chúng ta vừa có
cái nhìn tồn diện bao qt vừa thấy được những nét nổi bật từng tác giả thời kì này
nhằm làm hồn chỉnh một bộ phận văn học ít được đi sâu tìm hiểu.
6. Cấu trúc luận văn
Ngồi phần mở đầu và kết luận, tư liệu tham khảo, mục lục; luận văn cấu tạo gồm
ba chương:
Chương 1: Chủ nghĩa hiện sinh và ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh trong văn
học đô thị miền Nam trước 1975
Chúng tôi đi vào tìm hiểu khái quát chủ nghĩa hiện sinh, những tư tưởng chính, sự
ảnh hưởng của nó đối với văn học đô thị miền Nam trước 1975 và xu hướng tiếp nhận
chủ nghĩa hiện sinh trong văn học đô thị miền Nam trước 1975 để có cái nhìn khái
qt và làm nền tảng cho việc triển khai nội dung của các chương sau.
Chương 2: Triết lý hiện sinh trong tiểu thuyết ở đơ thị miền Nam trước 1975 nhìn
từ bình diện nội dung tự sự
Ở chương này, chúng tôi tiếp cận triết lý hiện sinh ở một số tiểu thuyết ở đơ thị
miền Nam nhìn từ bình diện nội dung. Trong đó chúng tơi đề cập đến các nội dung
chính là khẳng định nhân vị và khát vọng dấn thân; sự biểu hiện của cái tôi bản thể cô
đơn; con người tha hóa.
Chương 3: Dấu ấn của triết lý hiện sinh trong tiểu thuyết miền Nam trước 1975
nhìn từ bình diện phương thức tự sự
Chương này giải quyết bốn vấn đề trọng tâm đó là phương thức kết cấu, tổ chức
cốt truyện; phương thức xây dựng nhân vật; phương thức kiến tạo diễn ngôn và giọng
điệu của tiểu thuyết đô thị miền Nam.


14


Chương 1
CHỦ NGHĨA HIỆN SINH VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN SINH
TRONG VĂN HỌC ĐÔ THỊ MIỀN NAM TRƯỚC 1975
1.1. Sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh là một trường phái triết học ra đời vào khoảng những năm đầu
thế kỉ XX sau đó sa vào trạng thái bão hịa và thối trào vào những năm 60 cùng thế
kỉ. Tuy nhiên có thể nói rằng chủ nghĩa hiện sinh từ lúc ra đời không chỉ phát triển
mạnh mẽ ở phương Tây mà những tư tưởng của trào lưu này cịn ảnh hưởng sâu rộng
và có sức lan tỏa lớn trên toàn thế giới. Ở chủ nghĩa hiện sinh, khuynh hướng phi lý
được thể hiện rõ ràng nhất, nó phản ánh tâm trạng bế tắc, hụt hẩng của con người đối
với nền văn minh hiện đại tư sản thế kỉ XX. Cho đến tận ngày nay, mỗi khi gặp đúng
“thời cơ” thuận lợi, những tư tưởng này lại được trỗi dậy và chuyển hóa linh hoạt
trong những hoàn cảnh cụ thể như những cuộc tái sinh âm ĩ trong đời sống xã hội và
văn học.
Xét về nguồn gốc của sự ra đời, chủ nghĩa hiện sinh ra đời chính là hệ quả tất yếu
của chiến tranh, cụ thể là Thế chiến I và thế chiến II. Chiến tranh đã phơi bày ra trước
mắt con người nhữg thảm cảnh kinh hoàng về số người chết, bị thương. Con người
lâm vào tình cảnh mất phương hướng mất niềm tin, cảm tưởng như mình chỉ là một
mắc xích vơ danh trong guồng máy cai trị của chiến tranh. Luật pháp, tôn giáo – nơi
con người nương tựa niềm tin cũng trở thành vô nghĩa. Con người mất hết niềm tin,
nghi ngờ tất cả các giá trị, lâm vào trạng thái chán nản, “buồn nôn”. Sau chiến tranh,
cuộc sống con người càng đi vào bế tắc. Chiến tranh đã tàn phá đi tất cả những gì con
người đã cố cơng xây dựng trong một thời gian dài kể cả niềm tin vào cuộc sống, thế
giới. Cùng với những đổ nát sau chiến tranh đó là sự sụp đổ của thế giới tinh thần con
người. Tinh thần con người trở nên yếu đuối, lạc lõng, mất niềm tin, chao đảo trước
thế cuộc. Ắt hẳn, sự chao đảo trong tâm hồn ấy cũng tạo nên tâm trạng bi quan, tuyệt
vọng và khi một khi một luồng tư tưởng mới ra đời sẽ nhận được sự quan tâm và đón
nhận nồng nhiệt của một bộ phận người nhạy cảm sâu sắc trước hoàn cảnh. Họ sẵn
sằng chuẩn bị tâm thế đón nhận những tư tưởng mới nhằm để xoa dịu tâm hồn đang bị



15

bao phủ bởi những mất mát mà họ phải gánh chịu ở hậu chiến. Đó là thời cơ để chủ
nghĩa hiện sinh ra đời và phát triển sâu rộng.
Ngoài ra, chủ nghĩa hiện sinh ra đời chính là sự phủ nhận và đi ngược lại với chủ
nghĩa duy lý – coi con người là một bộ phận, một mắc xích khơng thể thiếu trong q
trình hiện đại hóa. Thành tựu vượt bậc của nền công nghiệp tiên tiến và khoa học công
nghệ đã khiến con người mất đi chức năng làm chủ chính mình. Mọi vấn đề nhân sinh
đều được giải quyết bằng khoa học kỹ thuật. Nó coi thành tựu khoa học kĩ thuật là một
lực lượng đa năng, siêu hình có thể thống trị cả thế giới tinh thần của con người. Con
người chỉ đơn thuần là một dạng “máy móc đặc biệt” khơng thể thiếu trong quy trình
vận hành của nền cơng nghiệp hiện đại. Chủ nghĩa duy lý đã coi con người khơng cịn
là “con người” như vốn có. Nó tước đi của con người thế giới nội tâm bên trong, chiều
sâu tâm lý. Chính vì thế, chủ nghĩa duy lý đã bộc lộ những mặt trái và từ lâu nó có
những khủng hoảng nghiêm trọng. Sự khủng hoảng này là nền tảng cho sự ra đời của
chủ nghĩa hiện sinh. Sứ mệnh lớn lao của chủ nghĩa hiện sinh là địi lại những gì thuộc
về con người, phản ứng lại những tư tưởng lệch lạc của chủ nghĩa duy lý. Các triết gia
hiện sinh đã phủ nhận vai trò của khoa học và kĩ thuật bởi nó khơng đem lại hạnh phúc
cho con người mà ngược lại con người trở thành “nô lệ” phục dịch nó. Con người
khơng cịn làm chủ những hoạt động mang tính sáng tạo cá nhân của bản thân nữa mà
hoạt động theo sự cưỡng bức của máy móc, cơng nghệ. Vì thế con người mất đi tính cá
thể độc lập thể hiện sự độc đáo khác biệt của cá nhân mà đơn giản chỉ là thực hiện một
chức năng nào đó cho xã hội. Chính vì vậy, chủ nghĩa hiện sinh đòi hỏi con người phải
được trở về bản chất con người với những khát khao về tự do cá nhân, có đời sống nội
tâm, thế giới tinh thần phong phú, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Bên cạnh hai nền tảng về mặt lịch sử xã hội, chủ nghĩa hiện sinh ra đời cũng là sự
kế thừa những tư tưởng hiện sinh manh nha trước đó. Có thể kể đến hai luồng tư tưởng
sau: nhóm thứ nhất là nguồn ảnh hưởng bởi tư tưởng triết học của S. Kierkegaard, triết

học đời sống của A. Schopenhuaer, F. Nietzsche, hiện tượng luận E. Husserl. Nhóm
thứ hai là nguồn ảnh hưởng từ A. Augustin, B. Pascal, F. M. Dotstoevsky, F.
Kafka…Trong đó luồng tư tưởng thứ nhất có sự ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình


16

thành chủ nghĩa hiện sinh sau này. Có rất nhiều những nhà triết học tên tuổi đã góp
phần xây dựng những tư tưởng hồn thiện của chủ nghĩa hiện sinh.
Có thể kể đến tư tưởng hiện sinh của Socrate (470-399 TCN) với phương pháp
dạy học đối thoại. Ông cho rằng, con người chính là đối tượng của triết học với những
ứng xử mang bản chất con người. Tức là ông đã chú trọng chuyển đối tượng của triết
học từ thế giới vũ trụ sang con người.
Kierkegaard (1813 - 1855) và F. Nietzsche (1844 - 1900) là những nhà triết học
có công sáng lập ra chủ nghĩa hiện sinh mặc dù hồn tồn đối lập nhau trong quan
điểm. Chính sự đối lập về tư tưởng này đã dẫn đến việc ra đời của hai nhánh triết học:
Hữu thần (Kierkegaard) và vô thần (Nietzsche). Kierkegaard đã đi sâu phản ánh và có
ý kiến trái chiều với chủ nghĩa duy lí của Hê-ghen. Nếu như tư duy khoa học là khách
quan thì tư duy hiện sinh của ông gắn liền với thế giới nội tâm độc đáo và đầy phức
tạp của con người. Nếu tư duy khoa học không quan tâm đến cá thể đang tư duy hiện
sinh thì ơng lại quan tâm đến tư duy của mình, nó tồn tại trong tư duy ấy. Ông cũng đã
lưu tâm đến các khái niệm “lo âu”, “nghi ngờ”, “run sợ” vì ơng cho rằng sự tồn tại của
con người là bất ổn và khó tránh khỏi cái chết. Ơng cho rằng có ba giai đoạn hiện sinh:
hiếu mỹ, đạo hạnh và tôn giáo. Ở mỗi giai đoạn có những tơn chỉ khác nhau như ở giai
đoạn hiếu mỹ đề cao khoái lạc, giai đoạn đạo hành đề cao nhiệm vụ và giai đoạn tôn
giáo là giai đoạn phát triển cao nhất của con người. Những tư tưởng này của ông đến
tận một thế kỉ sau, vào khoảng 1945 mới bắt đầu xâm nhập và có vị thế mới trong đời
sống tinh thần của con người. Ông là người đã chống lại những tư tưởng trước đây coi
trọng vai trị của lý trí trong việc kiểm soát cuộc sống tự do của mỗi cá nhân. Ông coi
cuộc songs cá nhân ấy không thuộc quyền kiểm sốt và phán xét của lý trí. Chính vì

thế “Triết Kierkegaard là triết về đời sống, và là triết để mà sống cho ra người” “đem
con người về với cuộc đời và bản thân mình” tư tưởng triết học của ông “là một suy
tưởng sâu xa về cuộc đời vì thế nó mang tên là triết học hiện sinh, triết học về cuộc đời
con người” [24].
F. Nietzsche – ông tổ của hiện sinh vô thần, người đã kế thừa những tư
tưởng hiện sinh của Schopenheaur về giá trị ở tính chủ thể của con người. người. Theo
ông “đời sống là giá trị cao nhất, hiện sinh là giá trị uyên nguyên làm nền tảng cho


17

các giá trị khác” [11]. Ông kêu gọi con người hãy sống vì mình, theo những giá trị của
mình, hãy tự do trong khn khổ của bản thân mình chứ khơng phải vì người khác.
Con người chỉ chịu dưới quyền của mình, khơng làm nơ lệ cho bất cứ điều gì khác và
phải ln sáng tạo cho cuộc đời mình. Tức là ông đề cao sự “dấn thân” của con người.
Con người phải có sự vươn lên, khơng sống hài lòng thỏa mãn trong những ao tù nhạt
nhẽo theo những giá trị có sẵn. Với những tư tưởng mới mẻ, ông đã sẵn sàng tạo lập
giá trị con người để cho ra đời chủ nghĩa hiện sinh nhân vị.
Mặc dù hai ơng có những quan điểm chưa thơng nhất và có phần đối lập nhau
nhưng họ vẫn có những điểm chung xuất phát từ bản chất con người. Họ cùng quan
tâm đến những trải nghiệm mang tính chủ quan của con người hơn là những tác động
khách quan của thế giới bên ngoài. Họ đề cao đến những ước muốn khát khao và đi
sâu khám phá khả năng đấu tranh của mỗi cá nhân chống lại sự bế tắc nhàm chán của
cuộc sống hiện tại.
Bên cạnh Kierkegaard và Nietzsche, Pascal (1623-1662) cũng có những góp góp
quan trọng về mặt tư tưởng cho việc hình thành của chủ nghĩa hiện sinh. Pascal tư duy
về con người bất an với tư cách là một cá nhân cụ thể . Theo ơng “đó là bản chất thực
sự của anh ta. Chính nó làm cho ta khơng có khả năng biết một cách chính xác và
khơng biết hồn tồn một cái gì. Ta bơi lội trên mặt khoảng không mênh mông luôn
luôn bất an và vật vờ trôi dạt từ bờ này đến bờ bên kia” [15]. Tư tưởng này của ông

được các nhà hiện sinh đi sau kế thừa như Bacon, David Hume, Kant, Hesgel và cả
Mác.
Tuy nhiên chủ nghĩa hiện sinh kế thừa hầu hết tư tưởng của Hiện tượng luận của
Edmund Husserl (1859 – 1938). Ông cho rằng tất cả sự vật khơng “che giấu” thứ gì
bên trong nó, nó là chính nó và khi tiếp cận đối tượng cần mơ tả chúng như chúng đã
xuất hiện trước ý thức chứ không được dùng ý thức để suy diễn, mô tả lại theo ý kiến
chủ quan đã qua sự pha tạp và sự chi phối của các yếu tố khách quan đối với ý thức mà
hình thành. Nghĩa là chỉ nhận thức cái bản chất mà con người đã ý thức về sự vật.
Chính tư tưởng này mà E. Husserl được coi là người đặt nền móng lý luận cho chủ
nghĩa hiện sinh. Tuy nhiên, E. Husserl chỉ nhấn mạnh những hiện tượng của ý thức và
cái tôi đơn thuần mà chưa quan tâm đến cái tôi cụ thể, cái tôi kinh nghiệm… nên quan


18

niệm của ơng cịn nhuốm màu sắc chủ quan. Vì vậy giai đoạn hiện tượng luận này
cũng mau chóng chấm dứt nhường chỗ cho những tư tưởng mới của giai đoạn hiện
tượng luận thứ hai ra đời. Đó là chủ nghĩa hiện sinh từ cuối những năm hai mươi đến
cuối những năm năm mươi bắt đầu và nở rộ ở nước Pháp.
Nói tóm lại, chủ nghĩa hiện sinh ra đời dựa trên nền tảng của sự thay đổi nhanh
chóng của lịch sử xã hội, nhận thức và tư tưởng. Từ những mảnh tư tưởng hiện sinh có
trước của các nhà triết học vĩ đại, tư tưởng chủ đạo của nó là cổ vũ cho những gì thuộc
về con người, về thế giới tinh thần thấm đẫm chất nhân văn, sự hiện hữu của mỗi cá
nhân đối lập với chủ nghĩa duy lí. Đến thế kỉ XX chủ nghĩa hiện sinh đã trở thành một
trào lưu có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống xã hội của hầu hết các quốc gia trên
thế giới.
1.2. Những tư tưởng chính của Chủ nghĩa hiện sinh
1.2.1. Vấn đề “nhân vị” – vấn đề trung tâm của chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh là sự hội tụ của nhiều gương mặt những nhà triết học lớn
thuộc hai nhánh hữu thần (Karl Jaspers, Gabriel Marcel…) và vô thần (Martin

Heidegger, Jean Paul Sartre…). Ở họ có nhiều điểm khác biệt nhau nhưng ở họ đều đề
cập đến những vấn đề cơ bản nhất: con người như một nhân vị. Tức là triết học hiện
sinh là triết học về con người, hướng tới con người, tới sự hiện hữu của mỗi cá nhân.
Trái ngược với những triết gia cổ điển, họ quan tâm đến việc tìm kiếm ý nghĩa lớn lao
của vũ trụ mà đánh mất sự tồn tại của con người. Vấn đề trung tâm và thiết yếu mà chủ
nghĩa hiện sinh hướng đến là con người nhưng đó khơng phải con người chung chung
mang tính phổ quát, con người viết hoa của Aristot, mà là con người như một nhân vị,
là một cá thể độc lập phân biệt với các cá nhân con người khác trong xã hội, không
phải là con người vô danh. Đề cao chủ thể tính, chủ nghĩa hiện sinh quan niệm con
người khác loài vật bởi điểm khác nhau cơ bản là con người tự ý thức về sự tồn tại
hiện sinh của mình, có cuộc sống nội tâm và ý thức về thân phận mình trong thế giới
hiện tại. Con người hiện sinh ln hoạt động, khơng ép mình vào khn mẫu có sẵn,
hành động có ý thức và theo ý nguyện chủ quan. Tất cả những gì họ nhận thức được
đều xuất phát từ họ, do họ chứ không phải do một đấng tối cao là Thượng đế hay thần
linh ban phát, sắp đặt. Và để được hiện sinh, con người luôn tham vọng và hương tới


19

cái mà người ta muốn trở thành. Nếu không sẽ đứng tại chỗ, sẽ đánh mất, sẽ bỏ cuộc,
khơng cịn hiện sinh nữa. “Nhân vị của con người chính là hiện sinh của nó, mang bộ
mặt riêng biệt, đặc thù, xa lạ với mọi tính cách phổ quát. Chủ nghĩa hiện sinh chỉ quan
tâm đến cái gì hiện sinh, hay nói cách khác về sự hiện sinh của cái gì hiện sinh, mà
hiện sinh chỉ có ở con người, khơng có ở bất cứ vật nào” [41].
Theo các nhà hiện sinh, vấn đề “nhân vị” bao giờ cũng gắn liền với “tự do”. Tự
do ở đây không theo nghĩa là tự do chính trị, xã hội mà là tự do hiện sinh. Con người
hành động và ý thức hành động đó là phục vụ cho chính cuộc đời mình, thể hiện ý
nghĩa sự tồn tại của mình chứ khơng vì sự tồn tại của một mục đích thiêng liêng tối
cao nào khác. “Tự do” còn là chọn lấy một lối sống riêng, dám là mình, khơng rập
khn người khác và cũng không chịu sự áp bức theo khuôn khổ của người khác. Đó

là việc ý thức được sự tồn tại của mình là sự tồn tại của một cái tơi cá biệt, không
trùng lặp với bất cứ cái tôi nào khác. Sự hiện sinh ấy không phải do Trời ban phát mà
do việc lựa chọn cách tồn tại, sự vươn lên cái bình thường để tạo nên vị thế của riêng
mình. Sự tự lựa chọn đó của con người cũng là một giá trị hiện sinh tạo nên một “nhân
vị độc đáo”, vượt khỏi một cuộc sống tầm thường, sống chỉ để sinh tồn.
Bàn về vấn đề “nhân vị”, Trần Thái Đỉnh đã cho rằng: “Đề tài duy nhất của triết
hiện sinh là con người tại thế, con người cá vị với những điều kiện sinh hoạt nhất định
và định mệnh độc đáo của mỗi người. Rồi con người hiện sinh, tức nhân vị đó, được
chiêm nghiệm dưới nhiều khía cạnh khác nhau”[48, tr.35]. Vì con người là chủ thể
duy nhất ý thức về sự tồn tại của mình cho nên con người là thế giới thu nhỏ, không
phải là một thành phần vũ trụ như những thành phần khác. Chính vì thế, khi tồn tại con
người ln nỗ lực khẳng định nhân vị, tự tạo ra ý nghĩa cuộc sống cho chính mình.
Theo Trần Thái Đỉnh “Cuộc đời của đa số người ta đều mang vẻ tầm thường, buồn
nôn; cuộc đời đó là một phóng thể; vì thế, cần thiết chúng ta phải tỉnh ngộ, ý thức cao
quý về nhân vị của mình, do đó sinh ra ưu tư. Tuy nhiên sống vươn lên, vươn lên mãi,
bởi vì dừng lại là tự đặt mình vào cảnh chết của tinh thần. Đàng khác, cuộc đời là một
thử thách, đòi ta phải sáng suốt để quyết định, tự quyết. Trong tất cả mọi hành động
đó, tơi khơng thể ỷ lại vào người bên cạnh, lấy họ làm khuôn mẫu, tôi không được làm
thế vì mỗi nhân vị là một độc đáo. Thành thử, con người cảm thấy cô đơn (…)” [48].


×