BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Huyền Trang
ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT LÊ HOẰNG MƯU
TRONG BỐI CẢNH TIỂU THUYẾT QUỐC NGỮ
NAM BỘ ĐẦU THẾ KỶ XX
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
Thành phố Hồ Chí Minh – 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Huyền Trang
ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT LÊ HOẰNG MƯU
TRONG BỐI CẢNH TIỂU THUYẾT QUỐC NGỮ
NAM BỘ ĐẦU THẾ KỶ XX
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số
: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VÕ VĂN NHƠN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác.
Người thực hiện
Nguyễn Thị Huyền Trang
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS Võ Văn
Nhơn, người hướng dẫn khoa học đã tận tình hướng dẫn, động viên để tơi có
thể hồn thành tốt luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn Quý Thầy Cô đã giảng dạy, hướng dẫn và tạo
điều kiện cho tơi trong suốt q trình học Cao học.
Đồng thời, tôi xin gửi lời tri ân đến Gia đình cùng bạn bè đã tạo điều
kiện và giúp đỡ để tơi hồn thành Luận văn.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 9 năm 2015
Người thực hiện
Nguyễn Thị Huyền Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ....................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 4
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 5
5. Ý nghĩa của đề tài ..................................................................................... 5
6. Cấu trúc đề tài .......................................................................................... 6
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................ 7
1.1. Khái quát về tiểu thuyết Quốc ngữ Nam Bộ đầu thế kỷ XX ............. 7
1.1.1. Bối cảnh Nam Bộ đầu thế kỷ XX ...................................................... 7
1.1.2. Tiểu thuyết Quốc ngữ Nam Bộ ......................................................... 9
1.2. Giới thiệu tác giả Lê Hoằng Mưu ...................................................... 14
Chương 2. NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH TRONG TIỂU THUYẾT LÊ
HOẰNG MƯU ............................................................................................... 21
2.1. Phản ảnh những mặt trái của xã hội Nam Bộ đầu thế kỷ XX ........ 21
2.1.1. Sự biến chất của tình cảm gia đình ................................................. 21
2.1.2. Sự băng hoại đạo đức xã hội ........................................................... 26
2.2. Con người tự nhiên với bản năng tính dục ....................................... 34
Chương 3. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TIỂU THUYẾT ................... 50
LÊ HOẰNG MƯU......................................................................................... 50
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ........................................................... 50
3.1.1. Xây dựng chân dung, ngoại hình nhân vật ...................................... 52
3.1.2. Xây dựng tính cách nhân vật ........................................................... 54
3.1.3. Xây dựng tâm lý nhân vật ............................................................... 59
3.2. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Lê Hoằng Mưu ..................................... 62
3.2.1. Từ văn biền ngẫu đến văn xuôi hiện đại ......................................... 62
3.2.2. Phương ngữ Nam bộ........................................................................ 63
3.2.3. Nghệ thuật kết cấu tác phẩm ........................................................... 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình hiện đại hóa nền văn xi Quốc ngữ Việt Nam những năm đầu
thế kỷ XX vốn đã manh nha từ trước đó khá lâu, qua những tác phẩm báo chí
và một số truyện của các cây bút như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trọng Quản...
Tuy nhiên, phải đến những năm đầu thế kỷ XX, với sự xuất hiện của các nhà
văn như Lê Hoằng Mưu, Hồ Biểu Chánh... thì thể loại tiểu thuyết hiện đại
mới thăng hoa và đóng vai trị chủ đạo trong việc hiện đại hóa nền văn xi
Quốc ngữ. Trần Hữu Tá cho rằng: “Cơng cuộc hiện đại hóa nền văn học dân
tộc là cả một quá trình gồm nhiều chục năm, trong đó, cần ghi nhận vai trị đi
tiên phong mang ý nghĩa đột phá thuộc về các nhà văn Nam Bộ” [65, tr.42]
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan, trước đây
chúng ta đã chưa thể sưu tầm, nghiên cứu thấu đáo những giá trị “mở đường”
của các tác phẩm đó. Hầu hết những tiểu thuyết ra đời ở giai đoạn đầu của văn
học hiện đại tại miền Nam bị chìm trong quên lãng, ngay cả đối với những
nhà nghiên cứu văn học. Đoàn Lê Giang cho rằng: “Từ sau năm 1945, văn
học Quốc ngữ Nam Bộ có một thời gian khá dài bị giới nghiên cứu, phê bình
qn lãng, ít được ai nhắc tới, hoặc chỉ được biết tới với vài ba gương mặt nổi
bật: Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Hồ Biểu Chánh” [16, tr.7]
Mấy năm gần đây, nhờ công sức của nhiều nhà nghiên cứu và các bậc
thức giả mà những tác phẩm nói trên đã dần được sưu tầm lại, đặt vào đúng vị
trí trong mạch văn chương nước nhà. Những quan niệm sai lầm từng tồn tại
khá lâu, rằng miền Nam là một “vùng trắng” trong bức tranh sáng tác văn
chương tại giai đoạn nêu trên đã bị xóa bỏ dần dần. Tuy nhiên, chúng tơi vẫn
cịn khơng ít trăn trở. Vì rằng, thực tế thì cho đến thời điểm này, vẫn chưa có
nhiều cơng trình nghiên cứu để giúp chứng minh văn xuôi Quốc ngữ Nam Bộ
là lá cờ đầu trên bầu trời văn chương Việt Nam đương đại.
2
Thực trạng ấy dẫn đến vấn đề vai trò, vị trí của một số cây bút “mở
đường” trong buổi giao thời đó vẫn chưa được xác lập chính xác. Riêng trong
địa hạt tiểu thuyết, có một thời người ta cho rằng Hoàng Ngọc Phách với Tố
Tâm (1925), rồi Nguyễn Trọng Quản với Thầy Lazaro Phiền (1887) là nhà
văn và tác phẩm mở đường cho dòng tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Cho đến
gần đây, nhờ cơng trình nghiên cứu của Bằng Giang, Nguyễn Q. Thắng, nhờ
sự sưu tầm, nghiên cứu của PGS.TS Võ Văn Nhơn... mà chúng ta đã có cơ sở
để đặt ra câu hỏi: phải chăng tiểu thuyết Hà Hương phong nguyệt của nhà văn
- nhà báo Lê Hoằng Mưu, khởi đăng trên tờ Nơng Cổ mín đàm năm 1912, mới
là tiểu thuyết đầu tiên được viết bằng chữ Quốc ngữ có đầy đủ những “tiêu
chuẩn” của thể loại tiểu thuyết hiện đại?
Lê Hoằng Mưu được xem là nhà văn của những thử nghiệm táo bạo đầu
thế kỷ XX. Ông sáng tác rất khỏe, các tác phẩm của ông đã từng “bán chạy
như tôm tươi giữa chợ buổi sớm”. Qua tác phẩm của ông, chúng ta thấy thi
pháp tiểu thuyết phương Đông (mà cụ thể là tiểu thuyết chương hồi Trung
Quốc) đã hòa trộn với thi pháp tiểu thuyết phương Tây một cách hết sức thú
vị. Đó cũng là đặc điểm chung trong tác phẩm của nhiều nhà văn Nam bộ thời
kỳ đó. Nhưng ngịi bút Lê Hoằng Mưu lại có những điểm đặc biệt so với bút
pháp của các nhà văn Nam Bộ cùng thời. Sự nghiệp sáng tác và những đóng
góp cho văn học, cho báo chí nước nhà của Lê Hoằng Mưu, một nhà báo, một
nhà văn tiên phong, độc đáo, còn cần được chúng ta nghiên cứu một cách thấu
đáo, sâu sắc hơn.
Vì tất cả những lẽ trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Đặc điểm
tiểu thuyết Lê Hoằng Mưu trong bối cảnh tiểu thuyết Quốc ngữ Nam bộ
đầu thế kỷ XX, với mong muốn góp một ngọn nến soi sáng thêm vào góc
cịn khuất trong tiến trình văn xi Việt Nam, đồng thời giúp xác lập vị thế
xứng đáng cho ông và tác phẩm của ông trên văn đàn.
3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Những tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX nói chung và tiểu thuyết Lê Hoằng Mưu nói riêng là một phần
quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay, nhiều vấn đề
nghiên cứu vẫn còn bị bỏ ngỏ.
Tiểu thuyết của Lê Hoằng Mưu gần đây đã được các nhà nghiên cứu chú
ý, nhưng do một số tác phẩm của ông đã bị mất - thất tán nên vẫn chưa được
nghiên cứu một cách hệ thống. Quá trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở
những đánh giá, nhận xét mang tính khái qt nằm rải rác trong một số cơng
trình như: Chân dung văn học của Hồi Anh; Văn xi Nam Bộ nửa đầu thế
kỷ, tập 1, do Cao Xuân Mỹ sưu tầm, Mai Quốc Liên giới thiệu; Văn học Quốc
ngữ ở Nam Kỳ1865 – 1930 của Bằng Giang; Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX do Nguyễn Kim Anh chủ biên; Văn học Việt Nam nơi miền
đất mới, tập 1, của Nguyễn Q. Thắng; Văn học Quốc ngữ trước 1945 ở Thành
phố Hồ Chí Minh của Võ Văn Nhơn; Khảo sát, đánh giá, bảo tồn di sản văn
học quốc ngữ Nam Bộ từ cuối TK.XIX – đầu TK.XX, đề tài trọng điểm cấp
quốc gia, 2005 - 2007, do Đoàn Lê Giang làm chủ nhiệm.
Về luận án tiến sĩ liên quan đến đề tài luận văn của chúng tơi có Tơn
Thất Dụng (1993), Sự hình thành và vận động của thể văn xuôi tiếng Việt ở
Nam Bộ giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1932, Luận án tiến sĩ ngữ văn ,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Lê Ngọc Thúy (2001), Đóng góp của văn
học Quốc ngữ ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vào tiến trình hiện đại
hóa văn học Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm HCM;
Cao Thị Xuân Mỹ (2001), Quá trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam từ cuối
thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, Luận án tiến sĩ ngữ văn, Đại học Sư phạm Tp.
Hồ Chí Minh; Võ Văn Nhơn (2008), Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX, Luận án tiến sĩ ngữ văn, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia TP. HCM.
4
Trần Hữu Tá khái quát vấn đề trong bài viết “Tiểu thuyết Nam Bộ trong
chặng đầu của tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam” (Tạp chí Kiến thức
ngày nay, số 309, 1999).
Các bài viết riêng về Lê Hoằng Mưu của PGS.TS Võ Văn Nhơn:
- “Bước đầu khảo sát tư liệu và đánh giá tiểu thuyết Lê Hoằng Mưu”,
Khoa học Xã hội và Nhân văn 31, tr.43-49 (2005);
- “Lê Hoằng Mưu - nhà văn của những thử nghiệm táo bạo đầu thế kỷ
XX”, Nghiên cứu văn học 7, tr.26-35 (2006);
- “Hành trình đi tìm Hà Hương phong nguyệt”, Tuổi trẻ cuối tuần, số
Tất niên 8.2.2015;
- “Hà Hương phong nguyệt - quyển tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của
Nam Bộ”, Nghiên cứu văn học 4, tr.51-58 (2015).
Nhìn chung, chúng ta vẫn cịn thiếu những cơng trình nghiên cứu đối với
sự nghiệp tiểu thuyết lớn lao mà Lê Hoằng Mưu đã để lại. Từ thực tế đó, khi
nghiên cứu đề tài Đặc điểm tiểu thuyết Lê Hoằng Mưu trong bối cảnh tiểu
thuyết Quốc ngữ Nam Bộ đầu thế kỷ XX, chúng tôi mong muốn sẽ hiểu
biết thêm về tác giả, tác phẩm của Lê Hoằng Mưu nói riêng và các tiểu thuyết
viết bằng chữ Quốc ngữ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những đặc điểm về nội dung và nghệ
thuật của tiểu thuyết Lê Hoằng Mưu, gắn liền với thực trạng chính trị - kinh tế
- xã hội xung quanh thời điểm nó ra đời. Phạm vi nghiên cứu gồm những tiểu
thuyết tiêu biểu của Lê Hoằng Mưu - những sáng tác được xem là viên gạch
mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Cụ thể, chúng tơi sẽ đi sâu tìm hiểu tiểu thuyết đầu tay và cũng là tác
phẩm gây nhiều tranh cãi nhất của Lê Hoằng Mưu: tiểu thuyết Hà Hương
phong nguyệt. Ngồi ra, chúng tơi cũng sẽ đi sâu phân tích, đánh giá đối với
một số trong các tiểu thuyết khác của ông như:
5
Ba gái cầu chồng (1915), Tô Huệ Nhi ngoại sử (1920),
Oán hồng quần tức Phùng Kim Huê ngoại sử (1920),
Oan kia theo mãi tức Ba mươi hai đêm Hồ Cảnh Tiên tự thuật (1922),
Đầu tóc mượn (1926), Đỗ Triệu kỳ duyên (1928),
Đêm rốt của người tội tử hình (1929), Người bán ngọc (1931).
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi vận dụng một số phương pháp chủ
yếu:
- Phương pháp lịch sử: giúp đánh giá đúng ý nghĩa của tác phẩm trong
một giai đoạn lịch sử nhất định.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: đi sâu vào phân tích các tiểu thuyết
của Lê Hoằng Mưu trên bình diện nội dung và nghệ thuật... Từ đó đưa ra
những kết luận quan trọng về sự nghiệp sáng tác của ông.
- Phương pháp cấu trúc - hệ thống: giúp người viết khảo sát những tiểu
thuyết của Lê Hoằng Mưu trong mối tương quan với nền văn học Việt Nam
hiện đại.
- Phương pháp so sánh: so sánh đặc điểm tiểu thuyết Lê Hoằng Mưu với
một số tiểu thuyết của các tác giả cùng thời.
- Phương pháp thống kê: sắp xếp, liệt kê các đặc trưng tương tự nhau của
các tác phẩm thuộc phạm vi nghiên cứu của Luận văn, nhằm xác lập diện mạo
của chúng.
5. Ý nghĩa của đề tài
5.1. Nghiên cứu đề tài sẽ cho chúng ta có cái nhìn khái qt tiểu thuyết
Lê Hoằng Mưu , từ đó đi sâu phân tích những nét truyền thống và cách tân
trong nội dung và nghệ thuật tiểu thuyết của tác giả, đồng thời đặt những tác
phẩm đó vào bối cảnh tiểu thuyết Nam Bộ những năm cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX hiểu sâu hơn, đầy đủ hơn về tác giả và giá trị của những tác phẩm.
6
5.2. Đề tài được thực hiện nhằm khẳng định những đóng góp quan trọng
của Lê Hoằng Mưu trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Qua việc nghiên
cứu sự nghiệp văn học của một nhà văn sáng tác bằng chữ Quốc ngữ ở giai
đoạn đầu sẽ phần nào giúp chúng ta thấy được quá trình vận động và phát
triển của văn xuôi Việt Nam trong hơn một thế kỷ nay.
5.3. Nghiên cứu đề tài này, bản thân người viết sẽ có điều kiện sưu tầm,
tìm hiểu sâu rộng hơn những tiểu thuyết của Lê Hoằng Mưu; qua đó người
viết cũng mong muốn góp thêm tài liệu bổ ích cho các bạn sinh viên trong quá
trình nghiên cứu tác giả, tác phẩm của Lê Hoằng Mưu.
6. Cấu trúc đề tài
Đề tài của chúng tơi được chia thành ba phần. Ngồi mở đầu, kết luận và
tài liệu tham khảo, nội dung chính được chia thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung: trình bày khái quát về tiểu thuyết Quốc
ngữ Nam Bộ đầu thế kỷ XX và đôi nét về cuộc đời - sự nghiệp văn chương
của Lê Hoằng Mưu.
Chương 2: Những nội dung chính trong tiểu thuyết Lê Hoằng Mưu: đi
sâu vào phân tích nội dung một số tác phẩm tiêu biểu của Lê Hoằng Mưu để
thấy được ông đã phản ảnh những mặt trái của xã hội Nam Bộ đầu thế kỷ XX,
đồng thời ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của con người.
Chương 3: Nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Hoằng Mưu: trình bày nghệ
thuật xây dựng nhân vật, kết cấu tác phẩm và ngôn ngữ trong tiểu thuyết Lê
Hoằng Mưu.
7
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái quát về tiểu thuyết Quốc ngữ Nam Bộ đầu thế kỷ XX
1.1.1. Bối cảnh Nam Bộ đầu thế kỷ XX
1.1.1.1 Bối cảnh chính trị - kinh tế
Về chính trị: Đầu thế kỷ XX, sau khi cho rằng đã hồn thành cuộc bình
định ở Việt Nam, thực dân Pháp áp đặt bộ máy cai trị lên ba miền đất nước:
Nam Kỳ là xứ thuộc địa, Bắc Kỳ và Trung Kỳ là xứ bảo hộ. Tuy có sự khác
biệt trong chế độ quản lý của chính quyền thực dân ở từng miền, nhưng thực
chất tồn cõi “Annam” đều nằm dưới sự cai trị của thực dân Pháp. Mọi người
Việt Nam đều có chung số phận: dân nô lệ. Tuy nhiên, Nam Kỳ mới là mảnh
đất bị “Tây hóa” rõ nhất, vì Nam Kỳ là xứ thuộc địa (trong khi Bắc và Trung
Kỳ là xứ bảo hộ), đồng nghĩa với việc người Pháp có tồn quyền áp đặt mọi
thứ qui định, “qui chuẩn” lên xứ này.
Về kinh tế: Nam Bộ từ trước đó vài trăm năm đã là vùng kinh tế mới,
vùng kinh tế mở, tài nguyên đất dồi dào, khí hậu thuận lợi, thương mại phát
triển... Đó là những tiền đề thúc đẩy q trình đơ thị hóa diễn ra nhanh và
mạnh. Nền kinh tế nửa phong kiến - thuộc địa, nửa tư bản - thị trường đã làm
xuất hiện các quan hệ sản xuất - sở hữu mới. Từ đó, tầng lớp thị dân, tiểu tư
sản ra đời.
1.1.1.2. Những thay đổi về văn hóa - xã hội:
Trong bối cảnh đó, các phong trào như Duy Tân, Đông Kinh nghĩa
thục... vừa ra sức tuyên truyền, cổ động nhân dân ta thực hành nếp sống mới,
tiếp thu những giá trị tích cực của văn hóa phương Tây, vừa khơng qn khơi
gợi tinh thần u nước, lịng tự tơn dân tộc. Sinh hoạt văn hóa nói chung, văn
học nói riêng cũng bị cuốn theo làn gió lạ ấy.
Riêng ở Nam Bộ, với những đặc thù về chính trị - kinh tế - văn hóa sẵn
có, người dân nơi đây, đặc biệt là tầng lớp trí thức và thị dân mới hình thành,
8
càng có điều kiện tiếp nhận và thực hành phong hóa mới. Nói cách khác, q
trình xâm thực của văn hóa phương Tây vào xã hội Nam Kỳ đã diễn ra mạnh
và nhanh hơn các nơi khác. Cùng với quá trình phát triển kinh tế mà chủ yếu
là sản xuất nơng nghiệp, cùng với q trình đơ thị hóa, xã hội Nam Bộ cũng
chuyển mình mạnh mẽ theo. Vốn có gốc gác là dân tứ xứ phiêu dạt về, người
Nam Bộ ít có tư tưởng bảo thủ, ngược lại họ dễ dàng tiếp nhận cái mới. Một
số con em quan chức, con nhà giàu được sang Pháp du học. Tầng lớp thị dân
tăng nhanh. Số người biết chữ Quốc ngữ - tiếng Pháp ngày càng đông. Riêng
về chữ Quốc ngữ, nó là chất liệu giúp hình thành nền văn học hiện đại với
những thể loại mới như kịch, ký sự, truyện ngắn, tiểu thuyết... nhờ đó giúp
cho nền văn học Việt Nam xác lập và bình dân hóa một cách nhanh chóng
khơng ngờ. Theo Nguyễn An Ninh, từ chối chữ Quốc ngữ đồng nghĩa với từ
chối sự tự do của mình.
Tinh thần cởi mở, hướng về cái mới cịn là một nét tính cách hình thành
từ hồn cảnh địa lý, sinh hoạt đặc biệt của miền Nam: “Thôn ấp trải dài theo
kênh rạch. Dân cư của làng Nam Bộ thường hay biến động (vì nơi đây cịn
nhiều vùng đất chưa được khai phá, người dân có thể di cư đến bất cứ chỗ nào
dễ làm ăn hơn), người dân không bị gắn chặt quê hương như làng Bắc bộ.
Tính cách người nơng dân Nam Bộ do đó phóng khống hơn, ít bảo thủ, dễ
tiếp cận cái mới bên ngoài từ văn hóa phương Tây” [70, tr.223]. Tinh thần
hướng về cái mới như vậy là một nét riêng bổ sung vào truyền thống Việt
Nam của người dân miền Nam. Khi rơi vào nơ lệ, thì cùng với phong trào
canh tân của cả nước, ý chí đổi mới đã thúc đẩy người miền Nam nhiệt tình
hướng việc canh tân để cứu nước. Điều đó khơng thể hiện ở đâu rõ nét hơn là
trong sinh hoạt báo chí miền Nam thời kỳ đầu thế kỷ XX, thời kỳ cổ võ Minh
Tân, khơi gợi ý thức dân tộc, và sau đó là đấu tranh với nhiều hình thức, nhất
là đấu tranh trực diện cho độc lập, tự do và tiến bộ dân tộc.
9
Nam Bộ sớm tiếp xúc với văn hóa phương Tây, số người học tiếng Tây
và đi Tây du học nhiều, sớm; các yếu tố văn hóa như báo chí, nhà in, nhà xuất
bản sớm ra đời tạo tiền đề cho sự xuất hiện của những tác phẩm tiểu thuyết
Quốc ngữ đầu tiên. Song, do các loại hình báo chí - truyền thông chưa phát
triển, người dân mỗi xứ hầu như sống và sinh hoạt văn hóa tinh thần khép kín,
điều kiện giao thơng đi lại khó khăn khiến cho Hà Nội cách xa Sài Gòn như
Marseille đối với Le Caire - điều đó đã ảnh hưởng khơng nhỏ kìm hãm sự lan
tỏa, giao lưu văn hóa giữa các miền. Trong bối cảnh đó, riêng ở “vùng đất
mở” Nam Bộ lại có điều điện để người dân làm kinh tế, gìn giữ những giá trị
truyền thống song song với thực hành nếp sống mới. Vì vậy, vùng đất Gia
Định đã gây ấn tượng tốt cho một du khách là Filayson đến Sài Gịn vào năm
1821: “Chúng tơi có cảm giác tốt đẹp về phong tục và cử chỉ của nhân dân.
Sự ân cần, tính rộng lượng, lịng hiếu khách mà chúng tôi đã gặp , vượt quá
xa với tất cả những gì từ trước đến nay chúng tơi thấy được ở các nước châu
Á ” [61, tr.247].
Chương trình khai thác thuộc địa (lần thứ nhất và lần thứ hai) của thực
dân Pháp là nhân tố làm chuyển biến sâu sắc xã hội Việt Nam. Lớp trí thức
Tây học và cư dân thành thị tất yếu cần được đáp ứng nhu cầu tiêu thụ những
sản phẩm văn hóa mới.
1.1.2. Tiểu thuyết Quốc ngữ Nam Bộ
Những cây bút văn xuôi Quốc ngữ đầu tiên ở Nam Bộ đã đáp ứng kịp
thời nhu cầu được thưởng thức các thể loại văn chương mới của lớp người
mới. Văn minh phương Đông và những sản phẩm văn hóa truyền thống đậm
màu sắc Nho giáo vẫn tồn tại. Nhưng các giai cấp, tầng lớp mới, những người
theo Tây học đòi hỏi được hưởng thụ những sản phẩm văn chương thích hợp
với tư tưởng, tư duy tình cảm, nếp sinh hoạt... của họ. Những bài thơ theo
niêm luật vịnh cảnh gợi tình chung chung và sáo mịn, những truyện - tích vẽ
lên bức tranh cuộc sống xi chiều từ quá khứ đến tương lai, từ đau thương
10
trắc trở rồi kết thúc đồn viên mĩ mãn... khơng còn phù hợp với thực tế cuộc
sống mới nữa. Người dân, đặc biệt là dân thành thị, đã có thói quen đọc báo,
đọc sách. Người ta có nhu cầu được đọc cái gì mới mẻ mỗi sáng thức dậy,
được thấy chính họ trong cái mà họ đọc.
Trước nhu cầu đó, một số nhà văn mới đã đáp ứng đòi hỏi của độc giả.
Họ là những người mà trước đó đã ít nhiều được hấp thu Nho học, rồi tiếp tục
được đào tạo theo Tây học. Dù được đào tạo theo cái học mới với mục đích gì
thì họ vẫn mang trong mình dịng máu Việt, vẫn ít nhiều có lịng tự tôn dân
tộc bởi cái tâm biết rung cảm của nhà văn. Cho nên, họ khao khát viết “cái
của dân tộc mình cho dân mình đọc”. Chính Lê Hoằng Mưu, khi viết lời tựa
cho tiểu thuyết Hà Hương phong nguyệt đã cho thấy tư tưởng đó: “Thật là
truyện đặt theo việc tình người, tình đời, chẳng mượn tích ngoại phang gio
diễn, để cho đồng bang cơn rảnh mua vui, lúc buồn xem tiêu khiển. Cho hay
Hà - Hương là truyện tình, song truyện tình mà đủ nhơn, nghĩa, lễ, trí, tín,
tình mà có báo ốn nhãn tiền, tình dường ấy cũng nên đọc lấy làm gương,
toan giữ mình trọn đạo” (Lê Hoằng Mưu viết trong lời tựa bản in tiểu thuyết
Hà Hương phong nguyệt).
Động cơ sáng tác của Lê Hoằng Mưu là như thế. Mục đích sáng tác thì
khơng gì ngoài ý thức phản ánh hiện thực xã hội mà họ đã sống, sự mâu thuẫn
giữa các giai cấp, tầng lớp, sự xung đột giữa những giá trị cũ và phong hóa
mới, sự băng hoại của đạo đức trước sức mạnh kim tiền và dục vọng. Ngồi
ra, như đã nói, nhà văn thời này viết không chỉ để thỏa mãn nhu cầu được viết
như trước kia, mà họ viết phục vụ cho người ta đọc để giải trí.
Ở Việt Nam, sự ra đời của tiểu thuyết hiện đại có quan hệ chặt chẽ đến
những biến cố lớn của lịch sử, với ảnh hưởng từ các luồng văn hóa Đơng Tây
(Trung Hoa thời kỳ kêu gọi cải cách, ảnh hưởng phương Tây, cụ thể và sâu
sắc nhất là Pháp thế kỷ XIX), những biến chuyển của lịch sử, xã hội (sinh
hoạt, đời sống thành thị) và văn hóa dân tộc (chữ Quốc ngữ và sự phát triển
11
sáng tác, nhu cầu tiếp nhận văn chương). “Chỉ trong vòng chưa đầy ba thập
kỷ đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết miền Nam đã hầu như dàn trải khá đủ, là một
sự ảnh xạ có vẻ như ‘cơ giới’ của tiểu thuyết phương Đơng lẫn phương Tây:
có tiểu thuyết ‘võ hiệp - kỳ tình’, có tiểu thuyết ‘ngoại sử - dã sử’, có tiểu
thuyết đạo lý, có tiểu thuyết ‘tả chân xã hội’, có tiểu thuyết phong tục, lại có
tiểu thuyết luận đề…” [7, tr.15]
Trước hết, ảnh hưởng Trung Hoa trong văn học Quốc ngữ miền Nam
thời kỳ này thể hiện khá phức tạp chứ không giống như văn chương Trung
đại. Sang nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời kỳ của các truyện Tàu.
Trương Vĩnh Ký là người đầu tiên đã dịch các tác phẩm kinh điển của Trung
Hoa như Tứ thư, Ngũ kinh... ra chữ Quốc ngữ. Sau Trương Vĩnh Ký là cả một
thế hệ dịch giả hùng hậu, trong đó có những người nổi tiếng và uy tín hơn cả
là Nguyễn Chánh Sắt, Trần Phong Sắc... Tư tưởng đạo đức, luân lý cổ truyền
của Nho giáo vốn đã Việt hóa khá dân chủ và uyển chuyển, nay tiếp tục giao
thoa với những nhân cách điển hình trong truyện Tàu đã trở thành một thứ
“tiềm thức chung” và nhân sinh quan chung của cả cộng đồng. Hơn nữa, lịng
u mến mảnh đất do mình khai phá, tạo dựng bằng mồ hôi nước mắt dễ dẫn
đến một tình cảm u nước rất cụ thể, chứ khơng phải là lòng trung quân mơ
hồ, ước lệ và mê muội.
Bên cạnh luồng ảnh hưởng từ Trung Hoa, tiểu thuyết Việt Nam giai
đoạn đầu còn chịu sự ảnh hưởng của văn hóa - văn chương Tây phương, nhất
là Pháp.
Trước đây, người ta đã bỏ sót mảng văn học Quốc ngữ ở miền Nam thời
bắt đầu trở thành thuộc địa của Pháp. Vì rằng, có thể do cái ấn tượng Nam Kỳ
là thuộc địa mà người ta dễ dàng đi đến cái nhìn về một thứ văn hóa nơ dịch.
Phong trào hiện đại hóa theo phong cách Tây phương trong văn chương Việt
Nam chỉ được “tính tuổi” chính thức từ 1932 trở về sau, cho đến khi một thư
mục của văn học Quốc ngữ ở Nam Kỳ được thiết lập với các bằng chứng hiển
12
nhiên cho thấy sự tiếp nhận văn học Pháp đã đến sớm nhất qua các tác phẩm
dịch xuất hiện ở Nam Kỳ từ nửa sau thế kỷ XIX.
Văn học Quốc ngữ Nam Kỳ đã tiếp nhận từ văn học Pháp cái tinh thần
hài hịa, bình đẳng, khơng phân định ranh giới giữa văn học bác học và văn
học bình dân. Từ đó, đã xuất hiện tính dân chủ, tính đại chúng, tính thực tiễn
trong phương thức lưu hành, truyền bá và đặc biệt là tính chọn lọc trong q
trình tiếp nhận văn học phương Tây. Xã hội mới với những con người mới
cần được phản ảnh, soi chiếu bởi một thứ văn chương mới, kết hợp giữa văn
tải đạo của phương Đông với văn tả thực của phương Tây. Đạo lý luân
thường là những điều cần nhưng không đủ trong đời sống thực tại, nên “người
ta cần tìm hiểu kỹ cuộc sống với cả những tình tiết đầy đủ, những chi tiết cụ
thể, gây được cảm giác, thỏa mãn được sự tị mị... Người ta muốn nếm trải
cái có thật (hay có thể có thật), chứ khơng phải được khích lệ bằng những
gương trung hiếu, minh họa đạo nghĩa... Người ta muốn xúc cảm, muốn
mở mang như những con người, những cá nhân - chứ không phải xúc động
như khi chiêm ngưỡng tấm gương cao cả của vị thánh xuất chúng”[29, tr.25].
Vì thế “Bên cạnh những nhà Nho vẫn tiếp tục làm thơ phú, người nông dân
vẫn tiếp tục ca hát dân gian... nền văn học cũ vẫn tồn tại khắp đất nước thì
một lớp nhà văn kiểu mới, một nền văn học có tính chất khác trước xuất hiện
tạo nên một cảnh tượng giao giữa hai nền văn học” [29, tr.22].
Thanh niên bế tắc, cơ đơn, thử tìm lối thốt trong tình u, họ muốn
được tự do u đương nhưng lại bị thế lực lễ giáo phong kiến cấm đốn.
Khơng lối thốt, họ tìm đến tiểu thuyết để nghe tiếng lịng mình trong đó,
chiêm nghiệm những gì vừa nếm trải hoặc tìm ở đó những chân trời, những
ước mơ thầm kín.
Tiểu thuyết trở nên phù hợp với thị hiếu của đông đảo công chúng mới.
“Đọc tiểu thuyết, người ta thấy có cái thú vị nồng nàn là được sống sâu rộng
hơn, thấm thía hơn, vì ở đời khơng một ai được sống với tất cả các giác quan
13
rung động, với tất cả mọi hành vi cùng tư tưởng bồng bột và thâm trầm.
Chính tiểu thuyết là một loại văn có thể bổ khuyết cho ta những cái thiếu sót
ấy”[56, tr.162].
Đầu thế kỷ XX, ở Nam Kỳ, một nền báo chí vừa được hình thành trước
đó khơng lâu đã phát triển rầm rộ, dựa trên ý thức mới hướng về mục tiêu độc
lập tự do và canh tân đất nước. Văn chính luận và bút chiến về những vấn đề
văn hóa xã hội, kinh tế chính trị được phổ biến rộng rãi trên báo chí cơng
khai. Điều này đã kéo theo những bước phát triển đáng chú ý của nền văn học
Quốc ngữ ở miền Nam. “Báo chí quả là bà đỡ mát tay cho văn học” [65,
tr.40]. Nền văn chương báo chí là đóng góp nổi bật của văn học Quốc ngữ
miền Nam trong quá trình hiện đại hóa văn học.“Chúng ta hẳn chú ý rằng đa
số các tác phẩm văn học đều đăng trước nhứt trên mặt báo, sau đó mới in
thành sách. Bởi vậy, theo thiển ý của chúng tôi, muốn nghiên cứu văn học
hiện đại, ta nên xem qua lịch sử báo chí. Các nhà văn nổi tiếng thời bấy giờ
thường dùng báo chí để đăng tải lần hồi các tác phẩm do họ sáng tác” [72,
tr.239].
Những nhà văn đã nhận thức về nhu cầu hiện đại hóa tiểu thuyết Việt
Nam, và mỗi người đã lần lượt đề cập đến nhiều yếu tố của tiểu thuyết hiện
đại như cốt truyện, chủ đề, tư tưởng chủ đề, nhân vật, kết cấu, ngơn ngữ tiểu
thuyết... có đối chiếu so sánh với phương thức cũ. Đặc biệt, những nhà văn
đều tự thực hành những quan điểm của riêng mình về tiểu thuyết trong các
sáng tác cụ thể. Các nhà văn tiên phong đều dè dặt với ảnh hưởng Tây
phương, nhận thức sâu sắc về sự khác biệt giữa hai nền văn hóa Đơng Tây đã
tạo ra hai sắc thái văn chương khác nhau. Tinh thần luân lý Việt Nam vẫn là
nền tảng cho tư tưởng của tác phẩm. Nhưng họ lại cũng bị thu hút bởi phương
thức sáng tác kiểu Tây phương. Trào lưu lãng mạn và trào lưu hiện thực đã
đem lại cho nhà văn Việt Nam nhiều cánh cửa mới trong việc tìm kiếm chất
liệu mới cũng như hình thức mới cho sáng tác. Hầu hết, họ đều chọn nghệ
14
thuật biểu hiện theo cách thức của tiểu thuyết Pháp thế kỷ XIX, với nhiều vấn
đề được đặt ra như ngôn ngữ tiểu thuyết, nguyên tắc phản ánh hiện thực, thái
độ khách quan của nhà văn, quan điểm tiếp thu nghệ thuật phương Tây.
Chuyển biến mạnh mẽ nhất là cảm hứng sáng tác, với xu hướng chung trong
việc lựa chọn vùng đề tài. Điều này dẫn đến cái mới trong cốt truyện, trong
thời gian và không gian của tác phẩm. Đây cũng là nét cách tân nổi bật nhất
của tiểu thuyết miền Nam đầu thế kỷ. Chuyển biến thứ hai là đối tượng miêu
tả mới, điểm nhìn và tầm nhìn của nhà văn, dẫn đến sự hình thành nhân vật
tiểu thuyết với những phương thức mộ tả rất mau chóng thoát ra khỏi những
ảnh hưởng trung đại. Chuyển biến thứ ba là về mặt kết cấu, về ngôn ngữ tiểu
thuyết có chậm hơn, phức tạp hơn với những q trình phức tạp, không đồng
bộ, đan xen lẫn nhau giữa truyền thống và hiện đại. Những chuyển biến trên
thường không được thể hiện một cách tuyệt đối trong thực tế sáng tác, mà vẫn
còn đan xen với nhiều yếu tố của văn chương truyền thống, phản ánh sinh
động những bước đi đầu tiên trong buổi bình minh của tiểu thuyết Việt Nam
hiện đại.
Trong hiện thực xã hội đó, Lê Hoằng Mưu đã mang đến cho nền tiểu
thuyết vừa phôi thai những tác phẩm rất mới, rất đặc sắc.
1.2. Giới thiệu tác giả Lê Hoằng Mưu
Là một trong những cây bút đầu tiên viết tiểu thuyết trong giai đoạn chữ
Quốc ngữ vừa mới phôi thai, Lê Hoằng Mưu đã xác lập được một vị trí vững
vàng trong lịch sử văn học Nam Bộ. Số lượng tác phẩm của ông tương đối
dày dặn, cách viết theo kiểu tiểu thuyết phương Tây, tuy một số vẫn cịn được
trình bày dưới hình thức tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc.
Các nhà làm văn học sử từ trước đến nay thường bỏ quên tên tuổi và sự
nghiệp của ơng, hoặc chỉ nói qua được rất ít về sự đóng góp của ơng vào gia
sản văn hóa đồ sộ của miền Nam. Viết lại tiểu sử của bậc tiền bối như Lê
Hoằng Mưu là một cơng việc khó khăn, dù ông sống trước chúng ta chỉ trên
15
dưới một thế kỷ. Chúng tơi chỉ có thể tìm hiểu về ông qua nguồn tài liệu xuất
xứ đủ mọi nguồn gốc khác nhau nhằm cung cấp cho độc giả một cái nhìn
chân thực nhất có thể về một con người trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt.
Theo các tài liệu chúng tơi có được, Lê Hoằng Mưu sinh năm Kỷ Mão
(1879) trong một gia đình làm nơng khá giả tại làng Cái Cối, tổng Bảo Hựu,
tỉnh Bến Tre (nay thuộc xã Mỹ Thạnh An, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre).
Ngồi tên thật, ơng cịn được nhiều người trong làng báo làng văn biết
đến với bút hiệu Mộng Huê Lầu (ghép mẫu tự của Lê Hoằng Mưu). Ông còn
ký là Le Fantaisiste, Hoằng Mưu. Theo Nguyễn Liên Phong, tác giả Điếu cổ
hạ kim thi tập, Lê Hoằng Mưu có “hình trạng nho nhã, trung người, tánh nết
thơng minh thiệp liệp, có khoa ngơn ngữ”.
Lê Hoằng Mưu xuất thân từ một gia đình tân học. Cha ơng là Lê Văn
Dinh, ngun là thơng ngơn đề hình, nắm giữ việc xử án. Nguồn gốc xuất
thân này có ảnh hưởng rất lớn đến các sáng tác của Lê Hoằng Mưu ở nhiều
phương diện: miêu tả lớp lang những vụ án với nhiều tình tiết ly kì, cảnh phá
án, xét xử tội nhân... Hơn hết, ông bộc lộ quan điểm tin tưởng vào công lý, sự
công bằng.
Thuở nhỏ, Lê Hoằng Mưu học ở Bến Tre [8, tr.823]. Tuy nhiên,
website tỉnh Bến Tre lại cho rằng "khi bước vào đời, ông chưa hết bậc trung
học Pháp - Việt lúc bấy giờ, rồi gia nhập làng văn, làng báo ở Sài Gòn cho
đến cuối đời.
Tuổi trưởng thành, Lê Hoằng Mưu sống ở Sài Gòn. Trước khi đến với
nghề báo, viết văn, ông là thư ký của sở cơng chứng. Theo Nguyễn Q. Thắng
thì Lê Hoằng Mưu đã có tiếng trong giới cầm bút từ những năm 1915 - 1917.
Nhưng theo Cao Xuân Mỹ thì sự nổi tiếng này đến sớm hơn, khoảng những
năm 1912 - 1915. Thật ra Lê Hoằng Mưu được bạn đọc biết đến từ những
năm 1912 khi ông bắt đầu cộng tác với tờ Nơng Cổ Mín Đàm với tác phẩm
dịch Rocambole Tome V. Les drames de Paris, kịch thơ. Cũng trong năm ấy
16
tiếng tăm ông bắt đầu nổi khi được mời làm chủ bút Nơng Cổ Mín Đàm và
cho đăng tải nhiều kỳ Truyện nàng Hà Hương. Đến năm 1915, Lê Hoằng
Mưu đã chinh phục cả xứ Nam Kỳ và cả một thế hệ thanh niên. Đến ngay cả
những nhà văn nổi tiếng thời đó như Trương Duy Toản, Nguyễn Chánh Sắt,
Trần Văn Chim, Nguyễn Háo Vĩnh đều chưa thể được liệt ngang hàng với
ông. Bạn đọc yêu mến và hết lời khen ngợi ông là người “quảng kiến đa văn”.
Năm 1921, khi tờ Nam Trung nhật báo sáp nhập với tờ Lục tỉnh tân văn,
ông được cử làm Chủ bút cho đến 1930, thì bị buộc thơi chức vì tờ báo có
khuynh hướng u nước bài Pháp. Cùng năm này, ơng cùng Võ Thành Út
sáng lập tờ Long Giang độc lập (xuất bản mỗi tuần 3 số) do Lưu Công Châu
làm chủ bút. Đến năm 1931, tờ báo bị nhà cầm quyền ra lệnh đình bản một
thời gian, sau được tục bản cho đến ngày 11 tháng 5 năm 1934 thì bị đình bản
hẳn. Ngồi ra, ơng là trợ bút của các tờ Điện Tín, Thần chung, Đuốc nhà
Nam... [8, tr.823]. Không những “khét tiếng” trong báo giới thời kỳ phôi thai,
ơng cịn là người có lương chủ bút cao nhất thời đó. Ơng được đồng nghiệp
kính mến và thán phục bởi tài bút chiến.
Năm 1922, ông cho xuất bản tiểu thuyết Tô Huệ Nhi ngoại sử, với bút
danh Mộng Huê Lầu. Tác phẩm đã ca ngợi một đôi thanh niên tân học mạnh
dạn đấu tranh cho tự do hôn nhân, đã thốt khỏi sự cản trở của gia đình phong
kiến để cùng nhau xây dựng hạnh phúc. Ở đoạn đầu truyện, Lê Hoằng Mưu
có đề cập một khía cạnh của phong trào duy tân ở Trung Hoa: “Nói về Trung
Quốc, từ năm Canh Tý (1900) đạo tặc dấy lên, nhờ triều đình xuất binh dẹp
an mới nổi”. Từ đấy triều đình tỉnh ngộ, tân chánh cải hành, xuất của lập
trường mở mang đàng học vấn. Nhờ ơn trên nên tỉnh Đình Cảng tuy chẳng
phải đại tỉnh thành mà học đường khai bộn. Nào sơ đẳng tiểu học, cao đẳng
tiểu học đều hồn tồn, duy nữ học đường cịn thiếu”.
Qua đó ta thấy tác giả có ý hưởng ứng phong trào Duy Tân ở ta lúc bấy
giờ, vì muốn ngụy trang nên để chuyện xảy ra ở Trung Hoa.
17
Năm Tân Tỵ (1941), ơng mất tại Sài Gịn, thọ 62 tuổi.
Lê Hoằng Mưu sinh ra và lớn lên giữa lúc xã hội Việt Nam tiếp thu nền
văn minh phương Tây do người Pháp mang lại. Ơng là trí thức thuộc thế hệ
vừa hấp thu nền giáo dục tân học, vừa am tường cổ học truyền thống.Nhà báo
Lãng Tử trong một bài báo viết về Lê Hoằng Mưu trên báo Mai năm 1939
cũng cho rằng ơng “đã có cái vinh dự tối cao của kẻ đàn anh ăn trước bước
đầu mà lại có tài hoa lỗi lạc”. Nguyễn Liên Phong trong Điếu cổ hạ kim thi
tập đã hết lời ca ngợi ơng: “Khen bấy thầy Mưu dạng mỹ miều Có khoa ngơn
ngữ nết khơng kiêu Điển Tịa thuở nọ cơng siêng nhọc Nông Cổ ngày nay bút
dệt thêu Tuổi hãy xuân xanh khuôn phép đủ Phước nhờ đầu bạc đắp vun
nhiều Từ đây báo quán thêm khong ngợi Rảng rảng như chuông cả tiếng
kêu”.
Văn học Quốc ngữ Nam Bộ cuối TK.XIX đến 1945 là một bộ phận máu
thịt của văn học dân tộc. Trong khoảng hơn nửa thế kỷ từ khi hình thành cho
đến 1945, vùng văn học này đã có một đời sống rất sơi nổi với hàng trăm cây
bút và hàng mấy trăm tác phẩm, cuốn hút hàng triệu độc giả, và đã để lại
những vết son không phai mờ trong ký ức của nhiều người, nhất là những
người lớn tuổi ở Nam Bộ. “Theo thống kê của chúng tơi, có lẽ chưa thật đầy
đủ, số người sáng tác văn học có sách đã được xuất bản ở Nam Bộ từ đầu cho
đến 1945 là trên 200 tác giả. Số lượng tác phẩm thì khó có thể có con số chính
xác, chúng tơi từng lập ra thư mục khoảng trên 700 cuốn sách – tất nhiên phải
hiểu là có nhiều cuốn khổ nhỏ, dày chừng vài trang là những bài vè, truyện
ngắn được in riêng thành quyển như: Bất cượng của Trương Vĩnh Ký- 8 tr,
v.v... cho đến những tiểu thuyết dày hàng 400, 500 trang trở lên như các bộ
tiểu thuyết của Phú Đức: Bà chúa đền vàng dày 438 tr, Lửa lòng – 858 tr,
v.v... Trong số đó, Lê Hoằng Mưu, nhà văn của những thử nghiệm táo bạo, có
21 quyển, đã sưu tập được 17 quyển.” [16].
18
Lê Hoằng Mưu bước vào làng văn đúng lúc nền văn học Việt Nam vừa
bắt đầu tiến trình hiện đại hóa. Vì vậy, sự nghiệp văn chương của ơng đóng
góp rất lớn cho quá trình đổi mới văn học. Những trang viết của Lê Hoằng
Mưu cung cấp cho người đọc một lượng thơng tin khá đầy đủ về q trình
dịch chuyển của người dân Nam Bộ bởi tác động từ chính sách khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp. Những thay đổi về phong tục tập quán, sự xuất
hiện của lối sống mới, những mối quan hệ “ngồi luồng”, tình cảm nam nữ,
những cung cách đối xử và quan hệ đạo lý khác trước, những tâm lý xã hội
thích hợp và những mẫu người thời đại mới.
Trong quá trình nghiên cứu văn học Quốc ngữ Nam Bộ giai đoạn cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chúng tôi đặc biệt lưu ý quan điểm của nhà nghiên
cứu Bằng Giang trong cơng trình Văn học quốc ngữ ở Nam kỳ 1865-1930:
“Cịn tiểu thuyết (khơng nói truyện ngắn) thì cũng chỉ bắt đầu với Hà Hương
phong nguyệt của Lê Hoằng Mưu đăng báo năm 1912 và in thành sách năm
1915”. Hà Hương phong nguyệt có số trang dày dặn hơn nhiều (chỉ hết
tập 6 đã có đến 284 trang). Tác phẩm này là một phản ứng, là lòng tự trọng
của một nhà văn Việt Nam trước cơn sốt dịch “truyện Tàu” lúc đó. Lê Hoằng
Mưu có tâm sự: “Dịm thấy trong xứ cứ ôm truyện Tàu mà dịch mãi, chưa
thấy ai viết bộ tiểu thuyết nào cả. Tưởng rằng dầu hay dầu dở cũng của mình.
Tơi khởi đầu viết bộ Hà Hương phong nguyệt”.
Sau khi tác phẩm này làm mưa làm gió thật sự, đã xảy ra các cuộc bút
chiến dữ dội, phe bảo thủ cho nó là “dâm thư”. Thậm chí có người cịn lên án
Lê Hoằng Mưu là “một đứa tội nhơn lớn nhứt của nước An Nam” (Công luận
báo, số 48, 1928). Điều này buộc chính quyền thuộc địa Pháp tại Nam Kỳ
phải ra lệnh tịch thu và tiêu hủy.
Đây cũng là lý do vì sao mà Hà Hương phong nguyệt gần như vắng bóng
suốt một thế kỷ qua; ngay các thư viện lớn thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt
19
Nam Thư viện Tổng hợp TP.HCM, Thư viện KHXH TP.HCM… cũng chỉ
còn tản mác, rời rạc.
Trước dư luận hà khắc, Lê Hoằng Mưu chỉ nói: “Viết ra từ mười năm
khơng ai nói chi. Sau này trong phe viết báo lắm kẻ người ưa đọc sanh lịng
ganh gổ, kích bác; mà khơng nói hay dở gì, chỉ thích điều lả lơi phong nguyệt.
Tôi mỉm cười! Cười mấy ông này mắt mang kiếng đen, chưa hề có xem
phong nguyệt của người các nước, cịn lả lơi q mười của tơi. Tơi thầm nghĩ
nếu phong hóa vì tiểu thuyết tình tự lả lơi mà ra thì phong hóa các nước suy
đồi biết mấy. Thoảng lại phong hóa nhà Nam suy đồi từ chưa có bộ Hà
Hương phong nguyệt”.Bản thân Lê Hoằng Mưu dù bị nhiều người trong văn
giới đả kích dữ dội nhưng lại được độc giả rất hâm mộ. Lãng Tử cho biết sách
của ông “bán chạy như tôm tươi giữa chợ buổi sớm”.
Sự nghiệp sáng tác của Lê Hoằng Mưu không chỉ có cuốn tiểu thuyết
được nhiều người biết đến là Hà Hương phong nguyệt (1915) mà cịn có
nhiều tác phẩm khác.
Lê Hoằng Mưu bắt đầu sự nghiệp văn học của mình bằng những truyện
dịch. Khác với các tác giả khác, ví dụ như Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu
khơng dịch truyện Tàu mà chọn dịch các tác phẩm của Tây phương. Ơng từng
tâm sự trên Nơng cổ mín đàm: “Tơi học văn Pháp có lấn hơn văn Tàu, nên tơi
viết theo cách văn Pháp nhiều hơn”.
Chồng bắt vợ chạ, một truyện ngắn của Mỹ có thể là tác phẩm dịch đầu
tiên của ơng, đăng trên Nơng cổ mín đàm. Đây là một câu chuyện hài mang ý
nghĩa châm biếm và giáo dục nhẹ nhàng.
Sau giai đoạn dịch, Lê Hoằng Mưu có những tác phẩm phóng tác từ văn
học phương Tây, như một kịch thơ phóng tác từ Racambole Tom V Les
drames de Paris chẳng hạn (đăng trên Nơng cổ mín đàm số 18 năm 1912)
Ngồi Hà Hương phong nguyệt, ơng cịn có các tiểu thuyết Ba gái cầu chồng
(1915), Tơ Huệ Nhi ngoại sử(1920), Oán hồng quần tức Phùng Kim Huê