BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TPHCM
Trần Thị Tuyết Vân
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRUYỆN
CỦA NGUYỄN NGỌC THUẦN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
TP. Hồ Chí Minh - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TPHCM
Trần Thị Tuyết Vân
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRUYỆN
CỦA NGUYỄN NGỌC THUẦN
Chuyên ngành : Lí luận Văn học
Mã số
: 60 22 01 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ KIM TIẾN
TP. Hồ Chí Minh - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Chúng tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính mình,
chưa từng cơng bố và đăng tải trên bất cứ nguồn thông tin nào. Kết quả
nghiên cứu và số liệu thống kê là hoàn toàn trung thực. Nội dung của cơng
trình là những kiến thức được đúc kết trong quá trình nghiên cứu lâu dài.
Chúng tôi triển khai các luận điểm bằng văn phong khoa học và chưa từng
sao chép ở bất kì cơng trình nào.
Tác giả luận văn
Trần Thị Tuyết Vân
LỜI CẢM ƠN
Xin gửi lời tri ân sâu sắc đến:
Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm TPHCM cùng quý thầy cô Khoa
Ngữ Văn đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để chúng tơi hồn thành luận văn.
TS. Nguyễn Thị Kim Tiến - người đã trực tiếp hướng dẫn đề tài với tất cả
lòng nhiệt thành.
Cuối cùng, xin gửi lời cám ơn chân thành đến gia đình và thân hữu đã luôn
ủng hộ tinh thần, cổ vũ nồng nhiệt trong suốt q trình nghiên cứu.
Tp.Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2015
Tác giả luận văn
Trần Thị Tuyết Vân
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU
Chương 1.
...................................................................................................................1
THỂ LOẠI TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
ĐƯƠNG ĐẠI VÀ TÁC GIẢ NGUYỄN NGỌC THUẦN ..........7
1.1. Khái niệm truyện và đặc điểm của truyện .................................................. 7
1.1.1. Khái niệm truyện ................................................................................. 7
1.1.2. Các thể loại truyện ............................................................................. 10
1.1.3. Đặc điểm của truyện .......................................................................... 14
1.2. Nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần và quá trình sáng tác ................................ 19
1.2.1. Vài nét về nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần........................................... 19
1.2.2. Đề tài và cảm hứng sáng tác .............................................................. 24
Tiểu kết chương 1 ......................................................................................................32
Chương 2.
PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ TRONG TRUYỆN CỦA
NGUYỄN NGỌC THUẦN ..............................................................33
2.1. Điểm nhìn trần thuật ................................................................................. 35
2.1.1. Điểm nhìn bên ngồi .......................................................................... 36
2.1.2. Điểm nhìn bên trong .......................................................................... 39
2.1.3. Chuyển đổi điểm nhìn ........................................................................ 42
2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................. 44
2.2.1. Thế giới nhân vật ............................................................................... 45
2.2.2. Cách đặt tên nhân vật......................................................................... 47
2.2.3. Xây dựng nhân vật qua ngoại hình, hành động ................................. 49
2.2.4. Xây dựng nhân vật qua phân tích tâm lí ............................................ 53
2.3. Khơng gian nghệ thuật.............................................................................. 56
2.3.1. Không gian bối cảnh .......................................................................... 57
2.3.2. Không gian tâm tưởng ....................................................................... 59
2.4. Thời gian nghệ thuật ................................................................................. 63
2.4.1. Thời gian kể chuyện .......................................................................... 63
2.4.2. Thời gian của truyện .......................................................................... 68
Tiểu kết chương 2 ......................................................................................................71
Chương 3. NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN CỦA
NGUYỄN NGỌC THUẦN ................................................................72
3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật ................................................................................ 72
3.1.1. Ngôn ngữ đối thoại ............................................................................ 72
3.1.2. Ngôn ngữ độc thoại............................................................................ 75
3.1.3. Ngôn ngữ địa phương ........................................................................ 77
3.2. Giọng điệu nghệ thuật .............................................................................. 80
3.2.1. Giọng điệu buồn thương, da diết ....................................................... 81
3.2.2. Giọng điệu trầm tư, triết lí. ................................................................ 84
3.2.3. Giọng điệu nhại, hài hước.................................................................. 88
Tiểu kết chương 3 ......................................................................................................92
KẾT LUẬN .................................................................................................................93
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................95
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Truyện là một thể loại đặc sắc, nhiều nhà văn đã thử nghiệm với thể loại
này và gặt hái khá nhiều thành công. Trước đó, Nam Cao, Nguyễn Tuân,
Nguyễn Minh Châu… Sau đó là Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Tư, Sương
Nguyệt Minh,… Nguyễn Ngọc Thuần cũng là một nhà văn gặt hái được nhiều
thành công ở thể loại truyện.
Nguyễn Ngọc Thuần là một nhà văn có sức sáng tạo dồi dào với những
mẩu truyện cuốn hút. Những truyện anh viết ra không hối hả, kịch tính. Tất cả
những chi tiết, sự kiện cứ chậm rãi trôi qua nhẹ nhàng, sâu lắng. Với chất giọng
nhẹ nhàng, êm ả ấy Nguyễn Ngọc Thuần đã gặt hái khơng ít thành cơng như:
giải A cuộc vận động sáng tác văn học thiếu nhi năm 2002 với truyện Vừa nhắm
mắt vừa mở cửa sổ. Gần đây nhất, anh đạt giải nhì trong cuộc vận động sáng tác
văn học tuổi 20 lần V 2012 – 2014 với truyện Cơ bản là buồn. Tất cả những
trang văn của anh chứa đựng những hoài niệm sâu lắng về cuộc đời, con người,
nhân sinh và cả triết lí. Với tuổi đời chưa quá già dặn trong giới văn đàn nhưng
những ý vị trong những truyện anh đưa ra như mở ra một tầm nhìn tư tưởng
trong mỗi chúng ta.
Nét lạ của Nguyễn Ngọc Thuần thể hiện ở nghệ thuật của truyện từ lối kết
cấu, ngôn ngữ và giọng điệu cũng khác hẳn những nhà văn cùng thời. Hình
tượng nhân vật cũng mang những tính chất khác lạ, đặc biệt đó là những nhân
vật với những cái tên lạ bằng những kí hiệu chữ cái. Rồi đến những quan niệm
nhà văn gửi gắm trong truyện có thể nói là khá sâu sắc, nhưng người đọc phải lật
bỏ cái lớp ngôn từ mang giọng điệu nhẹ nhàng mới có thể thấy cả bề sâu ý niệm
bên trong các sáng tác của anh. Nguyễn Ngọc Thuần ln có lối viết sắc lạnh
nhưng nội tâm thì đầy tình cảm. Trong mỗi trang văn, nhà văn ln dành cả bầu
nhiệt huyết, cùng sôi sục, cùng tan chảy để rồi Nguyễn Ngọc Thuần đã nung nấu
những vần truyện mang đậm chất bề sâu của thế sự.
2
Nguyễn Ngọc Thuần được xem là cây bút sáng giá trong thời gian gần
đây. Văn của anh đã đưa người đọc đến một thế giới vừa hư vừa thực vừa thấm
đẫm tính triết lí. Những vấn đề anh chuyển tải vào truyện khơng q mới mẻ,
khơng q cầu kì. Những câu chuyện hằng ngày dưới ngòi bút của anh đã biến
hóa thành một thế giới khác hẳn mang một chiều sâu trong tương quan. Truyện
của anh lại có sức đánh thức trái tim con người, mở ra một cánh cửa mới để cảm
nhận cuộc sống. Vì thế, truyện của Nguyễn Ngọc Thuần luôn tạo ra một thế giới
mới mẻ, khác lạ lôi cuốn người đọc. Trong phần nghiên cứu, chúng tôi chỉ quan
tâm đến những sáng tác từ lứa tuổi 20. Ở đó, chúng tơi thấy một Nguyễn Ngọc
Thuần khác hẳn, không hồn nhiên, trong trẻo trong các truyện thiếu thi mà đó là
một Nguyễn Ngọc Thuần của sự sắc lạnh trong lối hành văn nhưng chất chứa
những nỗi niềm với suy tư, trăn trở, với huyễn hoặc và điên khùng.
Cùng với xuất thân từ một sinh viên của trường Mĩ Thuật Thành phố Hồ
Chí Minh nhưng cái anh theo đuổi ngồi hội họa cịn là những trang văn đượm
tình. Cũng từ cái chất mĩ thuật với đường nét màu sắc mà truyện của Nguyễn
Ngọc Thuần cũng mang hơi hướng họa trong văn. Khơng những thế, văn
chương anh ngồi chất lạ khơng giống ai, ngồi vẻ đẹp thẩm mĩ, cịn chứa đựng
những giá trị nhân văn sâu sắc.
Thông qua các truyện, Nguyễn Ngọc Thuần đã thể hiện được cá tính riêng
qua từng trang sách. Với những nét hội họa, với những cái không giống ai và cả
những hồi tưởng những suy tư của một con người yêu họa yêu văn. Truyện của
Nguyễn Ngọc Thuần luôn mang những đặc sắc riêng với những ý vị cùng hình
thức khác nhau. Chính vì những lí do trên, nên chúng tơi quyết định chọn đề tài
“Đặc điểm nghệ thuật truyện của Nguyễn Ngọc Thuần”.
2. Lịch sử vấn đề
Truyện của Nguyễn Ngọc Thuần khi ra đời đã tạo được nhiều ấn tượng,
dư vang trong lòng bạn đọc nói chung và nhận được nhiều sự quan tâm của giới
nghiên cứu, phê bình nói riêng. Phần lớn các bài viết về Nguyễn Ngọc Thuần
3
đều thiên về cảm nhận, nhận xét và đánh giá. Bên cạnh đó, có những cơng trình
luận văn nghiên cứu về các sáng tác của anh, chủ yếu ở mảng truyện thiếu nhi,
phong cách cổ tích hóa trong truyện của anh chứ chưa có một bài nghiên cứu
sâu về sáng tác của Nguyễn Ngọc Thuần. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi
thấy rằng các bài viết về Nguyễn Ngọc Thuần được phổ biến chủ yếu trên các
báo và tạp chí cùng với một vài luận văn nghiên cứu về các sáng tác của anh.
2.1. Nhóm bài viết nhận xét, đánh giá:
Trong bài Vài khơi gợi từ thế giới Nguyễn Ngọc Thuần: Một khu vườn
quyến rũ [91], tác giả Nhã Thuyên đã bộc lộ cảm xúc và những ghi nhận của
mình về văn của Nguyễn Ngọc Thuần. . Theo tác giả, thế giới trong văn của
anh là thế giới của sự phiêu lưu, sự lạ…Cịn có cả “cấu trúc trị chơi” xâu kết
các trang sách, một thế giới trò chơi giữa các nhân vật. Ngồi ra, tác giả cịn
chỉ ra bút pháp nghệ thuật mà anh sử dụng để sáng tạo những trang văn đẹp,
giàu sức biểu cảm, đó là bút pháp cổ tích, là những giản nở bất tận, khơng gian
vườn hoa,…
Anh Vân với Trang viết buồn về chiến tranh của Nguyễn Ngọc Thuần [95]
đăng trên giaitri.vnexpress.net. Tác giả đã nhận xét về tác phẩm Cơ bản là buồn
của Nguyễn Ngọc Thuần. Tác giả nói lên Nguyễn Ngọc Thuần đã dùng chất văn
sắc lạnh nói về chiến tranh và những con người sau chiến tranh. Nhưng đằng sau
ấy là những suy tư sâu sắc về số phận và con người, cảm xúc trong truyện không
ồn ào mà cứ lặng lẽ chảy vào tận tâm can của nhân vật và cả người đọc.
Bài phỏng vấn Nguyễn Ngọc Thuần văn chương cần phải đẹp và nhân
văn (Diễm Chi) [6] trên nxbtre.com.vn. Ở bài phỏng vấn này Nguyễn Ngọc
Thuần đã nói lên quan niệm viết văn của mình cũng như những lối viết tự nhiên
khơng gị bó khn khổ, cứ nghĩ là viết. Nguyễn Ngọc Thuần nghĩ, văn chương
thì phải đẹp và nhân văn. Yếu tố con người là quan trọng... Trong truyện của
anh những con người cụ thể, địa danh cụ thể, sự việc cụ thể… Và anh còn cho
4
biết thêm, người đọc có cảm giác hư ảo trong truyện có lẽ là do những mối giao
cảm giữa các nhân vật có vẻ như vượt khỏi đời thực.
Trong bài viết của Toàn Nguyễn, Nguyễn Ngọc Thuần – Hoàng tử bé biến
mất [58]. Trong bài viết tác giả đã nhận định: sự xuất hiện của Nguyễn Ngọc
Thuần trong giới văn chương là một hiện tượng mới đã tạo nên một thế giới
trong trẻo, lung linh, tươi sáng, mơ hồ nhưng đầy quyến rũ với các tác phẩm
Một thiên nằm mộng, Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ. Với những sáng tác của
Nguyễn Ngọc Thuần đã chinh phục được giới phê bình lão thành, ngay cả
những người khó tính nhất cũng đánh giá những sáng tác của anh trên mức trung
bình.
Có thể khẳng định, từ khi xuất hiện trên văn đàn Nguyễn Ngọc Thuần đã
tạo nên được nhiều sự quan tâm chú ý đối với đọc giả cũng như các nhà phê
bình văn học. Tuy nhiên, những cơng trình nghiên cứu về anh chưa nhiều, chủ
yếu dừng lại ở những bài báo, bài phỏng vấn. Bên cạnh đó, vẫn có một vài bài
luận văn nghiên cứu về các sáng tác của Nguyễn Ngọc Thuần.
2.2. Nhóm các bài luận văn
Đặc sắc nghệ thuật trong truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Ngọc
Thuần [21], Lê Thị Hằng, 2013, Trường Đại học Vinh. Qua luận văn, tác giả đã
cho thấy con đường đi đến văn học thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần; đặc săc
nghệ thuật, con người; ngôn ngữ, giọng điệu và cách tổ chức văn bản trong
truyện của anh. Để từ đó có một cái nhìn khái quát về các sáng tác thiếu nhi của
Nguyễn Ngọc Thuần.
Đặc điểm truyện thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần [46], Tạ Thị Liên –
Trường Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 05/2014.
Luận văn chủ yếu khảo sát một số tác phẩm thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần
và nêu ra những nội dung cơ bản cũng như nghệ thuật trong truyện thiếu nhi của
anh, từ đó khẳng định vị trí truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần
trong nền văn học đương đại.
5
Trong q trình nghiên cứu, chúng tơi thấy rằng các bài viết về Nguyễn
Ngọc cũng như những sáng tác của anh còn khá hạn chế. Và đa số các bài viết,
nhận định, đánh giá về Nguyễn Ngọc Thuần được đăng tải rời rạc trên các báo,
tạp chí, hay bài phỏng vấn. Đồng thời, chưa có một cơng trình nghiên cứu hoàn
chỉnh về Nguyễn Ngọc Thuần cũng như những sáng tác của anh.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề sau:
- Tìm hiểu những nét chính về thể loại truyện trong văn học Việt Nam
đương đại và các sáng tác, đề tài và cảm hứng trong truyện Nguyễn Ngọc
Thuần.
- Tìm hiểu về phương thức tự sự trong truyện của Nguyễn Ngọc Thuần
như nhân vật, điểm nhìn nghệ thuật, khơng gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật.
- Tìm hiểu về đặc điểm nghệ thuật ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện
của Nguyễn Ngọc Thuần.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Nguyễn Ngọc Thuần.
- Phạm vi: để nghiên cứu về đặc điểm truyện của Nguyễn Ngọc Thuần,
người nghiên cứu tìm hiểu và khảo sát các sáng tác dành cho từ lứa tuổi 20 cụ
thể là: Chuyện tào lao [về kẻ quấy rối và chồng cô ta] (Nxb trẻ), Sinh ra là thế
(Nxb trẻ), Cơ bản là buồn (Nxb trẻ), và một số truyện lẻ được đăng trên
vnthuquan.net như: Chuyện vặt, Mặt hồ u ám, Mùa thu trên ngón tay, Bước qua
một quãng đồi dài, Ánh sáng trong đêm cồn cát, Trước ngày sinh nở.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp:
- Phương pháp hệ thống giúp xác định vị trí truyện của Nguyễn Ngọc
Thuần trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn.
- Phương pháp loại hình được sử dụng nhằm khảo sát, phân loại thể loại
và xác định nhân vật trong các truyện của Nguyễn Ngọc Thuần.
6
- Phương pháp lịch sử - xã hội được vận dụng để miêu tả, phân tích những
đặc điểm truyện của nhà văn đặt trong sự vận động chung của giai đoạn văn học
sau đổi mới.
- Kết hợp thi pháp học nhằm phân tích, chỉ ra các đặc điểm nghệ thuật có
trong truyện của Nguyễn Ngọc Thuần.
Ngồi ra luận văn cịn sử dụng các thao tác nghiên cứu hỗ trợ như so
sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê… để lý giải một số vấn đề, hiện tượng được
đặt ra trong tác phẩm.
6. Những đóng góp của luận văn
Nếu đề tài nghiên cứu thành cơng sẽ góp một cái nhìn sâu sắc hơn về các
sáng tác của Nguyễn Ngọc Thuần. Đồng thời, đề tài khẳng định được phong
cách nghệ thuật cũng như tài năng xây dựng truyện của Nguyễn Ngọc Thuần.
Qua đó, đề tài cung cấp thêm tư liệu văn học cụ thể về nhà văn Nguyễn Ngọc
Thuần cũng như các sáng tác truyện của anh trong giai đoạn sau đổi mới, là tài
liệu học, nghiên cứu về một tác giả văn học Việt Nam đương đại.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần dẫn nhập, kết luận, và phần tài liệu tham khảo, chúng tơi trình
bày phần nội dung chính của đề tài trong 3 chương:
Chương 1. Thể loại truyện trong văn học Việt Nam đương đại và tác
giả Nguyễn Ngọc Thuần (26 trang)
Chương 2. Phương thức tự sự trong truyện Nguyễn Ngọc Thuần (41
trang)
Chương 3. Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện Nguyễn Ngọc Thuần
(21 trang)
7
Chương 1. THỂ LOẠI TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
ĐƯƠNG ĐẠI VÀ TÁC GIẢ NGUYỄN NGỌC THUẦN
1.1. Khái niệm truyện và đặc điểm của truyện
1.1.1. Khái niệm truyện
Truyện là một thể loại văn tự sự nhằm phản ánh hiện thực cuộc sống qua
những sự kiện, nhân vật, biến cố. Trong tác phẩm truyện nhà văn có thể thể hiện
tư tưởng và tình cảm của mình. Và chính tư tưởng, tình cảm này xâm nhập vào
các hoạt động sự kiện bên trong tác phẩm khiến cho người đọc cảm nhận hiện
thực trong tác phẩm là một thế giới tạo hình xác định đang tự phát triển nằm
ngồi nhà văn, khơng phụ thuộc vào nhà văn.
Truyện là gì? Nó là một câu hỏi địi hỏi người nghiên cứu phải có sự dung
nạp từ nhiều thể loại để khái quát thành một khái niệm tồn vẹn và chung nhất.
Thuật ngữ “truyện” có nhiều nghĩa. Theo Từ điển văn học: “truyện một mặt
được dùng để chỉ mọi loại tác phẩm tự sự có cốt truyện nói chung (bao gồm cả
truyện kí, tiểu thuyết), mặt khác lại được dùng như một thuật ngữ chỉ dung
lượng tác phẩm tự sự (truyện dài, truyện vừa, truyện ngắn)”. Với nguồn gốc chữ
Hán “truyện có nghĩa là giải thích kinh nghĩa” [75, tr.290]. Còn ở phương Tây
người ta dùng từ “story” để chỉ các truyện ngắn. [75, tr.291]. Nhưng đây chỉ là
những giải thích căn bản về truyện chứ chưa có tính chất khái qt căn bản.
Truyện là dãy sự kiện, tình huống và xung đột (các hành vi, vị thế, bao gồm
cả vị thế mâu thuẫn, và trạng thái của các nhân vật) được định hướng một cách
nghệ thuật trong thế giới các nhân vật; dựa vào trình tự của chúng, người ta phân
biệt các bình diện cốt truyện (sự phân bố của các yếu tố thuộc dãy nói trên trong
đời sống một nhân vật và ý nghĩa của chúng đối với nó). Truyện kể theo đúng
nghĩa riêng của nó (sự phân bố của chính các sự kiện và tình huống nói trên
trong tầm nhìn của tác giả và độc giả), nhưng thơng thường, dựa vào đó, người
ta phân biệt các yếu tố lặp lại (yếu tố truyền thống), tức là các môtip, và và tổ
hợp vững chắc của các môtip.
8
Hegel là người đặt nền móng cho lí thuyết truyện kể, khi ơng phân tích động
lực của hành động như vốn dĩ: nó là sự thống nhất năng động của các giai đoạn
tĩnh tại tương đối (tình huống), sự phá vỡ trạng thái ấy cùng sự tách đôi được
nảy sinh (xung đột). Và, cuối cùng, sự giải quyết mâu thuẫn căng thẳng đã xuất
hiện (sự kiện) mà kết cục là một tình huống mới được xác lập và cả chuỗi lại
được lặp lại. Việc nghiên cứu thi pháp truyện kể một cách hệ thống thường được
tính từ thời đại hình thức luận Nga (V. Sklopvski, B. Tomashevski, Iu.
Tynhanov, L.S. Vygotski). Đặc điểm nổi bật của hệ thống lí thuyết này là, một
mặt, quy dãy sự kiện về cốt truyện; mặt khác, đồng nhất truyện kể với trần thuật.
Mối quan hệ giữa các khái niệm nói trên khơng chỉ là kết quả của sự đối lập
vốn là nguyên tắc riêng thuộc về trường phái khoa học này: đối lập chất liệu
hiện thực với thủ pháp biến chất liệu hiện thực ấy thành sản phẩm của sáng tác
nghệ thuật. Nó cịn phản ánh xu hướng chủ quan hoá của các thể loại tự sự vào
cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, phản ánh sự khác biệt sâu sắc giữa sự kiện theo
ý nghĩa truyền thống của từ ấy (được quan sát một cách khách quan) và những
yếu tố vận động của thế giới được phản ánh, những yếu tố không được biểu đạt
bằng lời, mà chỉ được trình bày với tư cách là những động tác ngôn từ (như
trong kịch), hoặc biểu hiện trực tiếp các vận động tâm trạng (như trong trữ tình).
Khơng phải ngẫu nhiên, những cơng trình nghiên cứu truyện kể dựa vào chất
liệu cổ đại (V.Ja. Propp, O.M. Freidenberg) đều không thể phân biệt truyện
kể và cốt truyện, cũng như không thể xáo trộn truyện kể với trần thuật.
Đồng thời, trong các cơng trình nghiên cứu truyện kể theo hướng “thần thoại
học”, trung tâm chú ý không phải là sự phân bố sự kiện (“sắp xếp” chuỗi sự
kiện), mà là ngữ nghĩa của các yếu tố truyền thống (các môtip hoặc chức năng)
và – về mặt này – tính nội dung của trình tự được chúng tạo thành (cấu trúc của
chỉnh thể). Tuyến nghiên cứu truyện kể theo hướng này về sau không được tiếp
tục phát triển. Hướng nghiên cứu gần gũi với trường phái hình thức Nga là lí
thuyết truyện kể của chủ nghĩa cấu trúc Pháp (C. Bremond, A.J. Greimas, G.
9
Genette) và tự sự học hậu cấu trúc hiện đại (W. Smid). Các mơn đệ cấu trúc luận
Pháp tìm điểm tựa ở tư tưởng và phương pháp ở cơng trình Hình thái học truyện
cổ tích thần kì. Trần thuật học hậu cấu trúc luận đưa ra nhiều mơ hình và đề
xướng nhiều mơ hình bổ sung. Với tư cách là sự triển khai “sự kiện thống nhất
được kể lại” (chứ không phải bản thân sự kể) thành một chuỗi, một trình tự rời
rạc, một mặt, truyện kể được xác định là một không – thời gian như thế này, hay
thế kia. Mặt khác, nó cịn được xác định bởi hoạt động của nhân vật, tức là loại
hình nhân vật. Dựa vào đó người ta phân chia truyện kể thành các biến
thể truyện. Bên cạnh đó, loại hình truyện kể sẽ gắn với sơ đồ cấu trúc phổ quát
giữ vai trò chủ đạo trong đó được tổ chức theo kiểu xâu chuỗi, hay tăng cấp.
Cuối cùng, cấu trúc truyện kể sẽ biến đổi từ thể qua thể: chẳng hạn, ai cũng biết
rõ tổ hợp các môtip gắn kết vô số sự kiện của sử thi và định hướng sự vận động
của chúng tới chương kết là như thế nào; hay, cũng có thể phân chia các tổ hợp
tương tự trong mọi dạng tiểu thuyết trên trường kì lịch sử của nó.
Đặc biệt, trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi chú ý đến lí luận về
truyện ngắn, để sát với đối tượng nghiên cứu. Nhà văn, nhà phê bình văn học
Steven Millhauser định nghĩa truyện ngắn như sau: “Truyện ngắn không phải
là một truyện dài được rút ngắn lại. Có nhiều người tìm cách định nghĩa truyện
ngắn, nhưng cơng việc đó cũng khó như là khi ta tìm cách định nghĩa thơ. Mặc
dù vậy, nếu cần một định nghĩa theo màu sắc riêng thì theo chúng tơi, truyện
ngắn trước hết chứa đựng trong nó một câu chuyện kể. Câu chuyện được kể lại
như thế nào? Nó được kể lại thơng qua một cốt truyện, tức là thứ tự hoặc diễn
trình của các hành động. Nhiều độc giả bình dân chỉ thích đọc hoặc xem phim
với ý nghĩa này, tò mò biết cho được câu chuyện được kết thúc như thế
nào. Cốt truyện bao giờ cũng dẫn từ khởi đầu đến các tình huống tạo ra xung
đột, gọi là giai đoạn tăng tiến của hành động, đạt đến trạng thái khủng hoảng
cao nhất, tình huống gay cấn nhất, và sau đó đi xuống, giai đoạn thối bộ,
trong diễn trình giải quyết vấn đề” [24, tr.87]. Xung đột có thể xảy ra giữa con
10
người và con người, giữa con người và thiên nhiên hay trong nội tâm của nhân
vật. Dù trường hợp nào đi nữa thì số phận của một nhân vật chính là linh hồn
của câu chuyện. Nhà nghiên cứu muốn nói đến số phận trong một khoảnh
khắc, vì truyện ngắn chỉ chạm đến các khoảnh khắc. Nhà văn dùng tác phẩm
của mình để chiếu sáng khoảnh khắc ấy hay để giải quyết số phận của nhân vật
trong chính khoảnh khắc ấy.
Như thế, truyện ngắn là câu chuyện; một câu chuyện được kể dựa theo cốt
truyện; cốt truyện thông qua các hành động của nhân vật mà diễn ra. Nhân vật
thông qua các hành động của mình mà bộc lộ các tính cách. Xung đột giữa các
tính cách hoặc giữa tính cách và hoàn cảnh tạo ra vấn đề của truyện ngắn.
Truyện ngắn được coi là khó viết vì đặc điểm của nó là sự dồn nén, sự tinh chế,
sự loại trừ. Mặc dù có những ngoại lệ, nó đạt được hiệu quả thẩm mỹ là nhờ biết
tập trung vào các điểm sau đây: tập trung vào một nhân vật, xảy ra trong một
hồn cảnh hay một tình huống cụ thể, diễn ra trong một thời gian ngắn. Tất cả
nhằm tiến tới một xung đột và vượt qua xung đột ấy.
Từ những quan niệm trên, và qua quá trình nghiên cứu, chúng tơi có thể
khái qt khái niệm truyện theo cách sau “Truyện có thể dung chứa các thể loại
như truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài. Truyện được viết dưới dạng hình thức
kể có khả năng bao quát dung chứa những sự kiện trong cuộc sống với sự hư cấu
của tác giả. Truyện vừa mang yếu tố chủ quan vừa mang yếu tố khách quan,
truyện chứa đựng trong nó hai ý nghĩa cơ bản vừa phản ánh hiện thực khách
quan vừa nêu lên tư tưởng và tình cảm của nhà văn thơng qua các chi tiết, sự
kiện, biến cố và nhân vật.”
1.1.2. Các thể loại truyện
Nhà văn khi sáng tác bao giờ cũng sáng tác theo một mơ hình thể loại nhất
định. Khi phân chia thể loại của một tác phẩm văn học người ta căn cứ vào
những yếu tố chính: tố chất thẩm mĩ chủ đạo; giọng điệu; dung lượng và cấu
trúc chung của tác phẩm. Từ khi khái niệm tiểu thuyết được du nhập từ Trung
11
Quốc vào Việt Nam, truyện bắt đầu có sự lẫn lộn phức tạp với tiểu thuyết, nhất
là khi nhà văn dùng thuật ngữ này hay thuật ngữ khác để gọi tên tác phẩm của
mình. Lúc này, việc chia các thể loại truyện trở nên phức tạp. Nhưng trong quá
trình nghiên cứu, chúng tôi nghiêng về cách phân chia truyền thống của truyện
gồm: truyện dài, truyện vừa và truyện ngắn.
Truyện dài là một khái niệm thường được cho là nằm giữa giữa tiểu thuyết
và truyện ngắn. Về độ dài, truyện dài có dung lượng chữ lớn hơn truyện ngắn
khoảng 4-6 lần nhưng cũng kém vài lần so với độ đồ sộ của tiểu thuyết.Truyện
dài xét về mặt dung lượng là một thể loại có dung lượng lớn so với truyện vừa
và truyện ngắn, nó có một vị trí quan trọng trong sự phát triển của văn học. Viết
truyện dài tác giả phải huy động số động chữ, chi tiết, các tình huống… khá
rộng để tác phẩm “có chuyện”, hợp lý, hấp dẫn và gửi gắm được điều muốn nói
đến độc giả. Nó có khả năng bao quát cuộc sống một cách tỉ mỉ, sâu sắc và
nhiều mặt. Truyện dài cịn có khả năng xâm nhập vào đời sống một cách sâu
sắc. Truyện dài có những nét tương quan với tiểu thuyết, nhưng truyện dài
khơng phải tiểu thuyết. Tiểu thuyết có dung lượng lớn hơn, hệ thống các chi tiết
các sự kiện của tiểu thuyết được mở rộng tối đa và không bị hạn chế. Bên cạnh
đó, tiểu thuyết cịn có khả năng đi sâu vào đời tư và số phận con người một cách
tỉ mỉ, nhiều mặt. Tiểu thuyết có khả năng hấp thụ vào mình cũng như khả năng
tổng hợp các phương tiện nghệ thuật của các thể loại khác. Tiểu thuyết được
khẳng định là một thể loại mang tính tổng hợp cao. Ranh giới để khẳng định đâu
là truyện dài, đâu là tiểu thuyết cũng khá mờ nhạt trừ khi tác giả gọi tên một
cách chính thức. Nhưng đơi khi sự gọi tên ấy chỉ dừng lại ở mức độ tương đối,
khơng có sự phân chia rạch rịi. Với Cơ bản là buồn của Nguyễn Ngọc Thuần
được tác giả định hình cho nó là truyện dài, nhưng khi hệ thống tồn bộ tác
phẩm ta lại thấy nó mang dáng dấp của tiểu thuyết. Các sự kiện chi tiết được kết
nối một cách xâu chuỗi, sự mô tả cuộc sống hậu chiến tranh với nhiều chiều,
12
nhiều mặt, tái hiện những nỗi đau như giằng xé con người cả về thể xác lẫn tinh
thần.
Truyện vừa thuộc thể loại văn xuôi tự sự với dung lượng trung bình đứng
giữa truyện dài và truyện ngắn. Nhưng nếu nói rằng truyện vừa thu hẹp phạm vi
tái hiện đời sống là một cách nói thiển cận chưa đi sâu vào nội hàm của truyện
vừa. Có một số tác phẩm tự sự cỡ trung bình nhưng sức bao quát cuộc sống thì
khơng hề hẹp như Con đầm pích của Puskin, Taras Bulba của Gogol, AQ chính
truyện của Lỗ Tấn,… Chính vì dung lượng trung bình của truyện vừa, nên hệ
thống cấu tứ trong một tác phẩm cũng gãy gọn hơn. “Câu văn trong truyện vừa
thường giản dị, gọn gàng, sáng rõ, ít trang sức và độ đục mờ thấp làm cho nhịp
độ trần thuật nói chung nhanh hơn tiểu thuyết” [75, tr.313]. Sự gãy gọn trong
truyện vừa là cơ sở để tái hiện đối tượng, các sự kiện trong đời sống hằng ngày
một cách tập trung và nổi bật hơn. Chính vì thế, q trình vận động tính cách
nhân vật cũng ít được miêu tả hơn. Ngoài ra, các sự kiện, nhân vật cũng ít hơn
truyện dài và tiểu thuyết.
Truyện vừa có sự gần gũi với tiểu thuyết. Ranh giới giữa truyện ngắn và tiểu
thuyết cũng chỉ ở mức tương đối. Có người gọi Đất nước đứng lên của Nguyên
Ngọc, Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Bên kia biên giới của Lê Khâm là tiểu thuyết,
nhưng có người cho là truyện vừa. Bielinski đã cho rằng “truyện vừa là biến thể
của tiểu thuyết” và “truyện vừa là tiểu thuyết, duy có dung lượng nhỏ hơn”. Từ
nhận định của Bielinski, giữa các thể loại nếu có sự phân chia cũng chỉ ở mức độ
tương đối. Trong quyển lí luận văn học của Trần Đình sử cũng có một đoạn gần
giống với nhận định của Bielinsky “Các tác phẩm Việt Nam được ghi là truyện
thường có đặc điểm gần với truyện vừa hơn là tiểu thuyết. Không phải ngẫu nhiên
mà các tác phẩm viết về chiến tranh trong văn học Xô Viết và ở Việt Nam thường
dùng hình thức truyện vừa. Tuy nhiên, truyện vừa hiện đại lại gần với tiểu thuyết,
chỉ khác với dung lượng” [75, tr.314].
13
Thể loại thứ ba của truyện là truyện ngắn. Đây là thể loại có dung lượng
ngắn nhất so với truyện dài và truyện vừa. Truyện ngắn thuộc loại văn xuôi tự
sự cỡ nhỏ, và so với truyện dài và truyện vừa, truyện ngắn có dung lượng nhỏ
hơn và tập trung hơn. Phạm vi của đời sống được tái hiện trong truyện ngắn có
thể chỉ là “một khoảnh khắc của đời sống” [10, tr.106]. Và Georg gọi truyện
ngắn là “nghệ thuật thuần túy nhất” [75, tr.315]. Không ngẫu nhiên mà Georg
gọi truyện ngắn là nghệ thuật thuần túy nhất. Tuy dung lượng nhỏ nhưng truyện
ngắn lại mang đến những ý nghĩa sâu sắc về cuộc đời và tình người với sự gói
gọn và cơ đọng nhất. Truyện ngắn khơng dàn trải các chi tiết, khơng miêu tả q
nhiều những tình tiết đưa đến sự kiện mà tập trung truyền tải một sự kiện mang
yếu tố cốt lõi gắn liền với quá trình phát triển của nhân vật. Ví dụ lối viết truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư trong thời gian gần đây hết sức cô đọng. Trong tập
tạp văn của chị, truyện ngắn Một ngày của cha, nhân vật người cha hiện lên ở
đầu truyện hết sức lao khổ, thông qua vài chi tiết được chọn lọc hết sức kỹ
lưỡng về ngoại hình, ngơn ngữ, hành động, sao cho nổi bật cơng việc và khó
khăn thường trực của một người nơng dân miền Tây Nam Bộ. Hình ảnh lội bùn
ngập cả thân mình, chỉ chừa cái đầu, nghe tiếng con gái gọi, ông nhô người lên,
thở khó nhọc, nở nụ cười ánh lên trong mắt bao nỗi ưu tư sau đợt thất mùa. Bấy
nhiêu hình ảnh, tương hợp với cái tên truyện, ngay lúc đầu tiếp xúc độc giả đã
phần nào cảm nhận được vấn đề chủ đạo của truyện.
Truyện ngắn không dung nạp trong mình quá nhiều vấn đề của đời sống, nó
chỉ tái hiện một khoảnh khắc, một cuộc đời hay một đoạn đời, một sự kiện hay
một chốc lát trong cuộc sống nhân vật, nhưng ý nghĩa đem lại thì vơ cùng sâu
xa. “Cái chính của truyện ngắn khơng nằm ở hệ thống các sự kiện mà ở cái nhìn
tự sự đối với cuộc đời”[75, tr.315]. Tuy nhiên, nếu xem cái khoảnh khắc là một
đặc trưng riêng biệt của truyện ngắn là chưa đầy đủ. E. Poe gọi truyện ngắn là
“một giọt nước”. Chekhov gọi “truyện ngắn là một tấm lưới, phải cắt bỏ rất
nhiều”. Nhà văn Nam Phi Nating Gordim gọi truyện ngắn là “con đom đóm
14
trong đêm tối” [75, tr.316]. Như vậy có rất nhiều quan niệm về truyện ngắn,
nhưng chúng tôi tạm xác định truyện ngắn trên hai phương diện:
Phương diện thứ nhất, xét về mặt dung lượng truyện ngắn hầu hết đều ngắn,
nếu như số trang được kéo dài q mức thì nó khơng cịn là truyện ngắn mà có
thể trở thành cả tiểu thuyết. Chính dung lượng ngắn nên hệ thống nhân vật, các
chi tiết, sự kiện đều được cô đọng lại để đáp ứng yêu cầu ngắn của truyện ngắn.
Phương diện thứ hai, là ở sự cơ đọng súc tích trong miêu tả, các chi tiết, sự
kiện, hành động nhân vật phải được dồn nén đến mức tối đa. Nhà văn phải chọn
một, hai nhân vật, đơi ba sự kiện chính để triển khai câu chuyện. Truyện ngắn
“không thể nhẩn nha, trầm tĩnh như trong tiểu thuyết” [10, tr.107]. Các tình tiết
phải được chọn lọc kĩ lưỡng để có thể từ một vài tiêu điểm có thể nhìn ra cả thế
giới, một vài chi tiết miêu tả có thể bao trùm cả khơng gian, từ một vài sự kiện
có thể miêu tả được cả cuộc đời.
Các thể loại của truyện được chia ra làm truyện dài, truyện vừa và truyện
ngắn, nhưng sự phân chia này chỉ ở mức tương đối. Chưa có bất kì sự phân định
rạch rịi trong các thể loại văn học, đơi lúc giữa chúng ln có sự nhập nhằng.
1.1.3. Đặc điểm của truyện
Tự sự dùng để chỉ phương thức miêu tả của văn học, mà ở đó chủ yếu miêu tả
sự kiện theo phương thức kể. Phương thức này xuất hiện ở đa số tác phẩm thuộc
thể loại tiểu thuyết, truyện, kí sự, phóng sự,…Ngồi ra, tự sự còn được dùng để
chỉ các tác phẩm văn học chủ yếu dùng phương thức tự sự để miêu tả như: Truyền
kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Tố Tâm (Hồng Ngọc Phách), …. Với quan niệm thứ
nhất, truyện là một thể loại nằm trong phương thức tự sự. Cho nên, đặc điểm của
truyện cũng khơng nằm ngồi đặc điểm của các tác phẩm tự sự.
Đặc điểm đầu tiên của truyện là kể về một câu chuyện, một sự kiện từ
phía người khác. Aristotle đã cho rằng “trong tác phẩm tự sự nhà văn kể về một
sự kiện xem một cái gì tách biệt với mình” [10, tr.100]. Chính đặc điểm này đã
tách bạch truyện với thơ hay những tác phẩm trữ tình, khi nhà văn bộc lộ một
15
cách trực tiếp thế giới chủ quan của mình với những cảm xúc cơ đọng trong
từng câu chữ. Cịn truyện sẽ có cái nhìn khách quan hơn “những suy nghĩ, hạnh
phúc, đau khổ của nhân vật, diễn biến của sự kiện, cốt truyện,… được nhà văn
kể lại, tái hiện lại như những đối tượng khách quan được đưa ra mổ xẻ phân
tích” [10, tr.100]. Do được kể lại từ phía tác giả hoặc người trần thuật nên
truyện sẽ có cái nhìn khách quan hơn. G.N. Pospelov có nhận xét: “Đối với sự
trần thuật thì cái được miêu tả là một cái quá khứ” [10, tr.101].
Nhà văn muốn khắc họa truyện một cách khách quan trước hết cần phải có
một hệ thống sự kiện. Hành động, tính cách nhân vật hay số phận cuộc đời và
các biến cố của các nhân vật trong truyện phải được thực thi qua các sự kiện
trong tác phẩm. Khi các sự kiện được hình thành, đòi hỏi chúng phải xâu chuỗi,
đan kết vào vào nhau tạo thành một khối thống nhất. Chính các sự kiện này sẽ
tạo nên mạch chính cho tác phẩm, giúp tái hiện cuộc sống một cách rõ nét và
khách quan hơn. Một số truyện ngắn hiện đại cũng đã thực hiện được chức năng
đó. Tác phẩm Chiếc thuyền ngồi xa (Nguyễn Minh Châu), khi tác giả giao cho
nghệ sĩ Phùng kể lại câu chuyện. Câu chuyện bắt đầu từ cách nhìn của nghệ sĩ
Phùng về nghệ thuật và cuộc đời, hình ảnh chiếc thuyền đẹp như “một cảnh đắt
trời cho” nhưng cuối cùng phía sau vẻ đẹp ấy chính là sự đau khổ của cuộc đời,
của một gia đình. Chính những sự kiện trong truyện đã xâu chuỗi, đan dính để
phản ánh một hiện thực cuộc sống “nạn bạo lực gia đình”.
Đặc điểm thứ hai, truyện miêu tả sự kiện mở ra khả năng phản ánh vô
cùng to lớn. Thế giới được khắc họa trong truyện là một thế giới nghệ thuật vơ
cùng rộng lớn. Ở đó, nó có thể bao quát nhiều khía cạnh nhiều mặt của cuộc
sống. Bên cạnh đó, nhân vật cũng được bao qt từ ngoại hình, tính cách, số
phận. Ta có thể thấy trong truyện đó là con người cá nhân, con người của tiềm
thức suy tưởng. Truyện có khi miêu tả một nhân vật, một con người trong một
biến cố nhất định, có khi lại miêu tả cả một thế hệ, một chuỗi nhân vật, lại có
khi nhiều thế hệ qua lời kể của người kể chuyện theo từng miền kí ức. Truyện có
16
khả năng “miêu tả một cách kĩ càng chi tiết nhiều biến cố nhiều sự kiện” [10,
tr.101]. Chính vì thế, cốt truyện trong truyện thường đa dạng và phong phú hơn
những thể loại khác. Nhà văn có thể đan xen nhiều mẩu chuyện trong cùng một
truyện, đang nói ở hiện tại nhà văn lại cho trở về quá khứ hay nhanh chóng
chuyển hướng đến tương lai. Có thể đang nói đến sự kiện này, nhưng lại xen vào
những đoạn bình luận, những trang miêu tả ngoại vi.
Như đã nói ở trên, truyện có khả năng bao quát cuộc sống rộng lớn nên các
vấn đề trong truyện được miêu tả, tái hiện một cách tỉ mỉ hơn so với các thể loại
khác. Nhân vật trong truyện luôn được chú trọng bởi sự đầy đặn, góp phần thành
cơng cho một tác phẩm truyện. Ở nhiều truyện truyền thống, nhân vật thường
được miêu tả từ ngoại hình, cách hành xử, tâm lí, tính cách, hành động, số phận.
Càng về sau nhân vật càng bị nhịe. Với một tác phẩm truyện ngắn Chí Phèo của
Nam Cao, ta thấy được một nhân vật đầy đặn bị xã hội làm cho tha hóa. Anh
Chí được miêu tả tỉ mĩ từ ngoại hình, lời nói, hành động, tính cách cho đến sự
chuyển biến tâm lí. Ngoại hình của một thằng du côn “cái đầu trọc lốc, cái răng
thì cạo trắng hớn, cái mặt đen mà cứ câng câng, hai mắt gờm gờm trong gớm
chết”. Lời nói của anh Chí xuất phát đầu tiên là tiếng chửi “Hắn vừa đi vừa chửi.
Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Hành động là của một kẻ rạch mặt
ăn vạ, suốt ngày say xỉn. Nhưng cuối cùng khi gặp Thị Nở thì anh bắt đầu có sự
chuyển biến tâm lí. Thị đánh thức con người lương thiện trong hắn, hắn thèm
được lương thiện, khao khát được lương thiện, nhưng cái xã hội không cho hắn
lương thiện. Cuối cùng ý thức đã thơi thúc anh hành động, tìm đến nhà Bá Kiến
và giết chết hắn rồi tự sát. Chính sự miêu tả một cách tỉ mĩ của nhà văn Nam
Cao, hình ảnh anh Chí được hiện lên rõ nét, nó ấn sâu vào tâm can của chúng ta,
nó gây nên sự nhức nhối, rồi còn biết bao người như anh Chí bị nhà tù thực dân,
xã hội thực dân nửa phong kiến làm cho tha hóa. Ở Mười ba bến nước (Sương
Nguyệt Minh), chúng tơi thấy xót xa thương cảm cho thân phận con người, đặc
biệt là người phụ nữ. Chiến tranh đâu chỉ khốc liệt ngoài chiến tuyến, nó cịn xơ
17
đẩy những người phụ nữ nơi hậu phương vào những hồn cảnh éo le, thậm chí
bi thảm “Từ hơm ở nhà anh Hà Văn Nênh về, nói chuyện với mẹ, chồng tơi
thường khen bạn mình tốt số gặp may. Sau nhiều ngày đắn đo, anh quyết định
nói với tơi rằng anh muốn “giải phóng” cho tơi. Anh mong tơi tìm hạnh phúc
mới và đẻ những đứa con lành lặn. Tôi ra đi như con thuyền rời bến cũ, có phúc
sẽ có phần, biết đâu gặp bến mới thì cắm sào đậu. Cho là rổ dá cạp lại, tơi cũng
có chốn ấm mà nương thân... Quả thật, có lúc tơi nghĩ đến điều này. Nhưng khi
đó, tơi chống váng, cảm thấy bị bỏ rơi” [57].
Do tập trung miêu tả sự kiện nên hệ thống chi tiết cũng trở nên dày đặc
hơn, đa dạng hơn. Chi tiết trong truyện được miêu tả với tính hiện thực hơn vì
truyện là sự phản ánh một cách chân thực cuộc sống khách quan thông qua
lăng kính chủ quan của nhà văn. Ở đó, những sự việc cuộc đời sống được tái
hiện một cách rõ nét. “Có chi tiết về nhân vật, với chân dung, nội tâm, hành
động, ngơn ngữ, lại có chi tiết về cảnh sắc thiên nhiên, về phong tục tập quán.
Có chi tiết về đời sống xã hội, văn hóa, lại có chi tiết về sinh hoạt cụ thể của
con người” [10, tr.102]. Chính các chi tiết này tạo nên sự bộn bề cho một tác
phẩm truyện.
Thứ ba, Lời văn chủ yếu của truyện là lời kể của người kể chuyện.
Trong các sáng tác thơ, hay các tác phẩm trữ tình chủ yếu là lời bộc bạch trực
tiếp của nhân vật trữ tình, trong các sáng tác truyện chiếm vài trò chủ đạo là lời
kể của người kể chuyện. Lời kể tái hiện các sự kiện chi tiết, biến cố, các nhân
vật, tức là kể lại, tái hiện lại tất cả thế giới nghệ thuật của một tác phẩm truyện.
Chẳng hạn trong truyện Trăng nơi đáy giếng của Trần Thùy Mai chủ yếu là lời
kể của người kể chuyện thuật lại những biến cố trong cuộc sống của Hạnh. Một
người phụ nữ hết lịng vì chồng, u chồng như một sự tơn thờ nhưng cuối
cùng vẫn để hạnh phúc vuột khỏi tầm tay “dù rằng ơng Phương đã có một
người đàn bà khác, có một đứa con khơng do cơ sinh ra, ơng vẫn là vị Thánh
sống đối với cô. Cô không cho phép ai nặng lời khi nói về ơng ấy. Bởi tất cả
18
những chuyện này là do cô: cô đã tự tay sắp đặt, chỉ vì khơng chịu nổi vẻ buồn
thầm lặng trên khuôn mặt ông”[52].
Thứ tư, cùng với lời kể là hình tượng người kể chuyện xuất hiện. Người
kể chuyện trong truyện nói riêng hay trong tác phẩm tự sự nói chung xuất hiện
dưới nhiều dạng khác nhau. Có thể người kể chuyện xuất hiện ở ngôi thứ nhất
khi xưng “tôi”, trực tiếp kể lại câu chuyện dưới cách nhìn của mình. Chẳng hạn
như trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngồi xa của Nguyễn Minh Châu, người kể
chuyện là nghệ sĩ Phùng, anh ấy xưng “tôi” với tư cách là nhân vật trong tác
phẩm thuật lại toàn bộ thế giới nghệ thuật của truyện. Trường hợp này còn bắt
gặp trong truyện Mười ba bến nước (Sương Nguyệt Minh) là lời kể của người
vợ, chị xưng tôi và kể lại câu chuyện của chính mình. Bên cạnh đó, người kể
chuyện cịn xuất hiện ở ngôi thứ ba, người kể chuyện lúc này không trực tiếp lộ
diện mà thường ẩn sau tác phẩm. Lúc này, nhà văn để cho người kể chuyện
đứng ở vị trí khách quan để kể lại những diễn biến của sự kiện được diễn ra
trong tác phẩm. Tuy người kể chuyện không lộ diện nhưng qua lời văn người
đọc vẫn cảm nhận được sự hiện diện của người kể chuyện, người đọc vẫn nhận
ra thái độ, tình cảm tư tưởng như trong Những người khốn khổ, Tắt đèn,….
Người kể chuyện nói như M.Gorki “giữ vai trị ‘mách nước” cho độc giả hiểu và
đánh giá các sự kiện, các nhân vật, cảm xúc trong tác phẩm” [10, tr.103]. Người
kể chuyện xuất hiện trong trang văn có khi “kể với giọng kể có vẻ rất lạnh lùng,
rất khách quan. Nhưng dù khách quan, lạnh lùng đến đâu người đọc vẫn có thể
nhận ra người kể chuyện với thái độ, quan điểm, tư tưởng và khát vọng của họ
qua thế giới nghệ thuật của tác phẩm” [10, tr.103].
Trên đây là những đặc điểm chung nhất của thể loại tự sự nói chung và
thể loại truyện nói riêng. Trong tất cả thể loại tự sự ít nhất là truyện và tiểu
thuyết đều mang trong mình các đặc điểm nghệ thuật như: kết cấu, nhân vật, cốt
truyện, ngôn ngữ, giọng điệu, và người kể chuyện (người trần thuật). Dựa vào
19
đặc điểm này chúng tơi có thể có cái nhìn khái quát về truyện, thuận tiện cho
việc nghiên cứu các sáng tác truyện của Nguyễn Ngọc Thuần.
1.2. Nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần và quá trình sáng tác
1.2.1. Vài nét về nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần
Nguyễn Ngọc Thuần tuy là một nhà văn trẻ trong giới văn đàn hiện nay,
nhưng anh đã gặt hái được khá nhiều thành công trong các sáng tác của mình.
Một chàng trai trẻ quê gốc ở Bình Thuận, lại là một sinh viên trường Đại học Mĩ
thuật thành phố Hồ Chí Minh, nhưng anh lại bén duyên với nghề viết văn. Năm
28 tuổi anh bắt đầu cho ra đời đứa con tinh thần đầu tiên Giăng giăng tơ nhện.
Tập truyện đã đạt giải ba trong cuộc vận động sáng tác “Văn học tuổi 20”. Tài
năng của anh bắt đầu được hình thành từ lúc này. Bằng sự tìm tịi cũng như khả
năng làm việc tận tụy với nghề văn, những tác phẩm của anh tiếp tục đến với
bạn đọc và dần dần khẳng định vị trí trong giới văn đàn với một số tác phẩm tiêu
biểu như: Một thiên nằm mộng, Trên đồi cao chăn bầy thiên sứ, Vừa nhắm mắt
vừa mở cửa sổ, Chuyện tào lao [về kẻ quấy rối và chồng cô ta], Sinh ra là thế,
Cơ bản là buồn,…
Nhìn chung về sáng tác của Nguyễn Ngọc Thuần, chủ yếu là truyện ngắn
và truyện dài. Về mặt nội dung, có thể chia làm hai mảng truyện lớn: truyện viết
dành riêng cho thiếu nhi và truyện dành cho người lớn. Và ở bất cứ mảng truyện
nào anh cũng gặt hái khơng ít thành cơng.
1.2.1.1. Truyện viết dành cho thiếu nhi
Trong các sáng tác của anh, truyện viết dành cho thiếu nhi là một mảng
truyện đem đến cho anh những thành công đáng kể. Các truyện dành cho thiếu
nhi đều mang tính chất giáo dục, thúc đẩy khả năng thiên hướng của thiếu nhi.
Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ điểm qua một vài sáng tác tiêu biểu góp
phần định hình nên nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần.
Tác phẩm đầu tay của anh Giăng giăng tơ nhện, đã góp phần tạo dựng tên
tuổi của Nguyễn Ngọc Thuần với giải Ba cuộc vận động sáng tác “Văn học tuổi