Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4 5 tuổi trong việc làm quen với môi trường xung quanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 139 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Võ Thị Uyên Vy

TÍNH TÍCH CỰC GIAO TIẾP
CỦA TRẺ MẪU GIÁO 4 – 5 TUỔI TRONG VIỆC
LÀM QUEN VỚI MÔI TRƯỜNG XUNG QUANH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Võ Thị Uyên Vy

TÍNH TÍCH CỰC GIAO TIẾP
CỦA TRẺ MẪU GIÁO 4 – 5 TUỔI TRONG VIỆC
LÀM QUEN VỚI MƠI TRƯỜNG XUNG QUANH
Chun ngành : Tâm lí học
Mã số

: 60 31 04 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN THỊ PHƯƠNG


Thành phố Hồ Chí Minh – 2016


LỜI CAM ĐOAN

Đề tài “Tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc làm quen
với mơi trường xung quanh” chính là luận văn tốt nghiệp thạc sĩ ngành Tâm lí học của
tơi tại trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được cơng bố trong các cơng trình khác.
Tác giả


LỜI CẢM ƠN

Tơi xin bày tỏ lịng cảm ơn chân thành đến quý thầy, cô của Khoa Tâm lý học,
và các thầy, cô giảng dạy lớp Cao học Tâm lý học khóa 25 đã tạo điều kiện tốt nhất
cho tơi trong thời gian học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Phương, người cơ kính mến đã
hết lịng quan tâm, giúp đỡ tận tình, hướng dẫn nghiên cứu tạo điều kiện giúp tơi hồn
thành luận văn.
Tơi xin cảm ơn phịng Sau Đại học và các phòng ban khác trong trường Đại học
Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện giúp đỡ tơi trong q trình học và thực
hiện luận văn. Đồng thời tôi cũng xin cảm ơn Ban Giám hiệu và tập thể Cán bộ, giáo
viên, công nhân viên trường mẫu giáo Hương Sen và trường mẫu giáo Nhơn Lý thuộc
TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định đã tạo điều kiện cho tơi khảo sát để hồn thành luận
văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu, Khoa Giáo dục Tiểu học và Mầm
non, các Phòng ban của trường Đại học Quy Nhơn đã tạo điều kiện thuận lợi cho tơi
trong q trình vừa cơng tác vừa học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.



MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................. 1
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH TÍCH CỰC GIAO TIẾP CỦA TRẺ
MẪU GIÁO 4 – 5 TUỔI .............................................................................................. 5
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề........................................................................................... 5
1.1.1. Những nghiên cứu về tính tích cực giao tiếp trên thế giới .............................. 5
1.1.2. Những nghiên cứu về tính tích cực giao tiếp ở Việt Nam .............................11
1.2. Lý luận về tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc
làm quen với môi trường xung quanh .................................................................13
1.2.1. Các khái niệm cơ bản .........................................................................................13
1.2.2. Đặc điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi ..............................................24
1.2.3. Bản chất của việc làm quen với môi trường xung quanh ..............................30
1.2.4. Biểu hiện tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc
làm quen với môi trường xung quanh ............................................................33
1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4 –
5 tuổi trong việc làm quen với môi trường xung quanh ...............................39
1.2.6. Nội dung giáo dục tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi
trong chương trình Giáo dục mầm non ..........................................................41
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................................42
Chương 2 THỰC TRẠNG TÍNH TÍCH CỰC GIAO TIẾP CỦA TRẺ MẪU
GIÁO 4 – 5 TUỔI TRONG VIỆC LÀM QUEN VỚI MÔI TRƯỜNG

XUNG QUANH ...........................................................................................................43


2.1. Tiêu chí và thang đánh giá tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4 – 5
tuổi trong việc làm quen với môi trường xung quanh .......................................43
2.2. Tổ chức nghiên cứu ....................................................................................................52
2.2.1. Tổ chức nghiên cứu thực trạng .........................................................................52
2.2.2. Khái quát về khách thể nghiên cứu ..................................................................54
2.3. Kết quả nghiên cứu thực trạng tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4 –
5 tuổi trong việc làm quen với môi trường xung quanh....................................55
2.3.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên mầm non về tính tích cực giao
tiếp của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi .......................................................................55
2.3.2. Thực trạng tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong
việc làm quen với môi trường xung quanh xét trên tồn mẫu .....................60
2.3.3. Thực trạng tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong
việc làm quen với môi trường xung quanh thể hiện qua từng chủ đề ........63
2.3.4. Thực trạng tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong
việc làm quen với môi trường xung quanh xét theo từng tiêu chí ..............68
2.3.5. Thực trạng tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong
việc làm quen với môi trường xung quanh xét trên từng phương diện
so sánh ................................................................................................................77
2.3.6. Nguyên nhân của thực trạng..............................................................................80
2.4. Một số biện pháp tác động đến tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4 –
5 tuổi trong việc làm quen với môi trường xung quanh....................................84
2.4.1 Cơ sở đề xuất biện pháp ......................................................................................84
2.4.2. Các nguyên tắc đề xuất biện pháp ....................................................................85
2.4.3. Các biện pháp cụ thể ..........................................................................................87
2.4.4. Khảo sát về tính cần thiết và khả thi của các biện pháp tác động đến
tính tích cực giao tiếp cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc
LQVMTXQ .......................................................................................................92

Tiểu kết chương 2 .................................................................................................................95
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ............................................................................................96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................99


PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu viết tắt

Ý nghĩa

ĐTB

Điểm trung bình

GVMN

Giáo viên mầm non

LQVMTXQ

Làm quen với mơi trường xung quanh

TB

Trung bình

TP.


Thành phố

TTCGT

Tính tích cực giao tiếp


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1.

Tiêu chí và thang đánh giá TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong
việc LQVMTXQ ...............................................................................................43

Bảng 2.2.

Nhận thức của GVMN về tầm quan trọng của TTCGT của trẻ mẫu
giáo 4 – 5 tuổi trong việc LQVMTXQ ...........................................................55

Bảng 2.3.

Nhận thức của GVMN về biểu hiện của TTCGT của trẻ mẫu giáo
4 – 5 tuổi trong việc LQVMTXQ ...................................................................56

Bảng 2.4.

Đánh giá của GVMN về mức độ biểu hiện của TTCGT của trẻ mẫu
giáo 4 – 5 tuổi trong việc LQVMTXQ ...........................................................58

Bảng 2.5.


Thực trạng TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc
LQVMTXQ xét trên toàn mẫu ........................................................................60

Bảng 2.6.

Phân bố ĐTB mức độ TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc
LQVMTXQ .......................................................................................................61

Bảng 2.7.

Thực trạng TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc
LQVMTXQ thể hiện qua từng chủ đề............................................................63

Bảng 2.8.

Thực trạng TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc
LQVMTXQ xét theo từng tiêu chí..................................................................68

Bảng 2.9.

Mức độ đạt từng biểu hiện nhu cầu giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4 – 5
tuổi trong việc LQVMTXQ .............................................................................70

Bảng 2.10. Mức độ đạt từng biểu hiện sự chủ động trong giao tiếp của trẻ mẫu
giáo 4 – 5 tuổi trong việc LQVMTXQ ...........................................................73
Bảng 2.11. Mức độ đạt từng biểu hiện sự thích ứng, hịa nhập trong giao tiếp của
trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc LQVMTXQ.............................................75
Bảng 2.12. Thực trạng TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc
LQVMTXQ giữa các trường mẫu giáo ..........................................................77

Bảng 2.13. Thực trạng TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc
LQVMTXQ xét trên phương diện giới tính...................................................79
Bảng 2.14. Kết quả khảo sátvề tính cần thiết và khả thi của các biện pháp tác
động đến TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc LQVMTXQ .....92


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Thực trạng TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc
LQVMTXQ xét trên toàn mẫu......................................................................63
Biểu đồ 2.2. Thực trạng TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc
LQVMTXQ thể hiện qua từng chủ đề .........................................................67
Biểu đồ 2.3. So sánh mức độ TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc
LQVMTXQ giữa các trường mẫu giáo........................................................78


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giao tiếp có vai trò quyết định đối với cuộc sống xã hội và hình thành nhân cách
con người. Thơng qua giao tiếp, cá nhân bằng hoạt động của mình chiếm lĩnh những
tri thức, kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người.
Hoạt động giao tiếp giữ vị trí rất quan trọng đối với sự hình thành và phát triển
tâm lý. Đối với trẻ mẫu giáo, các chức năng tâm lý (nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm –
kỹ năng xã hội) phát triển nhanh hay chậm, và mức độ ổn định, bền vững của nó đến
đâu phụ thuộc vào chính bản thân trẻ trong quá trình giao tiếp, mà trước hết, đó là
TTCGT của trẻ.
TTCGT được hình thành và phát triển trong các giờ dạy ở trường mầm non.
Trong đó, các giờ dạy hướng dẫn trẻ trong việc LQVMTXQ đóng vai trị quan trọng
đối với việc phát triển khả năng giao tiếp, đặc biệt là TTCGT của trẻ mầm non nói

chung và trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi nói riêng.
Những nội dung trong việc LQVMTXQ ln kích thích sự tìm tịi, ham hiểu biết
của trẻ. Đây là môi trường thuận lợi để giải đáp phần nào những thắc mắc của trẻ về
những “Bí ẩn” của thế giới xung quanh. Trong giờ dạy này, giáo viên có thể sử dụng
nhiều dạng hoạt động khác nhau để phát triển TTCGT của trẻ, giúp trẻ từng bước lĩnh
hội được những tri thức khoa học đơn giản về cả môi trường tự nhiên và môi trường xã
hội.
Trong thực tiễn dạy học hiện nay ở trường mầm non, giáo viên chưa quan tâm
đúng mức đến TTCGT của trẻ, đặc biệt là các giờ dạy trong việc LQVMTXQ cho trẻ
mẫu giáo 4 – 5 tuổi cịn thụ động, rập khn theo gợi ý hướng dẫn của chương trình
nên chưa tạo được sự thu hút, hấp dẫn để kích thích trẻ tích cực giao tiếp nhằm tìm
hiểu và khám phá mơi trường xung quanh.
Xuất phát từ những yêu cầu về mặt lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng tôi thực
hiện đề tài nghiên cứu “Tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong
việc làm quen với môi trường xung quanh”.


2

2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc LQVMTXQ;
từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm tác động đến TTCGT của trẻ.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể chính: Trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi.
Khách thể bổ trợ: GVMN đang trực tiếp chăm sóc – giáo dục trẻ mẫu giáo 4 – 5
tuổi.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

4.1. Về nội dung nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc LQVMTXQ
trên giờ dạy, cụ thể ở các chủ điểm: Gia đình, thế giới thực vật, thế giới động vật, nước
và các hiện tượng tự nhiên.
4.2. Về địa bàn nghiên cứu
Đề tài chỉ khảo sát trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi ở 2 trường mầm non tại TP. Quy
Nhơn, tỉnh Bình Định, gồm:
- Trường mẫu giáo Hương Sen (thuộc phường Trần Phú, TP. Quy Nhơn, tỉnh
Bình Định).
- Trường mẫu giáo xã Nhơn Lý (thuộc xã Nhơn Lý, TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình
Định).
4.3. Về khách thể nghiên cứu
Đề tài chỉ khảo sát trên 30 trẻ ở trường mẫu giáo Hương Sen và 20 trẻ ở trường
mẫu giáo xã Nhơn Lý.
5. Giả thuyết nghiên cứu
TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc LQVMTXQ chưa cao, nguyên
nhân có thể do GVMN chưa tổ chức các giờ dạy này phong phú để kích thích nhu cầu
giao tiếp của trẻ, cũng như chưa tạo cơ hội và môi trường giao tiếp thân thiện nhằm
giúp trẻ chủ động, tích cực trong giao tiếp. Bên cạnh đó, trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi chưa


3

được học cách thích ứng và hịa nhập với bạn ở các giờ học trong việc LQVMTXQ.
Ngoài ra, TTCGT của trẻ cũng khơng phụ thuộc vào giới tính và địa bàn sinh sống.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Hệ thống hoá các vấn đề lý luận có liên quan đến TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 -5
tuổi trong việc LQVMTXQ.
6.2. Khảo sát thực trạng TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc LQVMTXQ.
Từ đó, đề xuất một số biện pháp nhằm tác động đến TTCGT của trẻ.

7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được tiến hành thông qua việc phối hợp đồng bộ một số phương pháp.
Trong đó, phương pháp quan sát là phương pháp chính.
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập, phân tích, tổng hợp các loại sách, báo, tạp chí, cơng trình nghiên cứu,
văn bản, tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận của đề
tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
- Mục đích
Đánh giá TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc LQVMTXQ.
Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi.
Tìm hiểu biện pháp GVMN sử dụng để phát triển TTCGT của trẻ.
- Cách tiến hành
Xây dựng tiêu chí và thang đánh giá TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi.
Quan sát và đánh giá mức độ TTCGT của từng trẻ trong việc LQVMTXQ.
Quan sát giờ dạy của GVMN nhằm tìm hiểu các biện pháp được sử dụng để phát
triển TTCGT của trẻ.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
- Mục đích
Tìm hiểu thêm thông tin về mức độ giao tiếp và các yếu tố ảnh hưởng đến
TTCGT của trẻ.


4

- Cách tiến hành
Trao đổi và tìm hiểu ý kiến của một số GVMN đang trực tiếp chăm sóc – giáo
dục trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi.
7.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

- Mục đích
Nhằm thu thập thơng tin từ giáo viên đang trực tiếp chăm sóc – giáo dục trẻ mẫu
giáo 4 – 5 tuổi về TTCGT, các yếu tố ảnh hưởng đến TTCGT của trẻ, tính cần thiết và
tính khả thi của các biện pháp tác động đến TTCGT của trẻ.
- Cách tiến hành
Cho giáo viên trả lời những câu hỏi trên phiếu điều tra.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 20.0 để tính điểm trung bình, tần số, tỉ lệ
phần trăm, các kiểm nghiệm, ...


5

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH TÍCH CỰC GIAO TIẾP
CỦA TRẺ MẪU GIÁO 4 – 5 TUỔI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu về tính tích cực giao tiếp trên thế giới
Giao tiếp là một hiện tượng đặc trưng của xã hội loài người, là điều kiện tất yếu
khơng thể thiếu trong cuộc sống; khơng có giao tiếp thì xã hội lồi người khơng thể
tồn tại theo đúng nghĩa của nó. Chính vì vậy mà vấn đề giao tiếp đã thu hút được sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
Từ thời cổ đại, nhà triết học Socrates và Platon đã coi đối thoại như là sự giao
tiếp trí tuệ, phản ánh các mối quan hệ giữa con người với con người [2].
Đến thời kỳ Phục Hưng, Leonardo di er Piero da Vinci đã mô tả sự giao tiếp mẹ
con.
Thế kỷ XVIII, nhà triết học Hà Lan M.P Hemtecloi đã viết một tiểu luận dưới
nhan đề “Một bức thư về con người và các quan hệ của nó với người khác”, trong đó
có đoạn: “... trái tim và lương tâm trong con người chỉ bộc lộ khi người ấy sống cùng
với người khác” [2].

Nhưng năm đầu thế kỷ XX, Tâm lý học đã bắt đầu quan tâm đến việc nghiên cứu
vấn đề giao tiếp.
Từ những năm 70 của thế kỷ XX, vấn đề giao tiếp trở thành tâm điểm thu hút sự
tham gia nghiên cứu của nhiều nhà Tâm lý học, Giáo dục học, Xã hội học, triết học Xơ
Viết.
Nhưng nhìn chung, các nghiên cứu về giao tiếp ở trẻ em lứa tuổi nhà trẻ - mẫu
giáo vẫn còn ít được chú ý so với các lứa tuổi khác.
Nghiên cứu giao tiếp ở trẻ em đã đi theo các xu hướng chủ yếu sau:
- Nghiên cứu đặc điểm giao tiếp của trẻ em nhà trẻ - mẫu giáo (nội dung giao
tiếp, nhu cầu giao tiếp, tần số và phương tiện giao tiếp,...).
- Nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển giao tiếp của trẻ em từ 0 – 6 tuổi.


6

- Nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa giao tiếp với các chức năng tâm lý khác
nhau của nhân cách như động cơ, ngơn ngữ, tính cách,...
- Những vấn đề phương pháp luận và phương tiện nghiên cứu cụ thể đo lường
giao tiếp của trẻ em (trắc nghiệm, đo đạc xã hội học,...).
Các cơng trình nghiên cứu theo các hướng trên gắn với tên tuổi của các nhà Tâm
lý học: Bianka Zazzo (1990), R.A. Spits (1945, 1960, 1968), G.M. Liamina (1959,
1960, 1964, 1970), V.X. Mukhina (1975, 1984), Ia.L. Kolominxki (1969), M.L. Lixina
(1974),...
Khi nghiên cứu về TTCGT, các nhà Tâm lý học đã đi theo ba hướng chính sau:
Một là, nghiên cứu các thành tố tâm lý biểu hiện của TTCGT một cách độc lập.
Hai là, Nghiên cứu các phương pháp đo lường các thành tố tâm lý biểu hiện của
TTCGT.
Ba là, nghiên cứu mối quan hệ giữa các thành tố tâm lý biểu hiện TTCGT đến
các chức năng tâm lý khác nhau như ngơn ngữ, trí tuệ,... của trẻ em mẫu giáo.
Hướng thứ nhất: Nghiên cứu các thành tố tâm lý biểu hiện của TTCGT một cách

độc lập.
+ Nghiên cứu nhu cầu giao tiếp
Nhà Tâm lý học Anna Freud (con gái của Sigmud Freud) đứng trên góc độ phân
tâm học nhìn nhận tâm lý trẻ em đã mơ tả, phân tích cụ thể q trình phát triển nhu cầu
giao tiếp của trẻ em theo sự phát triển cá thể, chia làm 4 giai đoạn từ duy kỷ chưa nhận
biết thế giới bên ngồi, chưa có quan hệ bạn bè đến có nhu cầu giao tiếp với bạn bè
cao, cùng chơi trong một hoạt động chung, thực sự có quan hệ xã hội với bạn cùng lứa
tuổi [3, tr.49].
Các tác giả A.V. Vedenov, K. Lorep, R.A. Xmirnova, A.M. Chatxlaia khi nghiên
cứu về nhu cầu giao tiếp của trẻ em mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong các nhóm bạn khác nhau
qua các biên bản quan sát đã đi đến kết luận: Nhu cầu giao tiếp của trẻ em mẫu giáo 5
– 6 tuổi cao, biểu hiện trẻ em trong vui chơi thường kết bạn với nhau trong các nhóm
bạn, trong các hoạt động chơi chung; trẻ em chơi một mình ở lứa tuổi này chiếm thiểu
số; trẻ em mẫu giáo chơi cùng với bạn cùng giới chiếm nhiều hơn bạn khác giới.


7

I.X. Cơn trong cơng trình nghiên cứu “Tâm lý học tình bạn của tuổi trẻ” bằng các
thực nghiệm tâm lý học đã mơ tả, chứng minh q trình phát triển nhu cầu giao tiếp
con người từ nhỏ 2 – 3 tháng tuổi đến lứa tuổi thiếu niên và đặc điểm nhu cầu giao tiếp
của từng độ tuổi. Tác giả cũng xác định các điều kiện chủ quan và khách quan hình
thành, phát triển nhu cầu giao tiếp và các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhu cầu
giao tiếp của trẻ em [6, tr.7 – 27].
Cũng như I.X. Côn, nhà Tâm lý học Ia.L. Kolominxki đã trình bày kết quả
nghiên cứu của mình về nhu cầu giao tiếp của trẻ em. Tác giả phân tích q trình phát
sinh, phát triển nhu cầu giao tiếp của trẻ em từ những năm đầu của cuộc sống đến kết
thúc lứa tuổi mẫu giáo. Ơng viết: “ Nhu cầu giao tiếp đó là từ chỗ dường như bẩm sinh
đến chỗ tìm kiếm xúc cảm với người lớn (bà mẹ), từ chỗ giao tiếp với bà mẹ, người
lớn đến tìm kiếm tích cực bạn bè cùng chơi, đến chỗ tìm một cách tích cực bạn bè thân

mật, gần gũi, từ chỗ giao tiếp xúc cảm đến giao tiếp nhận thức và công việc [34, tr.11].
V.V. Vetrôva, Đ.B. Godovicov, M.G. Elagila, M.I. Lixina, A.F. Reystay, A.G.
Russkaia, E.O. Xmirnova nghiên cứu sự hình thành và phát triển nhu cầu giao tiếp của
trẻ em trong quan hệ với người lớn. Các tác giả đã chỉ ra: Nhu cầu giao tiếp sẽ thay đổi
theo nội dung, tính chất của hoạt động chung giữa trẻ em – người lớn. Trong mỗi giai
đoạn phát triển nhu cầu giao tiếp được thừa nhận như là nhu cầu có được nhờ sự tham
gia của người lớn, sự tham gia này vô cùng cần thiết để trẻ em giải quyết các vấn đề cơ
bản, đặc thù đối với lứa tuổi này.
Các tác giả đã chỉ ra sự phát triển nhu cầu giao tiếp của trẻ em với người lớn
thành 4 giai đoạn:
- Nhu cầu hướng đến sự chú ý và săn sóc thiện cảm của người lớn.
- Nhu cầu cộng tác hoặc cùng tham gia của người lớn trong hoạt động với đồ vật.
- Nhu cầu của trẻ em với sự tham gia của người lớn trong hoạt động nhận thức
thế giới xung quanh.
Nhu cầu về sự hiểu biết lẫn nhau và sự đồng cảm của người lớn [34].
Tác giả Mimiamstora (Anh) nhấn mạnh đến vai trò của giao tiếp bè bạn của trẻ
em và khuyến cáo với người lớn, các bậc cha mẹ cần tạo cơ hội, điều kiện để trẻ được
giao tiếp với các bạn cùng độ tuổi trong các trò chơi chung.


8

Khi bàn đến động cơ giao tiếp của trẻ em mẫu giáo, các nhà tâm lý học A.V.
Daparozet và M.I. Lixina xuất phát từ tư tưởng của nhà Tâm lý học A.N. Leonchiev
cho rằng: Động cơ giao tiếp của trẻ em mẫu giáo nằm trong đối tượng hoạt động và
được thể hiện trong mục tiêu của trẻ khi giao tiếp với người lớn. Các tác giả đã phân ra
làm 3 nhóm động cơ giao tiếp sau:
- Nhóm giao tiếp cơng việc: Giao tiếp nhằm đạt hiệu quả công việc, hoạt động
vui chơi.
- Nhóm giao tiếp nhận thức: Nhằm thu được những thông tin hiểu biết về sự vật

hiện tượng xung quanh trẻ trong hoạt động vui chơi, mối quan hệ giữa các sự vật hiện
tượng và cách sử dụng sự vật, hiện tượng đó.
- Nhóm giao tiếp cá nhân: Nhận thức về người khác và tự đánh giá bản thân
mình.
Các tác giả kết luận: Động cơ giao tiếp với hạt nhân là nhu cầu giao tiếp vừa là
biểu hiện, yếu tố cấu thành và là nguồn gốc bên trong của tính tích cực con người [34,
tr.11].
+ Nghiên cứu tính chủ động giao tiếp
A.V. Daparozet và M.I. Lixina bằng sự phân tích và quan sát các quan hệ và
hành vi giao tiếp của trẻ em từ 2 – 7 tuổi trong sự bố trí tiếp xúc với 8 kiểu hành vi
khác nhau của người lớn đã đi đến khẳng định: Tính chủ động giao tiếp của trẻ em phụ
thuộc vào tính chủ động của người lớn mà các em giao tiếp. Sự phụ thuộc này có sự
khác biệt giữa độ tuổi, hay nói cách khác tính chủ động của trẻ em không đồng đều, trẻ
em nhỏ tuổi (2 – 4 tuổi) có tính chủ động thấp hơn các em lớn (5 – 7 tuổi) và phụ
thuộc nhiều vào tính chủ động của người lớn, các em chủ động thiết lập quan hệ khi
người lớn xuất hiện, xác định vị trí của mình trong các cuộc tiếp xúc và bày tỏ với
người lớn những mong muốn của chúng theo nội dung của sự tác động qua lại [34,
tr.11].
Các tác giả V.V. Vetrova, Đ.B. Godovicov, M.G. Elagila, M.I. Lixina, E.O.
Xmirnova trong các công trình nghiên cứu thực nghiệm của mình về tính chủ động
giao tiếp của trẻ em đã rút ra các kết luận:


9

- Tính chủ động giao tiếp của trẻ em là một biểu hiện, một thành phần tâm lí của
TTCGT.
Tính chủ động giao tiếp của trẻ em trước và sau khi tiếp xúc xúc cảm với người
xung quanh có sự thay đổi: Sau khi tiếp xúc tính chủ động của trẻ cao hơn trước khi
tiếp xúc (ví dụ ở mẫu giáo bé tính chủ động tăng từ 8,7% lên 19,7%, mẫu giáo lớn tăng

từ 22,7% lên 81,4 [34, tr.11].
+ Nghiên cứu sự hịa nhập vào nhóm giao tiếp bè bạn
Trong Tâm lý học giao tiếp, các nhà Tâm lý học cho rằng khi bàn đến TTCGT
phải tính đến hiệu quả của nó, nghĩa là trong giao tiếp trẻ em phải “chơi được”, hịa
nhập được một hay nhiều nhóm bạn bè nhất định. Sự “chơi được” này hay hịa nhập
được có ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành nhân cách và kết quả hoạt động học
tập sau này.
Xuất phát từ vị trí, vai trị của sự hịa nhập vào nhóm giao tiếp bè bạn, nhà Tâm
lý – giáo dục người Pháp, bà Bianka Zazzo đã chủ trì một nhóm gồm 12 chuyên gia
cao cấp về Tâm lý, Y học và Giáo dục học trong 2 năm liền khảo sát trẻ em mẫu giáo
và lớp 1 về nhiều nội dung và bằng các phương pháp nghiên cứu Tâm lý khác nhau đã
đưa ra các kết luận về các chỉ báo cơ bản để đánh giá mức độ hòa nhập của trẻ em
trong các quan hệ; kết luận bước đầu về thực trạng sự hịa nhập và nhóm giao tiếp bè
bạn của trẻ em, sự khác biệt giữa nam và nữ, chỉ ra ảnh hưởng của các yếu tố thể chất,
gia đình, nhà trường đến mức độ hòa nhập của trẻ em và ảnh hưởng của sự thích nghi,
hịa nhập vào nhóm bạn đến kết quả hoạt động học tập ở lớp 1 [25].
Với nhan đề cuốn sách “Quan sát học sinh ứng xử như thế nào” Giáo sư Đại học
Tổng hợp Colombia (Mỹ) Gertsude Đrisscoll đã đề cập đến một khía cạnh của giao
tiếp bè bạn – đó là sự chấp nhận bạn bè. Ông đã nêu ra được những đặc điểm của sự
chấp nhận bạn bè trong nhóm bạn chơi như về mặt xúc cảm, sự đóng góp của mình
vào nhóm, sự đáp lại xúc cảm với các cá nhân khác.
A.A. Lublinxcaia đã bàn trực tiếp đến tính tích cực tiếp xúc của trẻ em mẫu giáo:
Đặc điểm, nội dung của tính tích cực tiếp xúc như thể hiện ở nhu cầu quan hệ với con
người, trước hết là những người gần gũi với trẻ em (mẹ, cô giáo, bạn bè) và tác giả


10

cũng mơ tả một số đặc điểm tính tích cực tiếp xúc của trẻ em mẫu giáo từ nhỏ đến 5 –
6 tuổi [21].

Hướng thứ hai: Nghiên cứu các phương pháp, đo lường các thành tố tâm lý biểu
hiện của TTCGT.
Các nhà Tâm lý học Pháp Anne Badierva Berna Céléte khi nghiên cứu các mối
quan hệ của trẻ em mẫu giáo với nhau đã đề cập đến 2 vấn đề cơ bản có liên quan đến
vấn đề nghiên cứu:
- Các quan hệ của trẻ em: Trẻ em – người lớn và trẻ em – trẻ em cùng độ tuổi với
nhau.
- Các phương pháp nghiên cứu nhằm tìm hiểu nhu cầu giao tiếp, sự hịa nhập vào
nhóm giao tiếp bè bạn,... như các phương pháp trắc đạc các quan hệ xã hội, quan sát,
thực nghiệm Tâm lý học,...
Bằng các phương pháp nghiên cứu trên, các tác giả đã đi đến một số kết luận:
- Để phát huy tính chủ động giao tiếp, nhu cầu giao tiếp của trẻ em trong các
trường mầm non cần tạo điều kiện cho các em có những mối quan hệ qua lại.
- Sinh hoạt gia đình nên được bổ sung và hỗ trợ sinh hoạt tập thể các em có thể
qua lại nhiều hơn.
Hướng thứ ba: Nghiên cứu mối quan hệ của các thành tố tâm lý biểu hiện
TTCGT với các chức năng tâm lý khác (ngôn ngữ, tư duy, xúc cảm,...).
Nhà Tâm lý học V.X. Mukhina – trong các cơng trình nghiên cứu của mình ở lứa
tuổi vườn trẻ - mẫu giáo đã khẳng định vai trò to lớn của nhu cầu giao tiếp với người
lớn với sự phát triển tâm lý và sự lĩnh hội ngôn ngữ của trẻ em (học phát âm, cách sử
dụng môi lưỡi và hơi thở, sự thông hiểu ngôn ngữ, hiểu từ và sử dụng từ) giúp cho
ngôn ngữ trở thành phương tiện giao tiếp của trẻ với thế giới con người xung quanh.
V.X. Mukhina viết “Quá trình đứa trẻ thơng hiểu lời nói thơng thường xảy ra như sau:
Người lớn hỏi đứa trẻ: “Cái gì đó ở đâu? Câu hỏi gây ra cho đứa trẻ phản ứng định
hướng đối với hành vi của người lớn. Kết quả của sự lặp đi lặp lại nhiều lần là xuất
hiện mối liên hệ giữa từ do người lớn nói ra với đối tượng mà họ chỉ cho đứa trẻ nhìn
thấy... Điều quan trọng là đứa trẻ khơng đơn giản tìm đối tượng được người lớn nói
lên, để nhìn vào đó, đứa trẻ tìm đối tượng để tiếp tục giao lưu với người lớn ...” cứ như



11

vậy bằng giao tiếp với người lớn sự hiểu ngôn ngữ, sự lĩnh hội ngơn ngữ được hồn
thiện, nâng cao [23].
1.1.2. Những nghiên cứu về tính tích cực giao tiếp ở Việt Nam
Vấn đề giao tiếp nói chung và TTCGT của trẻ em lứa tuổi mầm non nói riêng,
đặc biệt là TTCGT của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi được các nhà Tâm lý học, Giáo dục học
quan tâm vào những năm đầu thập kỷ 80 và trở thành tâm điểm nghiên cứu vào cuối
thế kỷ XX.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc thành quả của các cơng trình nghiên cứu về giao
tiếp và TTCGT của các nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới, cũng như nghiên cứu,
phân tích lý luận và thực tiễn Việt Nam, các nhà khoa học trong nước đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu về giao tiếp và TTCGT của trẻ em. Kết quả của những nghiên
cứu này có vai trị to lớn trong việc xây dựng chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ em
lứa tuổi mầm non; trong công tác đào tạo GVMN.
Nhìn chung, các nghiên cứu của các nhà Tâm lý học, Giáo dục học Việt Nam về
giao tiếp tập trung theo 2 hướng:
Một là, nghiên cứu kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên và các biện pháp
hình thành kỹ năng giao tiếp sư phạm.
Hai là, nghiên cứu đặc điểm giao tiếp, đặc điểm TTCGT của trẻ em.
Hướng thứ nhất: Nghiên cứu kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên và các
biện pháp hình thành kỹ năng giao tiếp sư phạm.
Theo hướng nghiên cứu này phải kể đến các cơng trình tiêu biểu của các tác giả:
- “Nhập môn khoa học giao tiếp”, “Giao tiếp, tâm lý, nhân cách” của Trần Trọng
Thủy, Nguyễn Sinh Huy.
- “Luyện giao tiếp sư phạm” của Nguyễn Thạc.
- “Giao tiếp sư phạm” của Ngơ Cơng Hồn.
- “Vấn đề giao tiếp” của Nguyễn Văn Lê,...
Hướng thứ hai: Nghiên cứu đặc điểm giao tiếp, đặc điểm TTCGT của trẻ em.
Cuốn “Giáo dục trẻ trong nhóm bạn bè” của tác giả Nguyễn Ánh Tuyết đã đề cập

đến những vấn đề cơ bản sau: Sự phát triển nhu cầu giao tiếp của trẻ, nhóm và đặc


12

điểm tâm lý của nhóm giao tiếp bạn bè của trẻ mẫu giáo, sự gia nhập nhóm bạn bè vui
chơi của trẻ em [38].
Tác giả Ngơ Cơng Hồn trong “Giao tiếp và ứng xử của cô giáo với trẻ em” đã
bàn về vấn đề xã hội hóa trẻ em, đặc điểm phát triển nhu cầu giao tiếp của trẻ em từ 0
– 6 tuổi, vấn đề ứng xử giữa cô giáo và trẻ em,...[15].
Luận án Phó tiến sĩ Sư phạm – tâm lý của tác giả Lê Xuân Hồng với nhan đề
“Một số đặc điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo trong nhóm chơi khơng cùng độ tuổi” đã
trình bày một số đặc điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo như tần số giao tiếp, nội dung
giao tiếp, tần số sử dụng phương tiện giao tiếp để kết luận về việc xây dựng mơ hình
mới – lớp ghép trẻ em với ba độ tuổi (3 – 6 tuổi). Với kết quả nghiên cứu trên, tác giả
cũng muốn gián tiếp kết luận về TTCGT của trẻ em mẫu giáo khi chơi trong lớp ghép
thông qua các loại tần số: Tiếp xúc, sử dụng phương tiện giao tiếp, nội dung giao
tiếp,... Đây cũng là một cách đánh giá, xem xét TTCGT của trẻ em mẫu giáo [17].
Trong cơng trình “Tính chủ động giao tiếp của trẻ em mẫu giáo 5 – 6 tuổi”, các
tác giả Nguyễn Xuân Thức – Nguyễn Thạc đã trình bày thực trạng mức độ tính chủ
động giao tiếp của trẻ mẫu giáo và những biểu hiện cơ bản của tính chủ động giao
tiếp... Trên cơ sở đó, các tác giả đã đưa ra những kiến nghị khoa học nhằm nâng cao
tính chủ động cho trẻ em trong các trường mầm non [32].
Đặc biệt, tác giả Nguyễn Xuân Thức trong cơng trình “Nghiên cứu TTCGT của
trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi” đã đi sâu nghiên cứu về TTCGT
trong hoạt động vui chơi của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi. Tác giả đã trình bày về thực trạng
TTCGT của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui chơi và những biểu hiện cơ
bản của nó như: Nhu cầu giao tiếp, tính chủ động giao tiếp và sự hịa nhập vào nhóm
bạn bè,... Trên cơ sở lí luận và thực tiễn, tác giả đã đưa ra một số kiến nghị sư phạm
làm cơ sở lí luận cho các nhà Tâm lý học, Giáo dục học thuận lợi trong việc tiếp cận

vấn đề [34].
Tác giả Trần Thị Minh Hằng với cơng trình “Nghiên cứu TTCGT của trẻ 5 – 6
tuổi vùng đầm phá Tam Giang – Thừa Thiên Huế trong trò chơi đóng vai có chủ đề”
đã chỉ ra thực trạng TTCGT của trẻ 5 – 6 tuổi trong trị chơi đóng vai có chủ đề và
đồng nhất quan điểm với tác giả Nguyễn Xuân Thức về các mặt biểu hiện của TTCGT.


13

Bên cạnh đó, tác giả cũng đã đề xuất một số biện pháp tổ chức trị chơi đóng vai có
chủ đề nhằm phát triển TTCGT cho trẻ 5 – 6 tuổi [11].
Gần đây nhất, đề tài cấp cơ sở mã số CS2014-51do tác giả Trần Thị Phương chủ
nhiệm với nhan đề “Thực trạng TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong hoạt động
khám phá khoa học ở một số trường mầm non tại TP. HCM” đã mô tả đầy đủ, chi tiết
về thực trạng TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong hoạt động khám phá khoa học
qua 3 mặt biểu hiện: Nhu cầu giao tiếp, tính chủ động trong giao tiếp và sự thích ứng,
hịa nhập được vào các quan hệ, nhóm giao tiếp. Bên cạnh đó, đề tài cũng chỉ ra được
những nguyên nhân chủ yếu của thực trạng và đề xuất được những biện pháp căn bản
để nâng cao TTCGT cho trẻ [29].
Tóm lại, các cơng trình nghiên cứu về vấn đề giao tiếp và TTCGT của trẻ mầm
non của các tác giả Việt Nam cho thấy, những vấn đề lí luận và thực tiễn về giao tiếp
và TTCGT đã được đề cập phong phú. Trong đó, các nghiên cứu về TTCGT nói riêng
đi theo xu hướng nghiên cứu TTCGT của trẻ mầm non trong hoạt động vui chơi, trong
trị chơi đóng vai có chủ đề, trong sinh hoạt hằng ngày, trong mối quan hệ với bạn bè,
với người lớn nói chung và với GVMN,...
Nghiên cứu TTCGT của trẻ mẫu giáo 4 -5 tuổi trong việc LQVMTXQ là một vấn
đề chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện.
1.2. Lý luận về tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong việc làm
quen với môi trường xung quanh
1.2.1. Các khái niệm cơ bản

1.2.1.1. Giao tiếp
a. Khái niệm
Giao tiếp là một trong những phạm trù trung tâm của Tâm lý học.
Tư tưởng giao tiếp đã được đề cập từ thời kỳ Cổ đại, qua thời kỳ Phục hưng và
đến giữa thế kỷ XX thì hình thành nên một chuyên ngành – Tâm lý học giao tiếp. Song
cho đến nay, vẫn chưa có sự thống nhất về định nghĩa giao tiếp.
Trong Từ điển Hán – Việt của Đào Duy Anh đã định nghĩa “giao tiếp” là “sự tiếp
xúc với nhau” [1, tr.329].
Trên thế giới, các nhà Tâm lý học đã có những quan niệm khác nhau về giao tiếp.


14

G.X. Conxchuc – nhà Tâm lý học Mỹ xem giao tiếp như là một sự tác động qua
lại trực tiếp lên nhân cách và dẫn đến việc hình thành ý nghĩa, biểu tượng, chuẩn mực
và mục đích của hành động.
T. Stecren – nhà Tâm lý học Pháp xem giao tiếp là sự trao đổi tình cảm, xúc cảm
giữa con người với nhau.
Maacagin – nhà Tâm lý học Anh xem giao tiếp như là một q trình hai mặt của
sự thơng báo, thiết lập sự tiếp xúc và trao đổi thông tin.
Các nhà Tâm lý học, Giáo dục học Liên Xô trước đây cũng có những quan niệm
khác nhau về giao tiếp:
L.X. Vugotxki cho rằng, giao tiếp là sự thông báo hoặc quan hệ qua lại một cách
thuần túy giữa người với người như là một trao đổi về quan điểm và cảm xúc.
X.L. Rubinstein cho rằng, giao tiếp là hình thức giao lưu giữa con người với
nhau.
A.G. Covaliov quan niệm rằng, giao tiếp là sự giao thiệp bằng lời nói của một số
người với mục đích giải quyết một số vấn đề lý thuyết hay thực tiễn nào đó.
K.K. Platonov và G.G. Golubep đã liệt giao tiếp vào một trong những “loại hình
hoạt động” và cho rằng “Giao tiếp là sự trao đổi thông tin giữa những người với nhau”

và “Giao tiếp là sự tác động lẫn nhau trên cơ sở phản ánh tâm lý lẫn nhau”. Theo
Platonov, giao tiếp khơng phải là một dạng của hoạt động mà nó phải được xem xét
như một phạm trù tương đối độc lập trong Tâm lý học. Vì, nếu coi giao tiếp là một
dạng hoạt động sẽ khơng tìm được vị trí của nó trong các hoạt động đã phân loại trước
đây (vui chơi, học tập, lao động,...). Ông cho rằng, giao tiếp là sự tác động qua lại của
những con người tham gia vào đó như những chủ thể và ln có sự chuyển hóa giữa
chủ thể và khách thể, với sự tác động qua lại như vậy thì giao tiếp tối thiểu phải từ hai
người trở lên. Theo ông, sự chuyển hóa giữa chủ thể và khách thể xảy ra từ lúc tiếp
xúc, làm quen, tri giác để nhận thức lẫn nhau và tác động qua lại lẫn nhau và xảy ra
liên tục, ngày càng tăng chứ không phải chỉ diễn ra trong một chủ thể nào đó.
B.V. Xocolov cho rằng “Giao tiếp là sự tác động lẫn nhau giữa những con người
với nhau và giữa những động vật có tâm lý với nhau, nếu thu hẹp hơn thì có thể coi


15

giao tiếp là mối quan hệ giữa con người với con người và những động vật nuôi trong
nhà”.
A.G. Xpirkin chú trọng đến mục đích điều khiển của giao tiếp nên cho rằng
“Giao tiếp, đó là một q trình trao đổi những ý nghĩ, tình cảm, kích thích ý chí với
mục đích người này điều khiển người kia” [17].
Ia.L. Kolominski mơ tả “Giao tiếp là sự tác động qua lại có đối tượng và thông
tin giữa con người với con người, trong đó những quan hệ liên nhân cách được bộc lộ
và hình thành” [10].
Theo B.Đ. Parugin: “Giao tiếp là quá trình tác động lẫn nhau, trao đổi thơng tin,
ảnh hưởng lẫn nhau, hiểu biết và nhận thức lẫn nhau” [35].
A.A. Leonchev cho rằng: Giao tiếp là một dạng đặc biệt của hoạt động, bao gồm
đầy đủ các thành phần trong sơ đồ cấu trúc của hoạt động “chủ thể – hoạt động – đối
tượng”. Trong đó chủ thể giao tiếp là “tính cộng đồng” (trong tất cả các cuộc giao lưu,
trừ giao lưu định hướng xã hội) còn đối tượng của giao tiếp không phải là con người

hay một số người cụ thể mà là “một tương tác” hoặc là “những quan hệ tâm lý qua lại
giữa người này với người khác”. Theo ông, “giao tiếp là một hệ thống những q
trình có mục đích và động cơ trong hoạt động tập thể, thực hiện các quan hệ xã hội và
nhân cách, các quan hệ tâm lý và sử dụng những phương tiện đặc thù mà trước hết là
ngôn ngữ”[20].
Cũng như trên thế giới, ở Việt Nam cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về giao
tiếp:
Nguyễn Khắc Viện đã định nghĩa giao tiếp như sau: “Giao tiếp là sự trao đổi giữa
người với người thơng qua ngơn ngữ nói, viết, cử chỉ” [41].
Theo Phạm Minh Hạc: “Giao tiếp là hoạt động xác lập và vận hành các quan hệ
giữa người với người để hiện thực hóa các quan hệ xã hội người với nhau” [10].
Ngơ Cơng Hồn cho rằng: “Giao tiếp là quá trình tiếp xúc giữa con người với
con người nhằm trao đổi tư tưởng, tình cảm, vốn sống, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp”
[14].


×