BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Cẩm Viên
VĂN HĨA NAM BỘ
TRONG VĂN XUÔI PHI HƯ CẤU
CỦA VƯƠNG HỒNG SỂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
Thành phố Hồ Chí Minh – 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Cẩm Viên
VĂN HĨA NAM BỘ
TRONG VĂN XUÔI PHI HƯ CẤU
CỦA VƯƠNG HỒNG SỂN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số
: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. BẠCH VĂN HỢP
Thành phố Hồ Chí Minh – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được cơng bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác.
Người thực hiện
Nguyễn Thị Cẩm Viên
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn này, người viết đã nhận được sự
động viên, giúp đỡ nhiệt tình của khá nhiều bạn bè, đồng nghiệp và quý
Thầy Cô. Tôi xin chân thành cảm ơn:
Xin cảm ơn quý Thầy Cơ trong Ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn, phịng
sau đại học, quý Thầy Cô trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
đã truyền đạt kiến thức và giúp đỡ trong suốt q trình học tập.
Đặc biệt tơi xin cảm ơn TS. Bạch Văn Hợp, người trực tiếp chỉ bảo và
hướng dẫn tận tình để tơi hồn thành luận văn này.
Người thực hiện luận văn
Nguyễn Thị Cẩm Viên
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ..................................................................... 13
1.1. Cơ sở lý luận .......................................................................................................13
1.1.1. Thể loại văn xuôi phi hư cấu .....................................................................13
1.1.2. Khái niệm văn hóa .....................................................................................18
1.1.3. Quan hệ văn học – văn hóa và hướng tiếp cận văn học từ góc nhìn
văn hóa .......................................................................................................23
1.2. Nhà cổ ngoạn – nhà văn Vương Hồng Sển ........................................................26
1.2.1. Cuộc đời ......................................................................................................26
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác .......................................................................................30
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................ 34
Chương 2. VĂN HÓA VẬT CHẤT NAM BỘ
QUA VĂN XUÔI
PHI HƯ CẤU CỦA VƯƠNG HỒNG SỂN ......................................... 35
2.1. Thế giới cổ vật – chứng tích văn hóa .................................................................35
2.1.1. Đồ sứ “đặc biệt” thời chúa Trịnh .................................................................35
2.1.2. Đồ sứ đề “thi nôm” triều Tây Sơn ...............................................................41
2.1.3. Đồ sứ cổ triều Nguyễn .................................................................................43
2.2. Hệ thống danh lam thắng cảnh – văn hóa kiến trúc ...........................................45
2.2.1. Của người Việt ............................................................................................46
2.2.2. Của người Hoa.............................................................................................48
2.2.3. Của người Pháp ...........................................................................................50
2.3. Hệ thống các cơng trình tơn giáo........................................................................52
2.3.1. Các cơng trình tơn giáo của người Việt – người Hoa..................................53
2.3.2. Các cơng trình tơn giáo của một số dân tộc khác ........................................60
2.4. Văn hóa ứng xử với mơi trường tự nhiên ...........................................................64
2.4.1. Văn hóa ẩm thực ..........................................................................................64
2.4.2. Văn hóa trang phục ......................................................................................73
2.4.3. Văn hóa giao thơng ......................................................................................77
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................ 81
Chương 3. VĂN HÓA TINH THẦN NAM BỘ QUA VĂN XUÔI PHI HƯ
CẤU CỦA VƯƠNG HỒNG SỂN ........................................................... 82
3.1. Văn hóa tổ chức cộng đồng ................................................................................82
3.1.1. Tính chất cộng đồng tự trị – người Việt, người Hoa ...................................82
3.1.2. Tính chất hiền hịa – người Cao Miên .........................................................91
3.1.3. Tính chất cơ động – người Chà Và .............................................................92
3.2. Văn hóa giao tiếp và ngơn ngữ ...........................................................................93
3.2.1. Sự giao lưu giữa người Việt với các dân tộc khác ......................................94
3.2.2. Sự giao lưu giữa người Sài Gòn với người phương Tây .............................96
3.3. Văn hóa tâm linh.................................................................................................99
3.3.1. Của người Việt ............................................................................................99
3.3.2. Của người Hoa...........................................................................................101
3.3.3. Của các dân tộc khác .................................................................................103
3.4. Văn học nghệ thuật ...........................................................................................106
3.4.1. Văn học dân gian .......................................................................................106
3.4.2. Cải lương – một loại hình sân khấu hiện đại .............................................109
3.4.3. Tân nhạc miền Nam...................................................................................112
3.4.4. Văn học quốc ngữ ......................................................................................115
Tiểu kết chương 3 ...................................................................................................... 119
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 120
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 123
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong lịch sử văn học thế giới nói chung, văn học Việt Nam nói riêng
nhiều nhà văn nổi tiếng nhờ biết phát huy những tinh hoa văn hóa dân tộc mình.
Khi nhắc đến tên tuổi của họ ta sẽ nghĩ ngay đến dáng dấp một vùng đất, vùng
văn hóa, làm nên nét đặc trưng trong sự sáng tạo của chủ thể. Tiêu biểu, nhiều
nhà văn Nam Bộ đã ghi tên tuổi của mình vào lịch sử văn học nước nhà nhờ biết
khai thác bản sắc độc đáo của văn hóa vùng miền. Nhắc đến nhà văn của Nam
Bộ nhiều người sẽ nghĩ ngay đến những cái tên quen thuộc như Bình Nguyên
Lộc, Sơn Nam, Đoàn Giỏi với thể loại truyện ngắn; Anh Đức với những trang
tiểu thuyết đậm chất phương Nam,… Nhưng cái tên Vương Hồng Sển dường
như không được chú ý nhiều, mặc dù những sáng tác của ông phản ánh chân
thực những biến cố lịch sử, đặc trưng sinh hoạt văn hóa văn nghệ và con người
vùng đất phía Nam Tổ quốc.
1.2. Cả cuộc đời ông trải qua bao cuộc bể dâu, chứng kiến những bước
thăng trầm của dân tộc ngót cả thế kỉ XX, một xã hội hỗn loạn, lố lăng, nào
“Tây cuốn gói, Nhật chạy càng, đến ơng Ngơ băng lẹ như diều dứt dây”. Đồng
thời, ơng muốn góp sức cùng các nhà văn khác như Vũ Hạnh, Sơn Nam, Võ
Hồng,… trong phong trào về nguồn trong những năm 1970 nhằm giữ gìn những
nét văn hóa của dân tộc, phản ứng lại văn hóa ngoại lai.
1.3. Cơng sức của một đời người ông hiến tặng tất cả cho nhà nước gồm
ngôi nhà cổ, sách quý, số lượng lớn các cổ vật có giá trị chỉ mong lập được “Bảo
tàng Vương Hồng Sển”. Nhưng thực tế, kể từ khi cụ mất đến nay, ước nguyện
này vẫn chưa được thực hiện. Báo Sài Gịn Giải phóng đưa tin: “Thật vậy, đã
nhiều năm trôi qua với rất nhiều dự định, chỉ định, quyết định, …từ phía các cơ
quan hữu trách, cho đến nay, “vng nhà cổ tích” 150 tuổi từng được học giả
và nhà sưu tập cổ vật nổi tiếng đất Sài Gòn – Gia Định, Vương Hồng Sển (1902
– 1996), yêu quý gọi là Vân Đường Phủ vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt” và ngày
2
càng xuống cấp nghiêm trọng, nguy cơ sụp đổ hoàn tồn có thể xảy ra”. Thực
hiện luận văn này, chúng tơi mong muốn đóng góp chút cơng sức của mình vào
việc bảo lưu những thành tựu trong sự nghiệp văn hóa – văn học của Vương
Hồng Sển. Đồng thời, giới thiệu những thành tựu đó đến với độc giả đương thời
và thế hệ mai sau.
1.4. Đất nước ta đang trong thời kì hội nhập nền kinh tế thị trường, mở cửa
giao lưu với các nước trên thế giới, đời sống vật chất của nhân dân được nâng
cao nhưng xã hội lại xem trọng đồng tiền, các giá trị văn hóa truyền thống dần
dần bị mai một. Bên cạnh đó, các luồng văn hóa ngoại lai xâm nhập, ảnh hưởng
nhiều đến nhận thức của nhân dân, đặc biệt là giới trẻ. Chính vì thế, Đảng và
Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước gắn
liền với việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Vì vậy, việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc là
điều cần kíp. Nên việc tìm hiểu, nghiên cứu và giới thiệu nền văn hóa dân tộc
nói chung và nền văn hóa vùng miền nói riêng đến bạn đọc, đặc biệt là thế hệ trẻ
thông qua các tác phẩm văn chương đặc sắc là điều đã, đang và phải thực hiện.
Xuất phát từ thực tiễn và lý luận, từ yêu cầu khoa học mà chúng tôi đã nêu
ở trên. Đồng thời, đây là dịp để chúng tơi tìm hiểu, vận dụng phương pháp văn
hóa học trong nghiên cứu văn học. Chúng tôi quyết định chọn đề tài “Văn hóa
Nam Bộ trong văn xi phi hư cấu của Vương Hồng Sển” để thực hiện nghiên
cứu.
2. Lịch sử vấn đề
Người viết chia các tài liệu liên quan theo hai nhóm:
2.1. Những cơng trình nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa
Khi tìm hiểu văn học, người nghiên cứu có thể tiếp cận từ nhiều hướng
khác nhau: Thi pháp học, Tự sự học,… Những năm gần đây, hướng tiếp cận văn
học từ góc nhìn văn hóa được nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu quan tâm, ứng
dụng.
3
Nhà nghiên cứu Ngữ văn học Trần Ngọc Vương với cơng trình “Nhà nho
tài tử và văn học Việt Nam”. Bên cạnh đó là “Văn học Việt Nam, dịng riêng
giữa nguồn chung”; “Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa”.
Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy với: “Từ cái nhìn văn hóa”, “Mối quan hệ
văn hóa - Văn học nhìn từ hệ thống lý thuyết” (www.vienvanhoc.org.vn, 1999).
Bên cạnh là “Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực” (Nxb Văn hóa – Thơng tin,
Hà Nội, 1999), ơng dùng phương pháp nhân học – văn hóa học để lý giải thơ Hồ
Xn Hương. Đồng thời, ơng góp phần vực dậy hướng nghiên cứu này sau
những năm dài của hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn, tác giả của tập tiểu luận “Văn học Trung
đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa” cũng ứng dụng hướng tiếp cận văn hóa
học. Ơng chọn cách tiếp cận văn hóa như một hướng đi chủ yếu để nghiên cứu
văn học Việt Nam.
Nguyễn Văn Hạnh có những bài viết: “Văn hóa như một nguồn mạch
sáng tạo và khám phá văn chương” (đăng trên Tạp chí Văn học, số 1, năm
2007), “Khái niệm văn hóa – Vài khía cạnh ln lý và thực tiễn” (đăng Tạp chí
Văn học, số 9, trang 60 – 63, năm 2007), khẳng định tiếp cận văn học bằng khía
cạnh văn hóa là một hướng đi tất yếu.
Năm 2013, tác giả Lê Nguyên Cẩn ra cuốn sách “Tiếp cận Truyện Kiều từ
góc nhìn văn hóa”. Ơng cho rằng tính chất phi thường của tác phẩm Truyện
Kiều khơng chỉ thể hiện qua quan niệm độc đáo, qua nghệ thuật tài hoa mà cịn
ở chỗ nó mang tầm vóc văn hóa, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, mang tính
lịch sử và truyền thống văn hóa lâu đời.
Cơng trình: “Văn học Trung Đại Việt Nam và những vấn đề tâm linh” do
Lê Thu Yến (Chủ biên) cùng Đàm Anh Thư, Nguyễn Hữu Nghĩa, Đàm Thị Thu
Hương, Ngô Thị Thanh Tâm (Nxb Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh,
2015). Người nghiên cứu đề cập đến những dạng thức tâm linh, các yếu tố tâm
4
linh trong văn học trung đại qua những nét văn hóa, phong tục, tập quán của dân
tộc.
Hiện nay, PGS.TS Phan Thị Thu Hiền được cho là người có nhiều nhận
xét xác đáng về vấn đề văn hóa. Bên cạnh đó, Phan Thị Thu Hiền còn hướng
dẫn những luận án Thạc sĩ, Tiến sĩ Văn học theo phương pháp Văn hóa học, tiêu
biểu như Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Văn Đơng: “Truyện ngắn Sơn Nam và
Bình Ngun Lộc từ góc nhìn văn hóa học” (2013).
Ngồi ra cịn một số cơng trình khác như: luận văn Thạc sĩ “Đặc điểm
truyện ngắn Sơn Nam giai đoạn 1954-1975” của Lê Thị Thùy Trang (Trường
ĐH Sư phạm TP.HCM); luận văn Thạc sĩ “Cơng trình văn hóa và con người
Nam Bộ” của Đinh Thị Thanh Thủy (Trường ĐH Khoa học xã hội & Nhân văn);
“Văn hóa Nam Bộ qua cái nhìn của Sơn Nam” (Nxb Trẻ, 2013) là luận văn Thạc
sĩ của Võ Văn Thành (Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn) đã được sửa
chữa, nâng cao khi in thành sách;…
Những năm gần đây, các tác phẩm văn học Nam Bộ đang được các nhà
nghiên cứu ứng dụng hướng tiếp nhận từ góc nhìn văn hóa. Thơng qua đó, nền
văn hóa phía Nam được giới thiệu đến độc giả trên cả nước và nước ngoài một
cách sinh động, hấp dẫn, thi vị hơn. Đồng thời, khẳng định hướng tiếp cận này
có những nét ưu Việt riêng, cần áp dụng khi nghiên cứu văn học.
2.2. Những ý kiến đánh giá về các sáng tác của nhà văn Vương Hồng Sển
Vương Hồng Sển sáng tác theo nhiều thể loại ký như tùy bút, bút ký,
truyện ký, nhật ký, biên khảo, tản văn,… Ở thế kỷ XX, thể loại này ít được chú
ý đến nên các nhà phê bình chỉ dừng lại ở việc giới thiệu sách, những bài viết
ngắn ca ngợi tài năng viết văn của tác giả và sự uyên thâm về kiến thức trong
các tác phẩm.
Tác giả Hoài Anh trong bài viết đăng trên Tạp chí Văn hóa số 3/ 1997:
“Vương Hồng Sển – nhà văn hóa của Nam Bộ”. Nhưng ở bài viết này, Hoài Anh
5
chỉ đề cập đến Vương Hồng Sển là nhà văn hóa ở khía cạnh là những đóng góp
của người chơi đồ cổ.
Trong bài viết: “Nhân mùa Vu Lan tưởng nhớ nhà văn hóa Vương Hồng
Sển” đăng trên Tạp chí Xưa và Nay 7/ 1997, Phạm Hy Tùng đã trích lại lời nhà
văn Vương Trí Nhàn trên báo Văn Hóa Thể Thao: “…Với một nhà văn hóa, cái
chết thường khi khơng phải là sự kết thúc. Những di vật người đó để lại, tác
phẩm đã viết ra, cơng trình đã hồn thành sẽ lên tiếng làm chứng cho sự có mặt
của một con người trong cuộc đời này, từ đó nhắc nhở những người cịn sống
tiếp tục cơng việc của người quá cố. Điều đó đúng với nhiều người, càng đúng
với trường hợp cụ Vương Hồng Sển mà nhà văn Sơn Nam đã gọi một cách vừa
quý mến vừa thân mật là “cụ Vương cổ ngoạn””.
Hay nhà văn Sơn Nam cũng đã kể về Vương Hồng Sển trong cuộc nói
chuyện cùng nhà báo Phạm Hy Tùng và đồng nghiệp được đăng trên Tạp chí
Xưa và Nay 11/ 1997: “Muốn hiểu phần nào văn hóa Việt Nam, phù hợp với khí
hậu phía Nam, có tiếp thu văn hóa Đơng Nam Á và Tây phương cứ dạo chơi nhà
ông Vương Hồng Sển được hướng dẫn và giải thích, ta sẽ có nụ cười hồn nhiên
và tự tin vào sức sống, sức tồn tại của dân tộc qua nhiều thăng trầm”. Những
nhận xét này cũng mới chỉ đề cập đến Vương Hồng Sển là nhà văn hóa trong
lĩnh vực nghiên cứu đồ cổ.
Đến năm 1999, Nxb Văn hóa thơng tin giới thiệu phần 2 và 3 của quyển
“Sài Gòn năm xưa” với nhan đề “Sài Gịn tạp pín lù”, với tựa đề như sau: “Cụ
Vương Hồng Sển là một học giả ở miền Nam, có nhiều tác phẩm được bạn đọc
mến mộ. Cụ sống suốt thế kỷ XX, từ khi Sài Gòn bắt đầu từ một Gia Định thời
Nguyễn để chuyển sang một tỉnh, một thành phố của chế độ thực dân, một thủ
đô của chế độ cũ và nay là thành phố Hồ Chí Minh đã hơn 300 năm. Tác giả là
người am hiểu phong tục, địa lý, cổ ngoạn, danh lam, con người, sự tích xưa.
…Cuốn “Sài Gịn năm xưa” của cụ viết trước đó đã là một tác phẩm khơng
những được đánh giá cao ở trong nước mà cả ở nước ngoài”. Đây là một nhận
6
xét khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Vương Hồng Sển nhưng vấn
đề văn hóa Nam Bộ chưa được người viết làm rõ.
Nhà báo Song Phạm đã trích lại lời nhận xét của anh Trần Ngọc Sinh –
biên tập viên Nhà xuất bản Trẻ, người biên tập các quyển di cảo của cụ Vương,
trong bài viết “Người giữ di cảo của cụ Vương Hồng Sển” đăng trên báo Sài
Gịn giải phóng thứ 7 ngày 24/09/2005: “Sách của cụ Vương khá kén độc giả
nhưng những ai đã đọc qua một cuốn thì khơng thể bỏ qua những quyển khác
bởi sự cuốn hút hóm hỉnh, chân thật trong cách diễn đạt, bên cạnh những kiến
thức ngồn ngộn về con người và về các thú tiêu dao mà ngày nay chỉ cịn trong
kí ức”. Nhận xét này đề cập đến lối viết cuốn hút và cũng phần nào hé mở vấn
đề văn hóa qua các tác phẩm của Vương Hồng Sển.
Bài viết “Tưởng nhớ Vương Hồng Sển – nhà văn hóa Nam Bộ” của nhà báo
Phạm Hy Tùng, đăng trên tạp chí Xưa và Nay số 274 tháng 12/ 2006 có nhận
định: “Tác phẩm Phong lưu cũ mới và Sài Gịn tạp pín lù là tập hợp của ơng về
những điều mắt thấy tai nghe, từ những mẫu chuyện nhỏ ở giới cần lao đến sinh
hoạt văn hóa dân gian như thú chơi chim, đá gà. Bản sắc dân tộc đậm đà với
đặc trưng vùng miền qua những câu chuyện kể trong hai tập này là những đóng
góp đáng kể của Vương Hồng Sển giúp chúng ta những người đang hịa mình
vào trong kinh tế thị trường với nhiều luồng văn hóa ngoại lai xâm nhập sẽ tìm
thấy cội nguồn mà về, nếu muốn”, hay “ Sài Gòn năm xưa và Sài Gịn tạp pín lù
có giá trị hiện thực lịch sử cao bởi trong đó có nhiều giai thoại, điển tích liên
quan đến Sài Gịn 300 năm được ông kể lại hoặc kiến giải cặn kẽ”. Qua đó, tác
giả đã phần nào đề cập đến vấn đề văn hóa Nam Bộ trong tác phẩm của Vương
Hồng Sển.
Năm 2012, ký giả Trần Trung Sáng viết bài: “Đọc di cảo cụ Vương Hồng
Sển”, đăng trên: thusuutap.vn. Nội dung có đoạn viết như sau: “Vẫn bằng giọng
văn dung dị, mộc mạc, giàu sức cuốn hút, những bài viết trong tập di cảo của cụ
Vương nhắc đến mọi chuyện thăng trầm dâu bể của đời người, từ lúc bé đến 90
7
tuổi, mang hồi vọng ca ngợi bản sắc văn hóa độc đáo của Sài Gòn xưa nay”.
Người viết đã chỉ ra lối hành văn hấp dẫn của nhà văn cũng như những giá trị
văn hóa đặc sắc có trong tác phẩm.
Bài viết: “Văn chương Bình Ngun Lộc - từ góc nhìn văn hóa – Phạm
Phú Phong” (đăng trên (2008), trích nguồn Tạp chí Sơng
Hương số 223 - 09 - 2007) có đoạn: “Một đặc điểm tương đối phổ biến của các
tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà
văn hố, tác phẩm của họ khơng chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh
vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ khơng chỉ sáng tác
văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như
lịch sử, địa lý, địa chí, ngơn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như
các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn
Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam,...”.
Như vậy, những bài viết được giới thiệu ở trên đã cung cấp thêm nhiều ý
kiến đánh giá khách quan về sự nghiệp văn hóa – văn học của học giả Vương
Hồng Sển. Vì thế, theo chúng tơi đề tài “Văn hóa Nam Bộ trong văn xi phi hư
cấu của Vương Hồng Sển” vẫn là một đề tài mới, ít ai đào sâu, nghiên cứu và
trình bày một cách có hệ thống, khoa học. Đó vừa là điều kiện thuận lợi vừa đặt
ra những thách thức giúp chúng tôi có cơ hội tìm hiểu, khám phá thêm những
đặc sắc văn hóa, nghệ thuật trong các sáng tác của vị học giả tài hoa này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là “văn xuôi phi hư cấu” của Vương
Hồng Sển.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Ơng có một khối lượng lớn các tác phẩm văn học, khảo cứu đồ cổ, các thú
chơi dân gian,… Nhưng trong phạm vi của đề tài nghiên cứu này là “văn hóa
8
Nam Bộ”. Vì vậy, chúng tơi chỉ khảo sát những tác phẩm tiêu biểu viết về con
người và văn hóa Nam Bộ.
Gồm những tác phẩm sau:
1/ Sài Gòn năm xưa (1999) – Nxb Văn hóa thơng tin (viết về đất và người
Sài Gòn từ khi chúa Nguyễn khai hoang đến buổi đầu người Pháp mới sang).
2/ Hồi ký 50 năm mê hát (2011) – Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh
(hồi ký về văn nghệ và cải lương miền Nam Việt Nam).
3/ Cuốn sách và tôi (2010) – Nxb Trẻ (tùy bút về thú chơi sách và những
câu chuyện thăng trầm ở Sài Gòn).
4/ Phong lưu cũ mới (1999) – Nxb thành phố Hồ Chí Minh (tùy bút về các
sinh hoạt văn hóa cổ truyền – văn hóa dân gian, các thú ăn chơi của người Sài
Gòn).
5/ Sài Gòn tạp pín lù (1999) - Nxb thành phố Hồ Chí Minh (thiên truyện ký
về cô V.A, cô Ba Trà, cô Sáu Ngọc Anh, cô Bảy Hột Điều,… – những mỹ nhân
nổi tiếng ở Sài Gịn thời pháp thuộc; bút kí về sinh hoạt mọi mặt ở Sài Gòn).
6/ Khám lớn ở Sài Gịn (2011) – Nxb Văn hóa nghệ thuật thành phố Hồ Chí
Minh (bút kí về những câu chuyện và sinh hoạt trong Khám lớn Sài Gòn).
7/ Hơn nửa đời hư (2013) – Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh (các
thiên hồi kí về những sinh hoạt văn hóa của tác giả ở đơ thị Sài Gịn).
8/ Ăn cơm mới nói chuyện cũ: Hậu Giang Ba Thắc (2012) – Nxb Trẻ (hồi
ký về sinh hoạt và văn hóa ở Sài Gòn).
9/ Bên lề sách cũ (2013) – Nxb Trẻ (tùy bút về thú văn nghệ và thú chơi
sách của giới trí thức Sài Gịn).
10/ Dở mắm (2015) – Nxb Trẻ (viết về nhiều sự kiện và con người - kéo dài
từ thời Pháp thuộc cho đến thời điểm 1983. Các nhân vật "có máu mặt" như các
quân vương, tồn quyền, thống đốc, các kỹ nữ, ngơi sao màn bạc, các thường
nhân của dĩ vãng hiện lên sống động qua hồi ức và tư liệu mà tác giả lưu giữ
được).
9
11/ Tạp bút năm Quý Dậu (1993), (2012) – NXb Trẻ (tạp bút, nhật ký về
văn hóa Sài Gịn và những chiêm nghiệm thế thái nhân tình của tác giả).
12/ Tạp bút năm Nhâm Thân (1992), (2013) – Nxb Trẻ (tạp bút, nhật ký về
văn hóa Sài Gịn và những chiêm nghiệm thế thái nhân tình của tác giả).
13/ Tạp bút năm Giáp Tuất (1994), (2014) - NXb Trẻ (tạp bút, nhật ký về
văn hóa Sài Gịn và những chiêm nghiệm thế thái nhân tình của tác giả).
14/ Tự vị tiếng Việt miền Nam (1999) – Nxb Trẻ (những chỉ dẫn quý báu về
địa danh, về tiếng nói Nam Bộ xưa và nay).
Bên cạnh đó là một số tác phẩm trong mảng khảo cứu của ơng như:
15/ Nửa đời cịn lại
16/ Thú chơi sách (1960)
17/ Thú xem chuyện Tàu (1970)
18/ Thú chơi cổ ngoạn (1971)
19/ Chuyện cười cố nhân (1971)
20/ Cuốn sổ tay của người chơi cổ ngoạn (1972)
21/ Khảo về đồ sứ từ hậu Lê đến sơ Nguyễn (1993)
22/ Nửa đời còn lại (1995)
- Thú ăn chơi
- Khảo về hát bội
Ngồi ra, chúng tơi có khảo sát một số tác phẩm của các nhà văn như Bình
Nguyên Lộc, Sơn Nam, Trang Thế Hy,… để có cái nhìn tổng qt hơn khi viết.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp phân loại – thống kê
Chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm phân loại các cổ vật, danh lam
thắng cảnh, di tích lịch sử, …được tác giả đề cập đến trong các tác phẩm. Đồng
thời lập các bảng thống kê theo những tiêu chí cụ thể nhằm giúp chúng tơi dễ
trích dẫn trong bài viết và dùng làm phần phụ lục để độc giả dễ nắm bắt tư liệu.
10
4.2. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Chúng tôi sử dụng phương pháp này để nghiên cứu mối liên hệ giữa văn học,
văn hóa, khảo cổ học, ngơn ngữ học,... Đồng thời làm sáng tỏ những mối liên hệ
này trong các tác phẩm của Vương Hồng Sển.
Hướng tiếp cận văn hóa được vận dụng như cách tiếp cận chính để giải
quyết vấn đề đặt ra trong đề tài. Từ góc độ văn hóa, lấy tiêu chí văn hóa để phân
tích, đánh giá tác phẩm văn học.
Tìm hiểu văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần trong đời sống người Nam
Bộ của Vương Hồng Sển để thấy được tính văn hóa trong tác phẩm văn học
cũng như mối quan hệ nội tại của văn học và văn hóa. Văn học vừa là một thành
tố quan trọng của văn hóa vừa tác động đến sự phát triển văn hóa dân tộc. Nhà
văn vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là chủ thể tiếp nhận văn hóa. Vì vậy, chính nhà
văn là người lưu giữ những đặc trưng của văn hóa dân tộc qua văn chương của
mình, đối với Vương Hồng Sển là văn hóa vùng miền.
Tiếp cận cuộc sống từ góc nhìn lịch sử văn hóa, nhà văn đem đến những
cách nhìn nhận mới mẻ về hiện thực. Cũng như việc thể hiện bằng các hình
tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học, những nét riêng của văn hóa dân tộc,
văn hóa vùng miền được người đọc cảm nhận sống động hơn, cụ thể hơn. Dĩ
nhiên không thể đánh giá văn học bằng các tiêu chí và nội dung của văn hóa
nhưng xét văn học từ góc độ này sẽ nhận ra được những giá trị rộng hơn và bền
vững hơn của nghệ thuật ngôn từ.
4.3. Phương pháp lịch sử cũng là phương pháp được vận dụng cùng với
hướng tiếp cận văn hóa học. Yếu tố văn hóa giúp nhà văn miêu tả và lý giải, hay
nói cách khác, tầm văn hóa giúp nhà văn thể hiện lối sống, tín ngưỡng, phong
tục, tập quán,… của cá nhân, của một cộng đồng thì lịch sử cũng chi phối đời
sống cá nhân, của cộng đồng cần được nhận thức và thể hiện. Hiểu như thế văn
hóa và con người là sản phẩm của lịch sử.
Bên cạnh đó, chúng tơi cũng sử dụng các thao tác so sánh – đối chiếu, thao
11
tác phân tích tổng hợp để hệ thống lại những nguồn tài liệu, những vấn đề liên
quan đến đề tài nghiên cứu.
5. Những đóng góp của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn góp phần khẳng định hiệu quả của hướng nghiên
cứu mới – tiếp cận và đánh giá văn học từ góc nhìn văn hóa.
Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần làm sáng rõ những hiểu biết về các
giá trị văn hóa đặc sắc của con người và vùng đất Nam Bộ - Sài Gòn – Gia Định.
Đồng thời, giới thiệu những đóng góp về mặt văn hóa – văn học qua các sáng
tác của Vương Hồng Sển đến độc giả đương thời và thế hệ mai sau.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần dẫn nhập, phần kết luận, phần tài liệu tham khảo và phụ lục,
chúng tơi trình bày phần nội dung chính của đề tài trong 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung (20 trang)
Trong chương I, chúng tôi đề cập đến thể loại văn xuôi phi hư cấu, thể
loại kí; khái niệm văn hóa; mối quan hệ văn hóa – văn học; hướng tiếp cận văn
học từ góc nhìn văn hóa; cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của nhà văn – nhà cổ
ngoạn Vương Hồng Sển.
Chương 2. Văn hóa vật chất Nam Bộ trong văn xi phi hư cấu của
Vương Hồng Sển (45 trang)
Chương này chúng tơi trình bày những luận điểm chính về văn hóa vật
chất ở Sài Gòn qua các sáng tác văn học của Vương Hồng Sển. Các luận điểm
được triển khai theo năm bình diện: Thế giới cổ vật – chứng tích văn hóa; Hệ
thống danh lam thắng cảnh - dấu tích lịch sử; Hệ thống các cơng trình tơn giáo –
biểu tượng của tín ngưỡng, tâm linh; Văn hóa ứng xử với mơi trường tự nhiên.
Chương 3. Văn hóa tinh thần Nam Bộ trong văn xuôi phi hư cấu
của Vương Hồng Sển (45 trang)
Chương tiếp theo, chúng tơi trình bày những luận điểm chính về văn hóa
tinh thần ở Sài Gịn qua các sáng tác văn học của Vương Hồng Sển. Các luận
12
điểm được triển khai theo bốn bình diện: Văn hóa tổ chức cộng đồng, Văn hóa
giao tiếp và ngơn ngữ, Văn hóa tâm linh, Văn học nghệ thuật.
13
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Thể loại văn xuôi phi hư cấu
Hiện nay, thể loại văn học phi hư cấu được cả nhà văn, nhà nghiên cứu –
phê bình và cả độc giả chú ý đến. Giá trị của các tác phẩm văn học phi hư cấu
được đề cao.
Trong văn bản phi hư cấu, người trần thuật luôn là người chứng kiến câu
chuyện được kể lại. Đó khơng phải là câu chuyện được tưởng tượng mà là
những sự kiện, biến cố có thật, có thể được kiểm chứng một cách khách quan.
Điều tạo nên sức hấp dẫn cho văn xi phi hư cấu chính là sự xác tín.
Điều chính yếu làm nên giá trị, phẩm chất và ưu thế của văn phi hư cấu là
tính chính xác và trung thực của nó. Sự kiện đã xảy ra khi nào? Ở địa điểm nào?
Ai đã tham gia vào sự kiện đó? Trong tất cả những trường hợp này, người đọc
đòi hỏi câu trả lời cặn kẽ và rõ nghĩa, dù đó là con số, ngày tháng, lời khẳng
định hay phủ định.
Văn bản phi hư cấu giống như những mảnh tranh ghép, được xây dựng từ
những bức chân dung nhân vật, những bức tranh miêu tả cảnh quan đời người và
sân khấu chính trị – xã hội, những suy niệm và trầm tư thế sự…
Những thể loại phi hư cấu được phổ biến rộng rãi trên báo chí trước khi in
thành sách là ký sự, phóng sự, hồi ký, bút ký, nhật ký, tạp bút,… Nhiệm vụ của
ký sự là trình bày và giải thích những sự kiện mới và đặc biệt quan trọng nhưng
lúc đầu chưa được cơng chúng chú ý đúng mức.
Qua đó, ta nhận thấy rằng ký được xem là thể loại văn học trung gian
nằm giữa văn học và báo chí. Bộ phận văn học ký rất linh động trong việc phản
ánh những biến chuyển của xã hội góp phần tạo nên bộ mặt đa dạng, phong phú
của đời sống văn học.
Tác giả Sơn Tùng đã đưa ra nhận định về ký trên tạp chí văn học số 8/
1961: “Ký là một hình thức của thể loại kể truyện, phản ánh những hiện tượng
14
của hiện thực khách quan, đời sống xã hội, biểu hiện con người với những tư
tưởng, tình cảm, hành động và quan hệ nhiều mặt của nó với những người khác,
trong một giai đoạn lịch sử nhất định” [64, tr.71]. Nhưng “kể” ở đây không đơn
thuần điểm qua những sự kiện chính mà có sự kết hợp các thủ pháp nghệ thuật
lẫn cảm xúc người viết.
Còn tác giả Đức Dũng lại định nghĩa: “Ký được coi là một thể loại khu biệt
với những loại thể khác bởi phương thức tiếp cận hiện thực riêng và có thể tạo
ra một kênh giao tiếp riêng giữa tác giả và công chúng” [15, tr.21].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, ký là thể loại văn học có đặc điểm là: “tơn
trọng sự thật khách quan của cuộc sống, không hư cấu” và “nhà văn viết ký
ln chú ý đảm bảo cho tính xác thực của hiện thực đời sống được phản ánh
trong tác phẩm” [23, tr.137].
Còn tác giả của Từ điển Tiếng Việt thì cho rằng ký là loại “thể văn tự sự có
tính chất thời sự, trung thành với hiện thực đến mức cao nhất” [44, tr.501].
Đây là những khái quát rất cụ thể về đặc trưng cơ bản của thể loại này.
Trong số các định nghĩa ấy, ta có thể thấy định nghĩa của Lại Nguyên Ân
và Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi khái quát hơn cả: “ký là tên
gọi chung cho một nhóm thể tài nằm ở phần giao nhau giữa văn học và ngoài
văn học (báo chí, chính luận, ghi chép tư liệu các loại,…); chủ yếu là văn xuôi
tự sự, gồm các thể loại như bút ký, hồi ký, du ký, phóng sự, ký sự, nhật ký,…” [4,
tr.176]. Nói cách khác “Ký là một loại hình văn học trung gian, nằm giữa báo
chí và văn học, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xi tự sự như bút ký, hồi ký, du
ký, phóng sự, ký sự, nhật ký, tùy bút,…” [23, tr.137].
Ký là một loại hình văn xi tự sự. Với quan niệm luôn tôn trọng sự thật
khách quan của cuộc sống, ký có khả năng cơ động lớn, phản ánh được trực tiếp
những biến cố thời sự, những vấn đề bất cập đang được đặt ra trong cuộc sống
cũng như những biểu hiện tư tưởng tình cảm của con người. Ngồi ra, ký còn
mang màu sắc tự sự, được tác giả kể lại, ghi lại những khoảnh khắc ấn tượng và
15
bộc lộ tâm tình của mình. Đây cũng là đặc trưng đầu tiên, dễ nhận diện nhất ở
thể ký.
Ký là một thể loại bao trùm nhiều “thể” và “tiểu loại” khác nhau: bút ký,
hồi ký, du ký, ký chính luận, ký sự, phóng sự, tùy bút, tạp văn, tản văn,… Có thể
nói tùy theo hình thức khác nhau của đối tượng miêu tả mà ký có cách tái hiện
riêng cho phù hợp.
Ký sự luôn ở vùng giáp ranh giữa báo chí và văn học. Ký sự đa dạng về nội
dung, nó liên quan đến những vấn đề chính trị, kinh tế, khoa học và văn hóa,
miêu tả những hiện tượng trong đời sống xã hội, thiên nhiên và môi trường,
những câu chuyện ở chiến trường và pháp đình, những điển hình tiêu biểu cho
các nhóm lợi ích và nghề nghiệp khác nhau.
Phóng sự có đặc điểm là tính kịp thời, sự dồn nén thông tin và văn phong
năng động. Là một thể loại phi hư cấu, phóng sự cịn mang yếu tố chính luận:
câu chuyện kể về các sự kiện được xen kẽ với những suy nghĩ và bình luận
ngoại đề của tác giả. Đối tượng của phóng sự thường là những tình huống cực
đoan: tai nạn, thảm họa, những sự kiện ở các điểm nóng, chẳng hạn ở vùng
chiến sự, thiên tai…
Hồi ký là một dạng văn phi hư cấu, một dạng văn học tư liệu, đồng thời
cũng là hình thức văn xi tự thuật. Đó là sự trần thuật về những sự kiện và hiện
tượng trong đời sống xã hội, chính trị, văn hóa, nghệ thuật mà tác giả là người
chứng kiến hay tác nhân của lịch sử, với những nhân vật mà người ấy tiếp xúc.
Trong lịch sử của văn học Việt Nam, ký ra đời rất sớm. Các tác phẩm như
từ “Thanh hư động ký” của Nguyễn Phi Khanh, “Lam Sơn thực lục” Nguyễn
Trãi, “Việt điện u linh” của Lý Tế Xuyên, “Lĩnh Nam chích quái lục” của Trần
Thế Pháp, đến “Thượng kinh ký sự” của Lê Hữu Trác, “Vũ trung tùy bút” của
16
Phạm Đình Hổ và đặc biệt là thiên ký sự lịch sử “Hồng Lê nhất thống chí” của
Ngơ gia văn phái.
Bước sang thế kỷ XX, các tác phẩm ký xuất hiện phong phú hơn. Đặc biệt,
giai đoạn 30 – 45 là sự nở rộ của thể phóng sự: Ngơ Tất Tố với “Việc làng, Tập
án cái đinh”; Vũ Trọng Phụng với hàng loạt tác phẩm như “Kĩ nghệ lấy Tây,
Cơm thầy cơm cơ, Lục xì”,…Trong giai đoạn này, tùy bút cũng bắt đầu phát
triển: “Hà nội – 36 phố phường” của Thạch Lam, …
Sau cách mạng tháng Tám, ký ngày càng phát triển mạnh mẽ. Công cuộc
kháng chiến hào hùng của dân tộc, tinh thần chiến đấu kiên cường của quân và
dân ta đã tiếp thêm cảm hứng, thôi thúc ngịi bút của các tác giả tn chảy nhằm
tái hiện lại tất cả hiện thực đương thời cũng như bày tỏ những tình cảm tha thiết,
nghĩa tình sâu đậm đối với nơi chôn nhau cắt rốn, với Tổ quốc. Các tác phẩm
tiêu biểu như “Ở rừng” của Nam Cao, “Kí sự Cao Lạng” của Nguyễn Huy
Tưởng, “Thương nhớ mười hai, Miếng ngon Hà Nội” của Vũ Bằng,...
Kháng chiến chống đế quốc Mỹ thành công, đất nước thống nhất và đặc
biệt bước qua những năm đổi mới, chủ đề của ký ngày càng đa dạng phong phú
hơn. Ngoài chủ đề cũ, các tác giả chuyển hướng ngòi bút sang ghi nhận thực tại
cuộc sống hàng ngày càng cụ thể, nhân bản, đậm tính dân tộc hơn, đồng thời cịn
thể hiện cái tôi của tác giả ngày càng rõ nét, sâu sắc và phong phú hơn. Tiêu
biểu có “Sài Gịn Tạp pín lù, Tạp bút năm Nhâm Thân, Hơn nửa đời hư” của
Vương Hồng Sển; “Người đàn bà quỳ” của Trần Khắc; tạp văn Nguyễn Khải,…
Đặc biệt, thể hồi ký văn học nở rộ, mang đậm yếu tố tự truyện vào những
thập niên cuối của thế kỉ XX, như “Từ rừng U Minh lên Cần Thơ” của Sơn
Nam; “Cát bụi chân ai” của Tơ Hồi; Hồi kí Đặng Thai Mai; Tố Hữu, ...Vì vậy,
thế mạnh của tác phẩm ký chính là nó có thể đáp ứng yêu cầu nào đó của nghệ
thuật và tự khẳng định giá trị của mình trong nền văn học.
Tác giả Hà Minh Đức nhận định rằng: “đặc điểm mấu chốt xác định ranh
giới giữa các thể ký văn học với các thể loại khác ở chỗ viết về cái có thật và tơn
17
trọng tính xác thực của đối tượng miêu tả”. Nhưng cần lưu ý rằng, người thật
việc thật ở đây là những sự việc đã xảy ra trong quá khứ và hiện tại đi kèm
những diễn biến nội tâm của các nhân vật. Ký đã miêu tả bức tranh xã hội qua
những sự kiện và con người có thật, gồm kẻ xấu lẫn người tốt. Những nhân vật
lịch sử như chị Quyên, anh Trỗi, chị Út Tịch, …đã tạo nguồn cảm hứng đưa các
tác phẩm: “Sống như anh” của Trần Đình Vân, “Họ sống và chiến đấu” của
Nguyễn Khải, “Chúng tôi ở Cồn Cỏ” của Hồ Phương,… Bên cạnh đó là những
con người bình thường hiện hữu trong cuộc sống hiện tại như Phan Văn Vĩnh,
Lê Ngọc Trụ, Nguyễn Hiến Lê, Phạm Văn Ngỡi,... được khắc họa chân thật
bằng con mắt khách quan trong những trang viết của Vương Hồng Sển. Những
tác phẩm ấy đến nay vẫn được độc giả đón nhận và sống mãi với thời gian.
Tuy nhiên, viết ký khơng có nghĩa chỉ ghi chép các sự kiện, con người mà
nhà văn cần tưởng tượng, liên tưởng… nghĩa là cũng cần hư cấu. Hư cấu trong
ký là chọn lọc, sắp xếp các ý tưởng, sự kiện một cách có nghệ thuật. Qua các chi
tiết điển hình, tác giả có thể hư cấu thêm, miễn không quá sai lệch với sự thật,
tôn lên những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật. Ở đây, nội tâm của nhân vật cũng
được hư cấu. Người viết sẽ đốn được tính cách nhân vật, tưởng tượng ra diễn
biến tâm lý của họ trong từng hồn cảnh khác nhau. Bên cạnh đó, những nhân
vật phụ, cảnh sắc thiên nhiên trong cảm xúc trữ tình của nhân vật cũng được hư
cấu vì khơng có sự ảnh hưởng nhiều đến nội dung chính của tác phẩm. Tuy vậy,
việc hư cấu bắt buộc phải nằm trong một chừng mực nào đó, gắn với đặc điểm
của thể ký. Hư cấu ở đây là sự tô đậm, làm rõ những chi tiết còn mờ nhạt, bớt đi
những sự kiện rườm rà. Chính vì vậy, mức độ hư cấu trong tác phẩm dù cao hay
thấp vẫn phải tôn trọng các yếu tố sau: tên tuổi, lai lịch, ngoại hình, thời gian,
địa điểm, những quan hệ xã hội cơ bản, các diễn biến chính của sự việc,…
Nếu ta đặt ký và truyện trong cái nhìn đối sánh thì có thể nhận ra được
những tiêu chí nhận biết thể loại rõ nét. Ký ghi chép những sự kiện lịch sử có
thật (con người, sự kiện, thời gian, khơng gian,…) chính xác; có hư cấu ở một số
18
chi tiết nhỏ; nhân vật xuất hiện trong sự kiện. Cịn truyện thì gắn sự kiện với
những sáng tạo nghệ thuật; hư cấu nhiều; nhân vật xuất hiện từ đầu đến cuối tác
phẩm, có sự phát triển tính cách. Nếu tác giả kịch chú ý đến xung đột hành động
kịch thì người viết ký quan tâm đến tính tự nhiên của đối tượng hay nhà thơ
quan tâm đến những tâm trạng và cảm xúc thẩm mỹ thì người viết ký sẽ ghi lại
những cái có thật trong cuộc sống, tơn trọng tính xác thực của đối tượng miêu tả
cho dù đó là một tác phẩm tường thuật lại những sự kiện hoặc phát biểu cảm
nghĩ về những sự việc trong đời sống hay thiên về sự bình luận phân tích.
Trong từng thời kỳ phát triển của văn học, ký luôn đảm nhiệm tốt vai trò
biểu hiện sự vận động của cuộc sống và khẳng định nó là một bộ phận quan
trọng hợp thành một nền văn học hoàn chỉnh. Và chính những chủ thể sáng tạo
cũng phải có sự nhạy bén với những biến động của thời cuộc cộng thêm kinh
nghiệm cuộc sống và nhiệt huyết để tạo nên những tác phẩm có giá trị cao.
1.1.2. Khái niệm văn hóa
Văn hóa phản ánh trình độ phát triển dân tộc, là nền tảng tinh thần của xã
hội, là sự kết tinh của những giá trị tốt đẹp nhất giữa người với người, giữa con
người với thiên nhiên và xã hội. Văn hóa là một phạm trù xã hội và tồn tại như
một phương diện không thể thiếu trong đời sống xã hội của con người. Văn hóa
vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy,
đối với mỗi quốc gia, dân tộc văn hóa ln được chú trọng và đề cao. Đặc biệt,
trong xu thế tồn cầu hóa, lĩnh vực văn hóa lại càng được chú trọng.
Về khái niệm “văn hóa” đến thời điểm hiện tại vẫn còn nhiều ý kiến khác
nhau, do đó có những định nghĩa khác nhau về văn hóa. Mỗi định nghĩa thể hiện
một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau.
Từ gốc của Văn hóa là culture. Nhưng tùy vào quan điểm của mỗi khu vực,
mỗi dân tộc nó lại có những biến đổi phù hợp. Ở phương Tây, căn cứ vào chiết
tự, từ nguyên Culture của tiếng Anh và tiếng Pháp, người Bồ Đào Nha và Tây
Ban Nha có từ Cutura,… xuất phát của nó từ tiếng La tinh Cultus mà nghĩa gốc
19
là trồng trọt được dùng theo hai nghĩa cultus agri là “trồng trọt ngoài đồng” và
cultus animi là “trồng trọt tinh thần” tức là “sự giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn
con người”. Vì vậy, xét theo nghĩa gốc, văn hóa gắn liền với giáo dục, đào tạo
con người, một tập thể người để cho họ có được những phẩm chất tốt đẹp, cần
thiết cho tồn thể cộng đồng. Cịn ở phương Đông, người Trung Hoa quan niệm
“Văn” là nét vẽ, thể hiện vẻ đẹp bề ngồi, “hóa” là làm thay đổi, làm cho trở
nên đẹp, tốt hơn, …Người Hoa lấy hai chữ ghép liền để dịch chữ Culture của
tiếng Pháp, tiếng Anh và chữ Kultur của tiếng Đức (nghĩa là canh tác, nuôi
dưỡng, giáo dục, phát triển, tôn trọng).
Tuy được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng suy cho cùng, khái
niệm “văn hố” bao giờ cũng có thể qui về hai cách hiểu chính: theo nghĩa hẹp
và theo nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, văn hóa được giới hạn theo chiều sâu (nếp
sống văn hóa, cơng trình văn hóa,…) hoặc chiều rộng (văn hóa giao tiếp, văn
hóa kinh doanh,…), theo khơng gian văn hóa (văn hóa Bắc Bộ, Văn hóa Tây
Nguyên, văn hóa Nam Bộ,…) và theo thời gian (văn hóa Hịa Bình, văn hóa
Đơng Sơn, văn hóa Sa Huỳnh, …). Về nghĩa rộng, văn hóa là tồn bộ giá trị vật
chất và tinh thần đã được xã hội hóa trong lao động sáng tạo của con người, là
tất cả những giá trị do con người sáng tạo ra và được truyền từ thế hệ này đến
thế hệ sau, là sự thể hiện sự phát triển của con người trong mỗi thời đại lịch sử
nhất định.
Nội dung và ý nghĩa của khái niệm văn hóa chịu sự tác động mạnh mẽ của
sự phát triển xã hội nên ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Vì vậy, các nhà
nghiên cứu có thể tiếp cận khái niệm văn hóa ở nhiều lĩnh vực khác nhau như
ngôn ngữ học, tâm lý học triết học, dân tộc học,…
Học giả Xô Viết A. A. Zvorkin trong cuốn sách “Xác định văn hóa và vị
trí của nền văn hóa vật chất trong nền văn hóa nói chung” đã định nghĩa “văn
hóa là tất cả những gì do con người tạo ra, khác với những gì do thiên nhiên
cung cấp”.