Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Kĩ năng giao tiếp cộng đồng của thanh niên dân tộc ê đê trên địa bàn tỉnh đaklak

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.37 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ THUÝ HÀ

KỸ NĂNG GIAO TIẾP CỘNG ĐỒNG CỦA THANH
NIÊN DÂN TỘC ÊĐÊ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH DAKLAC

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013



LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong
bất kì cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn

3


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................3
MỤC LỤC ........................................................................................................4
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................6
Lý do chọn đề tài............................................................................................................ 6
Mục đích nghiên cứu. ................................................................................................... 7
Giả thuyết nghiên cứu. .................................................................................................. 7


Phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu. ............................................................ 7
Đối tượng, khách thể nghiên cứu. ................................................................................ 8
Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 8

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ GIAO TIẾP VÀ KĨ NĂNG GIAO TIẾP
TRONG TÂM LÍ HỌC VÀ TRONG HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP CỘNG
ĐỒNG ...............................................................................................................9
1.1. Vài nét về lịch sử vấn đề......................................................................................... 9
* Ở nước ngoài ..................................................................................................................... 9
* Ở trong nước.................................................................................................................... 11

1.2. Giao tiếp cộng đồng của ngưòi dân tộc Êđê ....................................................... 14
1.2.1. Giao tiếp ................................................................................................................... 14
1.2.2. Giao tiếp cộng đồng ................................................................................................. 21
1.2.3. Kĩ năng giao tiếp ...................................................................................................... 29

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng giao tiếp cộng đồng của thanh niên dân tộc
Ê đê ............................................................................................................................... 35
1.3.1. Yếu tố văn hóa dân tộc ............................................................................................. 35
1.3.2. Yếu tố vùng miền, cộng đồng nơi cư trú ................................................................... 38
1.3.3. Yếu tố nhà trường, giáo dục ..................................................................................... 39
1.3.4. Yếu tố gia đình .......................................................................................................... 40
4


1.3.5. Yếu tố cá nhân .......................................................................................................... 42

Chương 2: CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ TỐ CHÚC NGHIÊN CỨU ........43
2.1. Nguyên tắc và quan điểm chỉ đạo nghiên cứu.................................................... 43
2.1.1. Quan điểm tiếp cận hoạt động - nhân cách .............................................................. 43

2.1.2. Quan điểm tiếp cận lịch sử trong nghiên cứu tâm lí người ...................................... 43
2.1.3. Quan điểm tiếp cận duy vật biện chứng ................................................................... 43

2.2. Các phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 44
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận, tài liệu ................................................................ 44
2.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu thăm dò .............................................................. 44
2.2.3. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu bằng phần mềm SPSS for Window 11.5 ......... 46

2.3. Tổ chức nghiên cứu ............................................................................................. 46
2.3.1. Chọn mẫu điều tra .................................................................................................... 46
2.3.2. Các giai đoạn nghiên cứu ......................................................................................... 46

Chương 3: KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ......47
3.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu ......................................................................... 47
3.2. Vài nét về Tỉnh Daklak ........................................................................................ 50
3.3. Kết quả phân tích.................................................................................................. 51
3.3.1. Nhận thức về giao tiếp cộng đồng của thanh niên dân tộc Ê đê .............................. 51
3.3.2. Mức độ biểu hiện kĩ năng giao tiếp cộng đồng của thanh niên dân tộc Ê đê [phụ lục
3 (3.1, 3.2)] ......................................................................................................................... 54
3.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng giao tiếp cộng đồng của thanh niên dân tộc Ê đê
............................................................................................................................................ 63

3.4. Đề xuất giải pháp.................................................................................................. 69

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ......................................................................72
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 72
KIẾN NGHỊ ................................................................................................................. 73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................75
PHỤ LỤC .......................................................................................................77

5


MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài.
Trong đời sống, giao tiếp đóng vai trị là phương tiện, cầu nối giữa con người với con người.
Giao tiếp là con đường để mỗi cá nhân phát triển kéo theo sự phát triển của xã hội. Do vậy, việc
nghiên cứu về giao tiếp nhằm làm rõ bản chất của giao tiếp, diễn tiến quá trình giao tiếp, những
kĩ năng cơ bản trong giao tiếp là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng và cần thiết. Bởi
vì chỉ khi hiểu rõ bản chất của giao tiếp và sử dụng thuần thục các kĩ năng giao tiếp thì mỗi cá
nhân mới có thể giao tiếp thành cơng, nhờ đó truyền đạt và thu nhận thơng tin một cách chính
xác, nhanh gọn, từ đây mỗi cá nhân sẽ đạt được hiệu quả công việc một cách tốt nhất, từ đó sẽ
nâng cao đời sống kinh tế của cá nhân và xã hội.
Thực tiễn cho thấy người dân tộc Ê đê nói riêng và dân tộc thiểu số nói chung sử dụng chủ
yếu ngơn ngữ dân tộc mình trong giao tiếp hàng ngày, chỉ trong mơi trường tiếp xúc với người
Kinh, người dân tộc khác - tham gia các hoạt động xã hội, cộng đồng (học tập, lao động, giao
lưu) thì người Ê đê mới sử dụng ngôn ngữ phổ thông (tiếng Kinh). Tuy nhiên, do kinh tế chủ yếu
của người dân tộc Ê đê là làm nương, rẫy ở những nơi xa xôi, hẻo lánh và quy tụ với nhau trong
các buôn làng chủ yếu là người Ê đê sinh sống. Do vậy, đây là những điểm yếu dẫn đến việc giao
tiếp giữa người dân tộc Ê đê và dân tộc khác bị hạn chế rất nhiều và cũng là nguyên do dẫn đến
việc hạn chế sự thích ứng, hịa nhập cộng đồng cùng như tính năng động ở người dân tộc Ê đê.
Bên cạnh đó, một trong những chính sách dân tộc hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta là xây dựng
được một đội ngũ trí thức người dân tộc đủ tài và lực - là lực lượng trực tiếp xây dựng, phát triển
kinh tế - xã hội và giữ vừng sự ổn định chính trị ở những địa bàn có đơng người dân tộc thiểu số
cư trú. Để thực hiện nhiệm vụ này, việc trang bị những kĩ năng giao tiếp cho người dân tộc Ê đê
là hết sức quan trọng. Do đó, việc nghiên cứu giao tiếp của người dân tộc thiểu số nói chung và
người dân tộc Ê đê nói riêng là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng và cấp thiết không chỉ đối với
riêng địa bàn tỉnh mà cịn ảnh hưởng đến tồn xã hội.
Nghiên cứu giao tiếp của người dân tộc sẽ góp phần hệ thống hóa lí luận về giao tiếp một
cách tồn diện hơn, sâu sắc hơn.

Ngồi ra, trong các cơng trình nghiên cứu của nhiều tác giả về giao tiếp chưa có sự thống
nhất trong phân loại các kĩ năng giao tiếp cơ bản. Do đó, đề tài sẽ nghiên cứu sâu về hệ thống
6


các kĩ năng giao tiếp cơ bản để đưa đến sự phân loại hợp lý nhất, từ đó có sự đánh giá cũng như
nghiên cứu, xây dựng hệ thống các mức độ rèn luyện khác nhau, phù hợp hơn với từng nhóm kĩ
năng giao tiếp.
Tìm hiểu những ngun nhân dẫn đến sự hạn chế giao tiếp của thanh niên người dân tộc E
đê, mức độ biều hiện những kĩ năng giao tiếp của họ nhằm đưa ra các giải pháp hồn thiện kĩ
năng giao tiếp của họ, từ đó giúp mỗi thanh niên dân tộc Ê đê phát huy hết khả năng trong quá
trình học tập, lao động của bản thân mình. Chúng tơi tiến hành nghiên cứu đề tài “Kĩ năng giao
tiếp cộng đồng của thanh niên dân tộc Ê đê trên địa bàn tỉnh DakLak”
Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở khảo sát các mức độ biểu hiện những kĩ năng giao tiếp cộng đồng của thanh
niên dân tộc Ê đê và những ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài cũng như bên trong mỗi cá nhân,
đề xuất các biện pháp giáo dục, rèn luyện nhằm hoàn thiện và nâng cao kĩ năng giao tiếp cộng
đồng cho thanh niên dân tộc Ê đê.
Giả thuyết nghiên cứu.
Kĩ năng giao tiếp cộng đồng của thanh niên dân tộc Ê đê đã được hình thành nhưng ở mức
thấp, tuy nhiên mức độ biểu hiện chưa đồng đều giữa các nhóm kĩ năng giao tiếp; chưa đồng đều
giữa các nhóm thanh niên dân tộc Ê đê về các yếu tố: giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú...
Các yếu tố vùng miền, văn hóa dân tộc, giáo dục, gia đình và cá nhân đều có ảnh hưởng
lớn đến việc hình thành và rèn luyện kĩ năng giao tiếp cộng đồng của thanh niên dân tôc Ê đê.
Phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu.
* Phạm vi nghiên cứu: đề tài chỉ nghiên cứu kĩ năng giao tiếp cộng đồng trên đối tượng
thanh niên (từ 18 đến 25 tuổi) cư trú và học tập, lao động trên địa bàn thành phố Buôn Mê Thuột,
tinh DakLak và xã Ea Tiêu, huyện Cư Kuin, Tỉnh DakLak.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về giao tiếp cộng đồng và kĩ năng giao tiếp cộng đồng, những

yếu tố ảnh hưởng đến việc rèn luyện kĩ năng giao tiếp cộng đồng của thanh niên dân tộc Ê đê.
Khảo sát mức độ biểu hiện những kĩ năng giao tiếp cộng đồng của thanh niên dân tộc Ê đê
trong quá trình học tập, lao động, sinh sống trên địa bàn tỉnh Daklak. Tìm hiểu những yếu tố ảnh
hưởng đến kĩ năng giao tiếp cộng đồng của họ.

7


Đề xuất một số giải pháp tổ chức hoạt động giáo dục, rèn luyện nhằm nâng cao và hoàn
thiện những kĩ năng giao tiếp cộng đồng của thanh niên dân tộc Ê đê.
Đối tượng, khách thể nghiên cứu.
* Khách thể nghiên cứu: Hoạt động giao tiếp cộng đồng của thanh niên dân tộc Êđê
* Đối tượng nghiên cứu: Kĩ năng giao tiếp cộng đồng của thanh niên dân tộc Ê đê.
Phương pháp nghiên cứu
* Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận: thơng qua đọc sách, tài liệu và phân tích, hệ
thống hóa những tài liệu lí luận liên quan đến đề tài
* Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp điều tra bằng phiếu thăm dò
* Phương pháp xử lý thơng tin: phương pháp tốn thống kê (sử dụng phần mềm SPSS for
Window 11.5)

8


Chương 1: TỔNG QUAN VỀ GIAO TIẾP VÀ KĨ NĂNG GIAO TIẾP
TRONG TÂM LÍ HỌC VÀ TRONG HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP CỘNG
ĐỒNG
1.1. Vài nét về lịch sử vấn đề
* Ở nước ngồi
Trong thời kì cổ đại, Socrate (470-399 TCN) đã coi đối thoại như là sự giao tiếp trí tuệ,
phản ánh các mối quan hệ qua lại giữa con người với con người.

Thời kì Phục hưng (1452-1512), Leonardo De Vince, họa sỹ thiên tài người Ý đã mô tả sự
giao tiếp mẹ con; nhà triết học Hà Lan M.Phemtecloi (thế kỉ 18) đã viết một tiểu luận dưới nhan
đề “Một bức thư về con người và các quan hệ của nó với người khác”, trong đó có đoạn: “Muốn
xem xét con người trong xã hội một cách chút ít thành cơng thì phải bắt đầu chú ý nghiên cứu
một cơ quan mà cho đến nay chưa có tên riêng, mà thưởng gọi là trái tim, tình cảm, lương tâm...
Tương tự như cơ quan thính giác hay thị giác, nếu khơng có khơng khí và ánh sáng thì khơng thể
hoạt động được, trái tim và lương tâm con người chỉ bộc lộ khi người ấy sống cùng người khác”.
Nhà triết học Đức Phobach (1804-1872) đã viết: “Bản chất con người chỉ biểu hiện trong
giao tiếp, trong sự thống nhất của con người, trong sự thống nhất dựa trên tính hiện thực của sự
khác biệt giữa tôi và bạn”.
Giữa thế kỉ XIX, trong bản thảo Kinh tế - Triết học 1884, Karx Marc (1818- 1883) đã bàn
về nhu cầu xã hội giữa con người với con người. Trong hoạt động xã hội và tiêu dùng, xã hội
loài người phải giao tiếp thực sự với nhau: “Cảm giác và sự hưởng thụ của những người khác
cũng trở thành sở hữu của bản thân tơi. Cho nên ngồi vũ khí quan trọng trực tiếp ấy, hình thành
những khí quan xã hội, dưới hình thức xã hội. Chăng hạn như giao tiếp với những người khác
đã trở thành khí quan biểu hiện sinh hoạt của tôi và một trong những phương thức chiếm hữu
sinh hoạt của con người. Hơn thế nữa, thông qua giao tiếp với người khác mà có thái độ với
chính bản thân mình, mỗi người tự soi mình”. Như vậy, K.Marc đã sử dụng khái niệm giao tiếp
vật chất để chỉ mối quan hệ sản xuất thực tiễn của con người.
Đến thế kỉ XX, vấn đề giao tiếp ngày càng được các nhà triết học, tâm lí học, xã hội học
quan tâm nhiều hơn. Gmit (1863-1931), nhà tâm lí học và triết học Mỹ, đại diện của triết học
9


thực dụng, đã đưa ra thuyết quan hệ qua lại tượng trưng. Theo thuyết này, sự hình thành cái tơi
trong con người phản ánh cấu trúc của sự tác động qua lại của cá thể trong các nhóm khác nhau
(sự hình thành cái tơi là sự lĩnh hội nghĩa của các biểu tượng và nghĩa của vai trò của bản thân),
ơng khẳng định vai trị của giao tiếp đối với sự tổn tại trong xã hội loài người, trong cộng đồng
người.
Triết học hiện sinh lấy phạm trù tổn tại làm phạm trù trung tâm rất quan tâm đến vấn đề

giao tiếp. Một trong những người đứng đầu của trường phái này là Cacgiacpe (1883-1969) - nhà
triết học, nhà tâm lí học người Đức đã đưa ra một lí thuyết mang tên “Giao tiếp hiện sinh". Thuyết
này khẳng định: người ta phải có sự giao tiếp sống động, liên tục, thưởng ngày, được thể hiện
bằng các cuộc tranh luận tự do về các quan điểm, lập trường... ông khẳng định, giao tiếp là điều
kiện tổng quát của sự tổn tại của con người.
Mác Tinbubơ (1876-1965), một đại diện khác của triết học hiện sinh và triết học Nhật Bản,
trong tác phẩm “Tôi và bạn" đã cho rằng “tổn tại là đối thoại”, sau này đó là nguyên tắc đối thoại,
góp phần phát triển lý luận về giao tiếp. Trong giao tiếp, hai người bổ sung cho nhau chứ không
phải thay thế nhau, quan hệ qua lại hai chiều chứ không phải theo một chiều trật tự thứ bậc, đó
là “hai người gặp nhau”, tổn tại thứ nhất gặp tổn tại thứ hai.
Đầu thế kỳ XX, khi nghiên cứu và đề xuất các phản xạ học, nhà triết học Nga V.M.
Becchurep (1857-1927) trong tác phẩm “Tâm lí học khách quan” (1907), “Phản xạ học tập thể"
(1921)... đã đề cập nhiều đến các vấn đề giao tiếp. Theo ông, giao tiếp là ảnh hưởng tâm lí qua
lại giữa người này với người kia. Giao tiếp giữ vai trò cơ chế thực hiện hoạt động cùng nhau và
hình thành nên chủ thể tập thể của hoạt động đó. Giao tiếp là điều kiện thực hiện giáo dục, truyền
đạt kinh nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác, ơng cũng nhấn mạnh vai trị to lớn của giao tiếp
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách (đặc biệt là vai trò xã hội của giao tiếp).
Cũng trong những năm đầu thế kỳ XX, trong tâm lí học xuất hiện thuyết Preted. Học thuyết
này đã đề cập đến vấn đề ý thức của những người tham dự trong quá trình giao tiếp; mối liên
quan giữa giao tiếp với giấc mơ và tưởng tượng... Thuyết này nhấn mạnh đến các yếu tố chuyển
giao, đồng nhất trong giao tiếp.
Từ giữa thế kỳ XX, ra đời một khoa học mới, mở đầu bằng tác phẩm “Điều khiển học"
(1948) của nhà bác học Mỹ B.Vina, và sau đó (1949), C.Senen, người học trị của Vina, cho ra
mắt tác phẩm “Lí thuyết tốn học của q trình thơng tin". Hệ thống được định nghĩa như là một
10


tổ hợp các thành tố trong sự quan hệ qua lại với nhau, về bản chất, các mối quan hệ này không
phải là mối quan hệ ngẫu nhiên. Từ tâm lí học nói chung, tâm lí học giao tiếp nói riêng chịu ảnh
hưởng rất nhiều của điều khiển học, lí thuyết thơng tin, lí thuyết hệ thống. Các nhà tâm lí học

hành vi, các nhà nhân chủng học, các nhà tâm thần học đã vận dụng các lí thuyết đó vào nghiên
cứu giao tiếp như là mối quan hệ qua lại giữa các nhân cách. Mối quan hệ giao tiếp qua lại đó
được coi là một trong nhùng hành vi có thể, hoặc coi đó là các mã của hành vi. Theo các tác giả
này, giao tiếp được coi là một tổ hợp hành vi. Giao tiếp là một quá trình xã hội, thưởng xuyên
diễn ra giữa con người với nhau: ngôn ngữ, hành vi cử chỉ, hành vi điệu bộ trong không gian
giữa những người giao tiếp với nhau, ngữ cảnh xảy ra giao tiếp.
* Ở trong nước
Ở Việt Nam, vấn đề giao tiếp và kĩ năng giao tiếp đã được nghiên cứu từ những năm 70
của thế kỷ XX.
+ Đối với vấn đề giao tiếp
Tác giả Đỗ Long trong “Các Mác và phạm trù giao tiếp" (1963); Trần Trọng Thủy trong
“Giao tiếp, tâm lí, nhân cách" (1981); “Giao tiếp và sự phát triển nhân cách của trẻ" (1981);
“Nhập môn khoa học giao tiếp (1995); Bùi Văn Huệ trong “Bàn về phạm trù giao tiếp" (1981),
đã chú ý phân tích các khía cạnh khác nhau của phạm trù giao tiếp như bản chất của giao tiếp,
vai trị, vị trí của giao tiếp trong sự hình thành nhân cách.
Trong “Giáo trình tâm lí học xã hội - những vấn đề lí luận”, tác giả Mai Thanh Thế đã đề
cập đến khái niệm chức năng và tác động qua lại của con người trong giao tiếp.
Những năm cuối của thế kỉ XX, vai trò của giao tiếp ngày càng được đánh giá cao, ngày
càng có nhiều cơng trình nghiên cứu về giao tiếp.
- Những cơng trình nghiên cứu về giao tiếp sư phạm của khoa Tâm lí giáo dục Trường Đại
học Sư phạm I Hà Nội: Trần Trọng Thủy “Đặc điểm giao tiếp sư phạm” (1985); Ngơ Cơng Hồn
“Giao tiếp và ứng xử sư phạm” (1992); Lê Xuân Hồng “Một số đặc điểm giao tiếp của trẻ mẫu
giáo trong nhóm chơi khơng cùng độ tuổi” (1994), Luận án PTS Tâm lí học; Nguyễn Thanh Bình
“Những khó khăn tâm lí trong giao tiếp sư phạm” (1997), Luận án PTS Tâm lí học.
- Cơng trình thực nghiệm sư phạm về hoạt động tự quản của học sinh cấp I, II, III do Giáo
sư Đặng Xn Hồi và Tổ Tâm lí học nhân cách thuộc Viện khoa học giáo dục thực hiện.

11



- Luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ và một số các báo cáo khoa học về giao tiếp và giao tiếp
sư phạm: “Giao tiếp và sự hình thành nhân cách thiếu niên" của TS. Đào Thị Oanh (1999); “Đặc
điểm giao tiếp của người cảnh sát khu vực" của tác giả Hoàng Văn Học (1998); “Đặc điểm giao
tiếp của Hiệu trưởng tiểu học", luận án Tiến sĩ Tâm lí học của tác giả Nguyễn Liên Châu (2000);
“Đặc điểm giao tiếp của trẻ em phạm tội mức độ ít nghiêm trọng”, luận án Tiến sĩ Tâm lí học
của tác giả Hồng Thị Bích Ngọc (2000).... Các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều
mặt khác nhau của giao tiếp và giao tiếp sư phạm:
• Khẳng định giao tiếp sư phạm là một loại giao tiếp nghề nghiệp giữa giáo viên và học sinh
trong quá trình giảng dạy và giáo dục. Trong đó có sự tiếp xúc tâm lí, xây dựng bầu khơng khí
thuận lợi, nhằm tạo ra kết quả tối ưu trong quan hệ thầy trò, trong nội bộ tập thể học sinh, trong
hoạt động dạy cũng như hoạt động học.
• Giao tiếp sư phạm có vị trí đặc biệt quan trọng trong cấu trúc năng lực sư phạm. Hoạt
động sư phạm có mục đích nào thì giao tiếp sư phạm cũng có mục đích đó.
+ Đối với vấn đề kĩ năng giao tiếp
Những năm cuối thế kỷ XX, ở trong nước đã có một số tác giả nghiên cứu vấn đề kĩ năng
giao tiếp trong một số lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp:
• Trong cuốn “Tình người, giao tiếp và văn hóa giao tiếp’' (1998), PGS Trần Trọng Thủy
đã phân tích mối quan hệ giữa tình người, văn hóa và giao tiếp. Theo tác giả, giao tiếp chính là
phương tiện thể hiện tình người, là hình thức tác động qua lại của con người trong quá trình sống
và hoạt động cùng nhau... Thông qua giao tiếp, bản chất con người được thể hiện, thông qua giao
tiếp, con người thu nhận được những tri thức về thế giới xung quanh, về người khác, về bản
thân... Muốn thiết lập được các quan hệ bình thưởng giữa con người và con người thì cần phải
có vốn văn hóa giao tiếp, đó là những nét tính cách như: tơn trọng người khác, có thiện chí, quan
tâm, rộng lượng, tế nhị... Văn hóa giao tiếp có liên quan mật thiết với kĩ năng giao tiếp, có một
số kĩ năng giao tiếp đặc trưng của con người như: kĩ năng chỉnh sửa các ấn tượng ban đầu của
mình về người khác khi mới làm quen với họ; kĩ năng bước vào giao tiếp với người khác một
cách khơng có định kiến. Những kĩ năng giao tiếp này khơng có sẵn mà thơng qua học tập và rèn
luyện [16, tr.21].
• Tác giả Nguyễn Đình Xn “Giáo trình tâm lí học quản lí” nghiên cứu giao tiếp trong
quản lí đã đề cập đến khái niệm, ý nghĩa, chức năng, cấu trúc, loại hình giao tiếp và phong cách

12


giao tiếp trong quản lí. Tác giả đi sâu phân tích một số hình thức giao tiếp quản lí như: họp hành,
tiếp khách, mít tinh, tiếp xúc với người dưới quyền... Ngồi ra, tác giả cịn đề cập đến một số kĩ
thuật giao tiếp: Lựa chọn địa điểm, thời gian tiếp khách như thế nào, những điều cần chú ý trong
lễ tân tiếp khách (chào, hỏi, bắt tay, thái độ vui vẻ...), làm chủ cảm xúc của mình trong tiếp xúc,
thuật nghe và dẫn dắt người nói, học cách nói cho gọn gàng, kiểm tra âm sắc ngữ điệu phù hợp,
chú ý trang phục, tránh đề cập đến những điều cấm kị trong giao tiếp, những phong tục lễ nghi
trong tiếp khách... [21, tr.215].
• Trong cuốn “Giáo trình tâm lí và nghệ thuật giao tiếp ứng xử trong kinh doanh du lịch"
(1997), tác giả Nguyễn Văn Đính đã đi sâu phân tích một số đặc trưng trong giao tiếp du lịch:
thời gian ngắn, gặp nhau lần đầu.... Do vậy, hiệu qủa giao tiếp du lịch phụ thuộc nhiều vào ấn
tượng ban đầu. Người hướng dẫn viên du lịch cần biết rèn luyện một số kĩ năng giao tiếp để thu
hút khách (kĩ năng định hướng, kĩ năng định vị, kĩ năng điều khiển, điều chỉnh trong giao tiếp).
• Tác giả Nguyễn Văn Lê “Tâm lí học kinh doanh và quản trị” (1994) đã bàn tới những khía
cạnh khác nhau của giao tiếp của nhà quản trị doanh nghiệp. Theo tác giả, trong giao tiếp đàm
phán, nhà quản trị doanh nghiệp cần có một số kĩ thuật cụ thể như sau: “Biết cách tạo ra thiện
cảm ban đầu với người đối thoại: phải chú ý đến khung cảnh giao tiếp, sạch sẽ, trang nhã, tạo
cảm giác thoáng mát về mùa hè, ấm về mùa đơng. Trang phục lịch sự, khơng lịe loẹt, theo đúng
vai xã hội mình ăn mặc. Lời chào, giới thiệu trân trọng, cái bắt tay, sự nâng li trong buổi đầu
tiếp xúc để tỏ sự trân trọng với hạn hàng. Cần hiểu biết những cách nói tế nhị theo theo phong
tục người nước ngồi... Cách bố trí chỗ ngồi trong giao tiếp thảo luận đàm phán: nguyên tắc hai
hên nhìn được nhau, nghe được nhau... ” .
• Hồng Thị Anh trong cuốn “Kĩ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên”, luận án PTS tâm
lí học sư phạm đã nêu ra các kĩ năng giao tiếp sư phạm sau:
1. Nhóm kĩ năng định hướng giao tiếp
Nhận thấy sự thay đổi trạng thái tâm lí qua nét mặt, ánh mắt
Nhận thấy sự thay đổi trạng thái tâm lí qua lời nói
Phán đốn nhanh được ý định của đối phương

Biết chuyển từ tri giác bên ngồi đến xác định tính độc đáo của nhân cách
Phán đốn nhanh chóng thái độ thái độ của đối tượng đối với mình
2. Nhóm kĩ năng định vị (kĩ năng điều khiển bản thân)
13


Biết chủ động đề xuất giao tiếp theo mục đích của mình
Biết tự kiềm chế
Biết thay đổi nét mặt khi cần
Biết thay đổi giọng nói (nghi ngờ, ra lệnh, tin tưởng...)
Biết kết thúc giao tiếp hợp lí
3. Nhóm kĩ năng điều khiển đối phương
Biết hướng đối tượng theo ý mình để đạt mục đích giao tiếp
Biết kích thích hứng thú học tập của học sinh trên lớp
Biết kích thích sáng tạo của học sinh
Biết làm giảm căng thẳng trong giao tiếp
Mỗi tác giả có những cách gọi khác nhau như phương pháp, kĩ thuật, kĩ năng giao tiếp,
nhưng tóm lại kĩ năng giao tiếp là hệ thống những thao tác, hành động giúp cho chủ thể tiến hành
giao tiếp đạt kết qủa tối ưu trong một loại hình giao tiếp nhất định. Kĩ năng giao tiếp là biểu hiện
của năng lực giao tiếp, gắn với kết quả hoạt động giao tiếp.
Kĩ năng giao tiếp gắn với từng loại hình giao tiếp cụ thể. Loại hình giao tiếp nào sẽ có
những kĩ năng giao tiếp tương ứng, phù hợp.
Kĩ năng giao tiếp phụ thuộc vào mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp và tính chất từng
cuộc giao tiếp.
Có nhiều cách phân loại kĩ năng giao tiếp khác nhau, tùy thuộc vào căn cứ phân loại .
Kĩ năng giao tiếp là những thao tác mà chủ thể tiến hành trong quá trình giao tiếp, vì vậy
chúng có thể hình thành, rèn luyện được, có thể kiểm tra, đánh giá được.
1.2. Giao tiếp cộng đồng của ngưòi dân tộc Êđê
1.2.1. Giao tiếp
1.2.1.1. Khái niệm

Giao tiếp là một hiện tượng tâm lí phức tạp bao gồm nhiều mặt, nhiều cấp độ khác nhau.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về giao tiếp, mỗi định nghĩa đều được dựa trên một quan điểm
riêng và cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất khi định nghĩa về giao tiếp.
Theo K.K. Platonov: “Giao tiếp là những mối liên hệ có ý thức của con người trong cộng
đồng loài người”.

14


Theo la.L.Kolominxki: "Giao tiếp là sự tác động qua lại có đối tượng thơng tin giữa con
người với con người, trong đó những quan hệ nhân cách được thực hiện, bộc lộ và hình thành"
Theo B.D.Darưghin: “Giao tiếp là qúa trình tác động lẫn nhau, trao đổi thơng tin ảnh
hưởng lẫn nhau, hiểu biết và nhận thức lẫn nhau”
Theo L.P.Lueva: “Giao tiếp khơng chỉ là một q trình tinh thân, mà cịn là qúa trình vật
chất, q trình xã hội, trong đó diễn ra sự trao đổi hoạt động, kinh nghiệm và sản phẩm của hoạt
động”
A.A.Leonchiev đưa ra định nghĩa: “Giao tiếp là một hệ thống những qúa trình có mục đích
và động cơ đảm bảo sự tương tác giữa người này với người khác trong hoạt động tập thể, thực
hiện các quan hệ xã hội và nhân cách, các quan hệ tâm lí và sử dụng các phương tiện đặc thù,
mà trước hêt là ngôn ngữ”.
Giao tiếp được biểu hiện như là hình thức đặc biệt của hoạt động con người, giao tiếp và
hoạt động là hai mặt tổn tại của con người. Hoạt động diễn ra trên nền của giao tiếp và giao tiếp
thực hiện một hoạt động nhất định.
Giao tiếp biểu hiện các mặt sau:
• Mối quan hệ giữa người với người
• Sự tiếp xúc về mặt tâm lí
• Có sự trao đổi thơng tin, tình cảm và tác động, điều chỉnh lẫn nhau.
A.Ph.Lomov trong cuốn “Những vấn đề giao tiếp trong tâm lí học" coi giao liếp là phạm
trù cơ bản của tâm lí học hiện đại và định nghĩa: Giao tiếp là mối quan hệ tác động qua lại giữa
con người, với tư cách là chủ thể.

Tác giả Ngơ Cơng Hồn đã khái qt sáu hướng định nghĩa giao tiếp của các tác giả trong
và ngoài nước và đưa đến khái niệm giao tiếp: “Giao tiếp là qúa trình tiếp xúc giữa con người
với con người nhằm mục đích trao đổi tư tưởng, tình cảm, vốn sống, kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp”
+ Theo hướng tâm lí học đại cương: GS Phạm Minh Hạc định nghĩa: “Giao tiếp là hoạt
động xác lập và vận hành các quan hệ người - người để hiện thực hóa các quan hệ xã hội”
+ Theo hướng tâm lí trị liệu, Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện định nghĩa: “Giao tiếp là sự trao
đổi giữa người với người thông qua ngôn ngữ nói, viêt, cử chỉ”
+ Theo hướng nhân cách bệnh, V.N. Miaxixev cho rằng: “Giao tiếp là một quá trình quan
hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các nhân cách cụ thể”, theo ông, giao tiếp chỉ được thực hiện
15


trong các quan hệ xã hội; trong giao tiếp con người không chỉ bộc lộ thái độ đối với mọi người
mà cịn với chính mình, nhờ vậy các nhà tâm lí chuẩn đốn được các bệnh nhân cách khác nhau
để chữa trị.
+ Theo hướng tâm lí học xã hội, nhà tâm lí học xã hội Nga Parưghin định nghĩa: “Giao tiếp
là một quá trình quan hệ tác động giữa các cá thể, là q trình thơng tin quan hệ giữa con người
với con người, là quá trình hiểu biết lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và trao đổi cảm xúc lẫn
nhau”.
+ Theo hướng điều khiển học, thông tin, Georgen Thiner định nghĩa: “Giao tiếp là sự truyền
đạt thông tin, qua đó các trạng thái của hệ thống phát thơng tin phát huy ảnh hưởng tới trạng
thái của hệ nhận thông tin”
+ Theo hướng tâm lí học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn định nghĩa “Giao tiếp là sự tiếp
xúc tâm lí giữa người và người, thơng qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, cảm xúc,
tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau Nói cách khác: giao tiếp xác lập và vận
hành các quan hệ người - người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể
khác”.
Nguyễn Thạc và Hồng Anh cho rằng giao tiếp có bốn dấu hiệu cơ bản:
• Giao tiếp được thể hiện ở sự trao đổi thông tin, sự hiểu biết lẫn nhau, sự rung cảm và ảnh
hưởng lẫn nhau.

• Giao tiếp là một hiện tượng đặc thù của con người, nghĩa là chỉ riêng con người mới có
giao tiếp thật sự khi sử dụng phương tiện ngơn ngữ (nói, viết, hình ảnh, nghệ thuật...) và được
thực hiện chỉ trong xã hội lồi người.
• Giao tiếp là cách thể hiện mối quan hệ với một hay nhiều người khác, trên cơ sở các quan
hệ kinh tế, chính trị của xã hội.
• Giao tiếp dựa trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau giữa người với người.
Trên cơ sở các dấu hiệu đó, hai tác giả trên đã định nghĩa giao tiếp như sau: “Giao tiếp là
hình thức đặc trưng cho mối quan hệ giữa con người với con người, qua đó nảy sinh sự tiếp xúc
tâm lí, được biểu hiện ở các qúa trình thơng tin, hiểu biết, rung cảm, ảnh hưởng và tác động qua
lại lẫn nhau”
Từ những định nghĩa trên đây về giao tiếp, chúng tôi rút ra những đặc điểm chung
của giao tiếp:
16


• Giao tiếp là một hoạt động chung giữa con người với con người, trong đó diễn ra sự tiếp
xúc tâm lí giữa chủ thể và chủ thể. Mỗi người vừa là chủ thể của quá trình giao tiếp, vừa là đối
tượng của q trình đó.
• Giao tiếp như một q trình trao đổi thơng tin, tác động qua lại
• Trong quá trình giao tiếp, con người thưởng sử dụng các phương tiện ngơn ngữ và phi
ngơn ngữ
• Kết quả của giao tiếp là xác lập được mối quan hệ nhất định giữa hai chủ thể giao tiếp.
Nói tóm lại, giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lí tạo nên giữa hai hay nhiều người với nhau, chứa
đựng một nội dung xã hội - lịch sử nhất định, có chức năng tác động, hỗ trợ lẫn nhau: thông báo,
điều khiển, nhận thức, hành động và tình cảm... nhằm thực hiện mục đích nhất định của một hoạt
động nhất định.
Giao tiếp được điều chỉnh bởi các yếu tố có liên quan đến sản xuất, buôn bán, học tập, các
nhu cầu xã hội và do tập quán của từng địa phương, từng dân tộc, do chuẩn mực đạo đức... quy
định
=> Căn cứ vào đặc điểm, tính cách người dân tộc Ê đê và vào mục đích nghiên cứu

của mình, chúng tơi sử dụng khái niệm giao tiếp của nhà tâm lí học B. Parưghin:
Giao tiếp là quá trình quan hệ, tác động qua lại giữa các cá thê: là q trình thơng tin quan
hệ giữa con người với con người, qúa trình hiểu biết lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và trao đổi
cảm xúc lẫn nhau.
1.2.1.2. Đặc trưng cơ bản của giao tiếp
Các quan hệ người - người được thể hiện trong sự giao tiếp. Giao tiếp có mặt trong mọi
hoạt động của con người. Trong hoạt động, người ta hình thành và phát triển động cơ, mục đích,
ước vọng, sự say mê, tình cảm..., vì chính trong tình cảm, con người phải xác định được quan hệ
giữa nhóm người này với nhóm người kia, thậm chí cả thế hệ trước với thế hệ sau. Do đó, giao
tiếp là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển tâm lí người.
Giao tiếp là hoạt động xác lập và vận hành các quan hệ người - người để thực hiện hóa các
quan hệ xã hội giữa các hoạt động của nó. Các quan hệ này có thể diễn ra giữa hai hay nhiều
nhân cách.
Về phương diện nhận thức, giao tiếp là một qúa trình mà con người ý thức được mục đích,
nội dung và những phương tiện cần thiết để đạt được kết quả khi tiếp xúc với người khác (ngay
17


cả quá trình giao tiếp giữa mẹ và con khi đứa trẻ chưa có ý thức thì người mẹ đã có ý thức về
điều đó, cịn đối với người lớn thì cả hai chủ thể giao tiếp đều ý thức được những nội dung và
diễn biến tâm lí của mình trong giao tiếp, vì giao tiếp là một quá trình có ý thức, nhằm tới một
mục đích cụ thể và do chủ thể giao tiếp chủ động tiến hành.
Giao tiếp dù với mục đích gì chẳng nữa cũng đều diễn ra dưới dạng sự trao đổi thơng tin,
tư tưởng, tình cảm, thế giới quan và nhân sinh quan, nhu cầu... của những người tham gia vào
quá trình giao tiếp. Nhờ đặc trưng này mà mỗi người tự hồn thiện mình theo yêu cầu đòi hỏi
của nghề nghiệp, của các quan hệ xã hội mà họ là thành viên tích cực. Những phẩm chất tâm lí,
hành vi ứng xử của con người được nảy sinh và phát triển theo mẫu người lí tưởng mà mỗi người
phấn đấu vươn lên. Cũng chính nhờ đặc trưng này mà q trình xã hội hóa mới thực chất hòa
nhập mỗi cá nhân vào các hoạt động của nhóm, cộng đồng dân tộc, địa phương...
Giao tiếp là một biểu hiện của quan hệ xã hội, mang tính chất xã hội. Quan hệ xã hội được

thực hiện trong giao tiếp giữa con người với con người. Con người vừa là thành viên tích cực
của các quan hệ xã hội, tạo dựng nên các quan hệ xã hội như pháp quyền, kinh tế, văn hóa... vừa
phải hoạt động tích cực cho sự tổn tại và phát triển của chính các quan hệ xã hội đó.
Giao tiếp cá nhân có nội dung xã hội cụ thể được thực hiện trong hoàn cảnh xã hội nhất
định: nghĩa là, giao tiếp được tiến hành trong một thời gian, không gian và các điều kiện cụ thể.
Giao tiếp giữa các thế hệ qua hệ thống tín hiệu thứ hai (ngơn ngữ) mang tính chất lịch sử phát
triển xã hội lồi người.
Tính chất xã hội trong giao tiếp thể hiện ở chức năng giao tiếp phục vụ các nhu cầu xã hội
hay của một nhóm người. Từ thời cổ xưa, khi cùng khiêng một vật nặng, người ta đã cùng hò
nhau để điều khiển, động viên lẫn nhau.
Chức năng này của giao tiếp gọi là chức năng nối mạng (tiếp xúc) với người khác, với
nhóm, tập thể... nối mạng được với nhóm, con người sẽ có quan hệ nhóm, rồi từ đó có hứng thú
chung và quan hệ này trở thành quan hệ thực, đảm bảo sự tổn tại của nhóm, tập thể..., lúc đó con
người coi mình là nhóm, nhóm là mình. Nếu quyền lợi trong nhóm, tập thể khơng đồng nhất kéo
theo sự đối lập và giao tiếp trong nhóm (nhóm tự phát) cũng không đồng nhất, dẫn đến sự khác
biệt về hứng thú, tình cảm, mục đích, động cơ...
Giao tiếp dù ở loại hình nào, với nội dung nào cũng đều do cá nhân thực hiện. Trong giao
tiếp, cá nhân vừa là chủ thể, vừa là khách thể. B. Plômôv cho rằng các đặc thù của hoạt động
18


giao tiếp khác với loại hoạt động có đối tượng khác, vì nó là hoạt động diễn ra sự tác động giữa
chủ thể với chủ thể.
Giao tiếp là một hoạt động rất phức tạp, là đối tượng của nhiều khoa học: ngơn ngữ học,
lí thuyết thơng tin, tâm lí học xã hội. Giao tiếp là quá trình tiếp xúc giữa con người với con người
nhằm mục đích trao đổi thơng tin, tư tưởng, tình cảm, vốn kinh nghiệm...
Giao tiếp của con người không chỉ xảy ra trong hiện tại mà bao gồm cả quá khứ và tương
lai. Giao tiếp mang tính kế thừa, chọn lựa những gì q khứ đã trải qua thông qua các phương
tiện ngôn ngữ, các phương tiện kĩ thuật nhằm ghi chép, giữ gìn những di sản văn hóa tinh thần,
vật chất, các cơng cụ sản xuất.

Giao tiếp tạo điều kiện phát triển không chỉ nhân cách cá nhân mà còn là tiền đề cho sự
phát triển của xã hội, cộng đồng, dân tộc.
1.2.1.3. Mơ hình và cấu trúc của giao tiếp
Giao tiếp là một quá trình phức tạp, được tạo nên bởi các bộ phận cấu thành có liên hệ mật
thiết với nhau. Các thành tố đó được sắp xếp theo một hệ thống và tạo nên những mơ hình giao
tiếp nhất định. Theo tác giả Trần Trọng Thủy, mặc dù có nhiều cách mơ tả về hành vi giao tiếp
nhưng nhìn chung có 3 mơ hình cơ bản:
• Mơ hình tun tính về giao tiếp: theo mơ hình này, người nói mã hóa một thông điệp và
gửi tới người nghe, thông qua một hay nhiều kênh giác quan. Người nghe sau đó tiếp nhận, giải
mã thơng điệp này. Mơ hình này có tính chất một chiều.
• Mơ hình tác động qua lại về giao tiếp: nguồn mã hóa thơng điệp và gửi tới người nhận
thông qua một hay nhiều kênh giác quan. Người nhận tiếp nhận và giải mã thơng điệp, sau đó
gửi lại thơng điệp (mà hóa lại) tới nguồn phát. Mơ hình này là q trình hai chiều, khép kín.
• Mơ hình giao dịch về giao tiếp: theo mơ hình này, giao tiếp là một sự giao dịch mà trong
đó người phát và người nhận đóng những vai trị có thể hốn đổi được cho nhau trong suốt hoạt
động giao tiếp, do vậy khơng dễ dàng xây dựng một mơ hình rõ ràng, dứt khốt của q trình.
Q trình giao tiếp bao gồm các thành tố cơ bản: người giao tiếp, nguồn và thơng điệp. Q
trình giao tiếp chỉ bắt đầu khi người giao tiếp - nguồn bị kích thích một cách có ý thức hay khơng
có ý thức; xuất hiện nhu cầu gửi thơng tin đi, sau khi đã dùng trí nhớ để tìm ra thứ “tiếng” thích
hợp đề mã hóa thơng điệp.
• Kênh: khi giao tiếp, thơng điệp được mã hóa và chuyển tài thơng qua một hay nhiều kênh
19


• Phản hồi: ngay sau khi hiểu được nội dung thơng điệp, người nhận trả lời gọi là phản hồi
(có thể là một phản ứng ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ)
• Tiếng ồn: là tất cả các trở ngại bên trong hoặc bên ngồi gây cản trở cho q trình giao
tiếp.
• Người nhận thơng điệp giao tiếp: sau khi tiếp nhận được các tín hiệu ngơn ngữ hay phi
ngơn ngữ, người nhận sẽ xử lý, giải mã và có phản ứng trả lời thích hợp.

• Mơi trường giao tiếp: là các yếu tố về khơng gian, thời gian trong đó diễn ra cuộc tiếp
xúc.
1.2.1.4. Vai trò và chức năng của giao tiếp
Nhiều tác giả xuất phát từ những nghiên cứu của mình đưa ra những nhận định khác nhau
A.N.Leonchiev đánh giá rất cao vai trò của giao tiếp trong sự hình thành nhân cách trẻ em.
ơng nói: sự hoạt động của trẻ em bao giờ cũng nằm trong giao tiếp. Giao tiếp dưới hình thức
cùng nhau hoạt động, hoặc dưới hình thức giao tiếp ngơn ngữ, giao tiếp trong ý nghĩ cũng đều là
điều kiện tất yếu và chuyên biệt của sự phát triển con người trong xã hội.
Phạm Minh Hạc đã phân chia các chức năng giao tiếp thành hai nhóm:
* Nhóm các chức năng thuần túy xã hội, bao gồm các chức năng giao tiếp phục vụ các nhu
cầu chung của xã hội hay một nhóm người để điều khiển và tác động lẫn nhau.
* Nhóm các chức năng tâm lí xã hội là các chức năng giao tiếp phục vụ các nhu cầu của
từng thành viên của xã hội với người khác. Chức năng này của giao tiếp gọi là chức năng nối
mạch (tiếp xúc) với người khác, tạo nên các quan hệ nhóm, có mục đích chung, chương trình
hoạt động chung.
Nhìn chung, giao tiếp có những chức năng cơ bản sau:
* Chức năng hoạt động phối hợp cùng nhau: trong giao tiếp, con người có thể phối hợp hoạt
động cùng nhau để giải quyết một nhiệm vụ nào đó, nhằm đạt tới một mục tiêu nhất định. Trong
giao tiếp, mỗi chủ thể đều có những mục tiêu riêng của mình nhưng đều hướng về một mục tiêu
chung nhất định.
* Chức năng thông tin: qua giao tiếp, con người trao đổi, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm
với nhau. Mỗi cá nhân vừa là nguồn phát thông tin nhưng cũng là nguồn tiếp nhận thông tin.

20


* Chức năng xúc cảm: trong giao tiếp, chủ thể biểu lộ thái độ, tâm trạng của mình đối với
một vấn đề nào đó. Cùng từ giao tiếp, con người hình thành nên những rung cảm nhất định, do
vậy, giao tiếp là một trong những con đường hình thành tình cảm con người.
* Chức năng nhận thức lẫn nhau và đánh giá lẫn nhau: trong giao tiếp, mỗi cá nhân tự bộc

lộ quan điểm, tư tưởng, thói quen của mình, đó cùng là cơ sở để người khác đánh giá nhận xét.
Đồng thời, chính bản thân chủ thể đó cũng được đánh giá lại bởi chính đối tượng mà mình đang
đánh giá.
* Chức năng điều chỉnh hành vi: thông qua giao tiếp, cá nhân có thể điều chỉnh hành vi của
mình và của đối tượng giao tiếp (tác động đến động cơ, mục đích, q trình ra quyết định và hành
động của đối phương).
1.2.2. Giao tiếp cộng đồng
1.2.2.1. Cộng đồng
Cộng đồng là danh từ dùng để chỉ một tập thể, tổ chức, cá nhân có mối quan hệ trực tiếp
hay gián tiếp với một tập thể, tổ chức, cá nhân khác. Cộng đồng có quan hệ lợi ích và có ảnh
hưởng hoặc nhiều hoặc ít, hiện thực hay tiềm ẩn đối với mục tiêu, sự tổn tại, phát triển của tổ
chức hay cá nhân trong cộng đồng.
Tâm lý học xã hội cho rằng cộng đồng không phải là các cá nhân riêng lẻ mà là một tập
hợp các cá nhân có ý thức tập thể. Giữa các cá nhân có khuynh hướng cộng đồng nào đó như
mục tiêu, nhu cầu, hứng thú, ý thức, thái độ và tâm lý, văn hóa chung thì sẽ gắn bó các cá nhân
lại. Ngoại diên của cộng đồng rất rộng: vừa có thể là các cá nhân riêng lẻ có quan hệ tổ chức
hoặc đoàn thể thể xã hội hay các tổ chức xã hội như: đơn vị hành chính, ngành nghề, cơ quan...các
tổ chức và đồn thể khác nhau có cộng đồng khác nhau. Cộng đồng của mỗi tổ chức hoặc của
mỗi đoàn thể là một cộng đồng có quan hệ xã hội đa nguyên và tập thể, có cá thể, tập thể, tổ
chức.
Hình thái của cộng đồng: cộng đồng lưu động, cộng đồng liên hệ tạm thời, cộng đồng ổn
định, cộng đồng có tổ chức. Quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng là sự thể hiện cụ thể tính xã hội
của con người.

21


1.2.2.2. Giao tiếp cộng đồng
Giao tiếp cộng đông là hoạt động giao lưu tinh thần và giao lưu vật chất, xác định và vận
hành các mối quan hệ tâm lý trực tiếp hoặc gián tiếp giữa người với người, được phát sinh và

phát triển nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định.
Quan hệ giao tiếp cộng đồng là một mặt của quan hệ xã hội, phạm vi rất rộng, bao gồm:
quan hệ vợ chồng, cha mẹ và con, quan hệ bạn học, thầy trò, đồng nghiệp...Quan hệ giao tiếp
cộng đồng chịu sự ràng buộc của quan hệ chính trị và quan hệ tầng cấp trong quan hệ xã hội.
Đồng thời, quan hệ giao tiếp cộng đồng thẩm thấu vào các phương diện của quan hệ xã hội, có
vai trị quan trọng trực tiếp đến sự lớn, nhỏ của quần thể, sự tốt xấu của mơi trường tâm lý.
Sự hình thành quan hệ giao tiếp cộng đồng bao hàm vai trò của 3 yếu tố tâm lý: sự hiểu
biết, tình cảm và hành vi:
• Thành phần hiểu biết bao gồm sự hiểu biết về người khác và về bản thân mình, là kết quả
của tri giác giao tiếp
• Thành phần tình cảm chỉ mức độ tốt xấu về tinh thần, về mức độ hài lòng, hiện trạng giao
tiếp giữa hai bên, ngồi ra cịn bao gồm tính nhạy cảm về tinh thần và thái độ đánh giá sự thành
cơng của mình và người khác.
• Thành phần hành vi bao gồm kết quả hoạt động, thái độ biểu cảm, ám hiệu của hoạt động
và cử chỉ; tất cả lượng chất có thể dự tính và ghi lại của ngơn ngữ.
Trong ba yếu tố trên, yếu tố tình cảm đóng vai trị chủ đạo, quyết định mức độ thân mật,
nông sâu và ổn định của quan hệ giao tiếp cộng đồng. Thông thưởng, trong quan hệ tổ chức chính
thức, thành phần hành vi là thành phần chủ đạo để điều tiết quan hệ giao tiếp cộng đồng, cịn
trong quan hệ phi chính thức thì thành phần tình cảm đảm nhận chức năng điều tiết là chủ yếu.
Vai trò của giao tiếp cộng đồng
+ Sự phát triển tiến hóa của cá nhân và xã hội có được là do sự giao tiếp với đồng loại.
Bản năng thúc đẩy mọi người kết hợp với nhau tạo nên nhóm bạn, hiệp hội và cộng đồng, khơng
có những kết hợp đó mọi người khó tồn tại và nhân cách của cá nhân không phát triển được
+ Giao tiếp cộng đồng và tuổi thọ. Nhiều cứ liệu khoa học cho thấy người giao tiếp nhiều
thưởng sống lâu hơn. Người có những giao tiếp mới với thế giới bên ngồi thì não bộ người đó
cũng thực hiện những kết nối mới. Điều này giúp con người luôn trẻ trung và linh hoạt. Trong
cuộc điều tra nghiên cứu tại Alamela County năm 1979, Bác sĩ Lisa Berkman thuộc Harvard
22



School of Health Sciences và cộng sự đã tiến hành khảo sát 7000 người tuổi từ 35 đến 65 trong
9 năm. Nghiên cứu của họ đã đưa ra kết luận: những người thiếu mối dây ràng buộc với xã hội
và cộng đồng có nguy cơ chết vì bệnh tật cao hơn gấp 3 lần so với những người có nhiều giao
tiếp xã hội, cộng đồng (điều này không liên quan đến địa vị xã hội - kinh tế và thói quen liên
quan đến sức khỏe như hút thuốc lá, uống nhiều rượu, bia...)
+ Giao tiếp cộng đồng và sự hợp tác. Trong giao tiếp cộng đồng nếu tạo được mối quan hệ
tốt đẹp thì đối tác sẽ dành thời gian và nỗ lực của họ cho quan hệ với bản thân. Quan hệ cộng
đồng tốt đẹp bao nhiêu thì mức độ hợp tác càng cao bấy nhiêu
+ Giao tiếp cộng đồng và sự an bình. Trong giao tiếp cộng đồng, mọi người cần có nhau.
Có những lợi ích chung trong cộng đồng nên mọi người chăm lo lẫn nhau. Một cộng đồng liên
kết nhau sẽ đem lại cho mọi thành viên thể lực và sự an bình, từ đó mọi người lại dốc năng lực
vào việc phát triển xã hội, văn hóa và tinh thần...
Các chức năng của giao tiếp cộng đồng
Trong tâm lí học, người ta chia chức năng giao tiếp cộng đồng thành 2 nhóm:
• Nhóm thứ nhất: Chức năng thuần túy xã hội: là chức năng giao tiếp phục vụ các nhu cầu
xã hội của cộng đồng, bao gồm:
• Chức năng thơng tin, tổ chức. Trong hoạt động chung, người này giao tiếp với người kia
để thông báo cho nhau những thông tin để hiểu biết nhau hoặc để giúp cho hoạt động của tổ chức
thực hiện có hiệu quả
• Chức năng điểu khiển. Chức năng này thể hiện trong khía cạnh tác động lẫn nhau của giao
tiếp. Trong giao tiếp, người ta dùng những phương pháp tác động tên nhau như: ám thị, thuyết
phục, áp lực nhóm... để điều khiển người khác
• Chức năng phối hợp hành động. Trong một cộng đồng, tổ chức có nhiều bộ phận với các
chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Để cho cộng đồng, tổ chức hoạt động một cách thống nhất,
đồng bộ thì các bộ phận, các thành viên trong cộng đồng, tổ chức cần phải giao tiếp với nhau để
phối hợp hành động có hiệu quả.
• Chức năng động viên kích thích. Trong q trình giao tiếp cộng đồng, con người không
chỉ truyền thông tin cho nhau hay tác động điều khiển lẫn nhau mà còn tạo ra những cảm xúc
kích thích hành động của nhau.


23


• Nhóm thứ hai: Các chức năng tâm lí xã hội: là các chức năng giao tiếp cộng đông phục
vụ nhu câu của từng thành viên của xã hội, bao gơm:
• Chức năng tạo lập mối quan hệ. Đối với mỗi con người, trong trạng thái cô đơn cô lập
với những người xung quanh là một trong những trạng thái đáng sợ nhất. Giao tiếp cộng đồng
giúp con người tạo ra các mối quan hệ với mọi người
• Chức năng cân bằng cảm xúc. Mỗi con người đơi khi có những cảm xúc cần được bộc lộ
sự sung sướng hay đau khổ, hy vọng hay thất vọng, niềm vui hay nỗi buồn đều muốn người khác
chia sẻ. Chỉ có trong giao tiếp cộng đồng, mọi người mới tìm được sự đồng cảm, cảm thông và
giải tỏa được cảm xúc của mình.
• Chức năng phát triển nhân cách. Trong giao tiếp cộng đồng, con người lĩnh hội được kinh
nghiệm xã hội, tâm hồn con người trở nên phong phú, tri thức sâu sắc, tình cảm và thế giới quan
được hình thành, củng cố và phát triển. Thông qua giao tiếp cộng đồng, những tiêu chuẩn đạo
đức cũng như tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ, tính nguyên tắc, tính vị tha, tính trung thực. Khơng
chỉ được thể hiện mà cịn hình thành được ở mọi người. Cũng thông qua giao tiếp cộng đồng,
con người học hỏi được cách đánh giá hành vi và thái độ, nhận biết được chính mình để hồn
thiện các phẩm chất nhân cách của bản thân.
Các hình thức giao tiếp cộng đồng
• Giao tiếp trực tiếp là loại hình giao tiếp thơng dụng nhất trong mọi hoạt động của con
người, trong đó, các đối tượng của giao tiếp trực tiếp gặp gỡ nhau, sử dụng ngơn ngữ nói, ngôn
ngữ cơ thể để truyền cho nhau những ý nghĩ và tình cảm của nhau. Đây là hình thức giao tiếp
hiệu quả nhất, bởi vì trong các tình huống mặt đối mặt, nhờ có những thơng tin khơng bằng lời
đi kèm mà thơng tin thiếu chính xác hay hiểu sai thơng tin sẽ được điều chỉnh kịp thời trong q
trình giao tiếp. Điển hình của hình thức này là các cuộc phỏng vấn, đàm thoại trực tiếp, các cuộc
hội đàm song phương, các cuộc hội nghị...
• Giao tiếp gián tiếp là giao tiếp thông qua một phương tiện trung gian như thư từ, sách
báo, điện thoại, vơ tuyến truyền hình, fax, internet... đây là hình thức giao tiếp kém hiệu quả hơn
vì sự phản hồi thơng tin rất chậm, nhất là hình thức giao tiếp bằng văn bản. Hơn nữa, hình thức

giao tiếp gián tiếp rất ít được hỗ trợ bằng phương tiện phi ngơn ngữ, vì vậy các đối tác có thể
khơng hiểu hết những khía cạnh khác của thông tin.
Các phưong tiện giao tiếp cộng đồng
24


• Giao tiếp bằng ngôn ngữ
Khái niệm ngữ ngôn và ngôn ngữ
Ngữ ngôn là một hệ thống các dấu hiệu, là một thứ tiếng như tiếng Anh, tiếng Pháp..., nó
tồn tại một cách khách quan trong đời sống tinh thần của xã hội và là sản phẩm của một nền văn
hóa nhất định. Ngữ ngơn là đối tượng nghiên cứu của mơn ngữ ngơn học, nó bao gồm hai thành
phần là từ vựng và cú pháp, hai phạm trù là ngữ pháp và logic, hai loại hình là tiếng nói và chữ
viết
Ngơn ngữ là q trình mỗi cá nhân sử dụng một thứ tiếng (ngữ ngôn) cụ thể để trao đổi
thơng tin, tâm tư, tình cảm, kinh nghiệm... với nhau.
Ngơn ngữ hình thành trong đời sống của mỗi cá nhân nên có tính chủ thể rõ nét. Ngơn ngữ
của mỗi người rất khác nhau về cách phát âm, sử dụng từ và ngữ pháp.
Có hai loại ngơn ngữ: ngơn ngữ bên ngồi và ngơn ngữ bên trong.
Ngơn ngữ bên ngồi là ngơn ngữ hướng vê người khác, có hai loại:
• Ngôn ngữ đối thoại là ngôn ngữ sử dụng khi hai người trực tiếp đối mặt. Vai trò chủ thể
giao tiếp ln ln thay đổi.
• Ngơn ngữ độc thoại là loại ngơn ngữ phát đi một chiều mà khơng có chiều ngược lại.
Ngôn ngữ bên trong là ngôn ngữ cho mình, hướng vào mình, khơng phát lên thành tiếng,
nhờ đó mà con người có thể tư duy được. Ngơn ngữ bên trong có vai trị rất quan trọng vì nó là
phưong tiện của hoạt động nhận thức, là phương tiện điều chỉnh tình cảm và ý chí của con người,
và là phương tiện để con người tự giáo dục bản thân.
Phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nhằm hai mục tiêu cơ bản: đạt sự hiểu biết về
nhau tốt nhất và đạt mục tiêu giao tiếp cộng đồng mong muốn.
Ngôn ngữ thực hiện ba chức năng khi giao tiếp: thông báo - diễn cảm - tác động. Chức
năng tác động tùy thuộc vào hiệu quả của hai chức năng thông báo và diễn cảm

Sự lựa chọn ngôn ngữ trong giao tiếp cộng đồng phụ thuộc vào các yếu tố:
* Quan hệ vai giữa người đối thoại dựa trên ba bản thức:
A = B (hai người ngang hàng)
A > B (A trên B về mọi mặt)
A < B (A dưới B về mọi mặt)
* Đạo lý` của người Việt Nam trong giao tiếp theo quan hệ vai:
25


×