LỜI NÓI ĐẦU
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ kính yêu của cả dân
tộc Việt Nam: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) thì phải có những con
người xã hội chủ nghĩa (XHCN)”. Người nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi cơng
việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Điều đó có
nghĩa là: Cán bộ và cơng tác cán bộ có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự
nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, đối với sự trưởng thành và hoạt động của
Đảng. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dày công đào tạo, huấn
luyện, xây dựng được một đội ngũ cán bộ tận tụy, kiên cường, trung với nước, hiếu
với dân; dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Bác, của Đảng đã cùng dân tộc đoàn kết
một lòng, đưa Cách mạng nước ta đi từ Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX đã ban hành Nghị quyết về đổi mới nâng cao chất lượng hệ
thống chính trị xã, phường, thị trấn. Nghị quyết đã nhấn mạnh vai trị đội ngũ cán
bộ, cơng chức và đề ra một loạt chủ trương, biện pháp xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Quán triệt
quan điểm của Đảng, năm 2008 Quốc hội đã ban hành Luật cán bộ, cơng chức.
Trong hệ thống hành chính 04 cấp của Nhà nước ta, cấp xã là đơn vị hành chính ở
cơ sở. Đội ngũ cán bộ, cơng chức trong hệ thống cấp xã có vai trị hết sức quan
trọng thực hiện chức năng làm cầu nối giữa Đảng với nhân dân, giữa cơng dân với
Nhà nước. Do tính chất công việc cuẩ cấp xã đội ngũ cán bộ, công chức vừa giải
quyết những công việc hàng ngày, vừa quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của cấp
trên, lại tổng kết tình hình thực tiễn tại cơ sở để từ đó giúp Đảng ủy, Chính quyền
đề ra kế hoạch, chủ trương, biện pháp đúng đắn, thiết thực, phù hợp với thực tiễn
tại cơ sở.
Trong cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước hiện nay, Đảng ta luôn quan tâm
xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm địi hỏi của tình hình, nhiệm vụ, trong đó có
đội ngũ cán bộ, cơng chức trong hệ thống chính trị cấp xã. Dưới sự lãnh đạo của
Ban Thường vụ Huyện ủy, HĐND và UBND huyện C, công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức hệ thống chính trị cấp xã đã quán triệt sâu sắc đường lối, quan
điểm của Đảng, Chỉ thị, Nghị quyết của các cấp, vận dụng đúng đắn, phù hợp với
đặc điểm tình hình, nhiệm vụ của từng cơ sở. Nhờ đó, đã góp phần nâng cao phẩm
chất chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực và hiệu quả công tác của đội ngũ cán
bộ, cơng chức trong hệ thống chính trị cấp xã, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã về số lượng, cơ cấu ngày càng hợp lý, chất lượng được nâng cao.
Tuy nhiên, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức trong hệ thống chính
trị cấp xã trên địa bàn huyện C cũng đang gặp không ít khó khăn, bất cập. Chất
lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức có những mặt cịn hạn chế, yếu kém. Phẩm chất
đạo đức, lối sống, năng lực, lãnh đạo, quản lý kinh tế- xã hội củ một bộ phận cán
bộ, công chức ở cấp xã chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh của tình hình nhiệm
vụ. Tình hình đó đã và đang trực tiếp đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức trong hệ thống chính trị cấp xã trên địa bàn
huyện C.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn và nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh D
đặt ra trong kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (nhiệm kỳ 2020 - 2025) cùng với
sự hướng dẫn của thầy ……………. - Tỉnh ủy viên, Hiệu trưởng Trường Chính trị
tỉnh………; sau 01 tháng học tập, nghiên cứu chương trình QLNN ngạch chun
viên chính tơi chọn đề tài: Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở làm Tiểu luận cuối
khóa, mục đích nghiên cứu đề tài này là nhằm đề xuất một số ý kiến cá nhân trong
việc xây dựng một đội ngũ cán bộ công chức đạt chuẩn, đáp ứng yêu cầu công tác
và xứng đáng là chỗ dựa vững chắc cho nhân dân.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu Nhà trường, các thầy, cô giáo, thầy
………….- Tỉnh ủy viên, Hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh đã giúp đỡ tơi hồn
thành tiểu luận, các cán bộ phụ trách trong nhà trường đã tạo mọi điều kiện trong
việc học tập… để cá nhân tôi cũng như tất cả các anh, chị học viên khác hồn
thành tốt khóa học này. Tuy nhiên, bài tiểu luận khơng tránh khỏi những hạn chế và
thiếu sót, rất mong được sự góp ý của các thầy, cơ và đồng nghiệp giúp tơi có thêm
các kiến thức và kinh nghiệm để vận dụng đầy đủ các kiến thức đã tiếp thu vào q
trình cơng tác của bản thân.
I. MƠ TẢ TÌNH HUỐNG
Đồng chí NGUYỄN VĂN A, sinh năm 1980 là Đảng ủy viên, Chủ tịch Hội
Nông dân của xã B, huyện C, tỉnh D, có trình độ các mặt như sau:
- Trình độ học vấn: 9/12.
- Trình độ chun mơn: Trung cấp.
- Trình độ lý luận chính trị: Sơ cấp.
Hiện là cán bộ cấp xã, trong quá trình cơng tác đồng chí rất tận tình với cơng
việc, tinh thần trách nhiệm cao ln hồn thành mọi cơng việc được giao. Tuy
nhiên, những kinh nghiệm gắn bó trong ngành lâu năm cùng với kiến thức chuyên
môn cũng không giúp đồng chí nắm bắt kịp thời những biến chuyển trong nền kinh
tế thị trường đang mở cửa và những biến đổi từng ngày của xã hội.
Xã E là một xã cịn rất khó khăn; xuất phát điểm về kinh tế cịn thấp, phát
triển khơng đồng đều; dân cư thưa thớt, tình hình chính trị và bộ máy chính quyền
cơ sở hoạt động chưa thật sự ổn định và vững chắc, đồng bào dân tộc thiểu số
chiếm hơn 95% dân số của tồn xã. Chính vì vậy để đời sống của nhân dân được
ổn định, kinh tế - xã hội phát triển, thực hiện đúng chủ trương đường lối của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước, địi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
phát huy hết năng lực, có sức khỏe, kiến thức chun mơn sâu rộng hòa nhập vào
sự phát triển chung của cả nước.
Trong quá trình phối hợp triển khai và thực hiện chương trình 135 của Chính
phủ, đồng chí cũng đã đi sâu nghiên cứu tìm hiểu những quy định, đối tượng áp
dụng. Nhưng đối với tình hình chung của xã B, là một xã khó khăn, đồng bào dân
tộc thiểu số hơn 95% dân số, tập tục canh tác lạc hậu, lao động thủ cơng, đời sống
cịn gặp rất nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp. Việc triển khai chương trình địi
hỏi phải có sự thơng suốt về các phong tục, tập quán của người dân, áp dụng và
chuyển giao khoa học công nghệ trong chăn nuôi và sản xuất phải đúng tiến trình,
hiện đại và địi hỏi sự tìm tịi nghiên cứu, am hiểu sâu rộng. Ở đây tơi muốn nói
đến mục tiêu cụ thể trong các hợp phần thuộc Chương trình 135 giai đoạn II đó là:
Hỗ trợ phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ sản
xuất, mục tiêu này địi hỏi người dân phải:
- Tăng hiểu biết về các mơ hình sản xuất nông nghiệp khác nhau để tạo thu
nhập.
- Hiểu rõ hơn cách thức tiếp thị các sản phẩm nông nghiệp.
- Thay đổi thái độ làm việc cùng nhau vì lợi ích chung.
* Phía cán bộ trực tiếp triển khai chương trình phải:
- Biết cách tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp theo
hướng thị trường cho nông dân nghèo và dân tộc thiểu số tại địa phương.
- Biết cách phân tích thị trường địa phương để khuyến khích các cơ hội phù
hợp cho nông dân nghèo.
* Mục tiêu tổng thể của nội dung này là:
- Thúc đẩy phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ
sản xuất để xóa đói, giảm nghèo và làm giàu.
- Các phương thức sử dụng hiệu quả đầu tư giúp đồng bào vươn lên thoát
nghèo.
- Những kinh nghiệm của các chương trình, dự án đã và đang thực hiện trên
địa bàn nhằm phát huy tối đa hiệu quả đầu tư của chương trình.
- Phát huy nội lực, huy động sự tham gia và nâng cao trách nhiệm của người
dân và cộng đồng trong việc thực hiện dự án.
Chính những mục tiêu cụ thể này cho thấy, ông Nguyễn Văn A ngồi những
kinh nghiệm cơng tác lâu năm, sự tín nhiệm của người dân, có tinh thần trách
nhiệm cao thì cần phải có những u cầu cần và đủ khác nữa như: theo dõi biến
động của thị trường, hướng người dân nên trồng cây gì, ni con gì cho phù hợp
với xu thế chung của thị trường… để đáp ứng những mục tiêu mà Chương trình đặt
ra. Nếu những dự đốn và khả năng áp dụng khoa học cơng nghệ của ông Nguyễn
Văn A không đủ những tiêu chuẩn đặt ra thì địi hỏi chúng ta cần phải có những
định hướng đúng hơn trong việc lựa chọn và sử dụng đội ngũ cán bộ công chức cấp
xã.
II. XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Để giải quyết hiệu quả tình huống trên, các địa phương cần chủ động xây
dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp xã trong cả nhiệm kỳ. Bên
cạnh đó, cần gắn bồi dưỡng về chính trị - chun mơn với giáo dục phẩm chất, ý
thức tinh thần trách nhiệm của cán bộ cấp cơ sở. Đồng thời, tăng cường hợp tác để
huy động tổng hợp các nguồn lực, sự hỗ trợ, giúp đỡ của các tổ chức, các doanh
nghiệp cho sự việc phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn các xã, thơn, bản đặc biệt
khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Cán bộ đủ tiêu chuẩn mới có thể đề ra đường lối và chủ trương chính sách
đúng, có đường lối đúng, chủ trương chính sách đúng mới có thể tạo ra đội ngũ cán
bộ tốt, có cán bộ tốt sẽ biến chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước thành hiện thực.
Người cán bộ cách mạng ngoài phẩm chất đạo đức tốt, đồng thời phải có
năng lực tương ứng với nhiệm vụ được giao. Chất lượng của người cán bộ tốt hay
xấu phụ thuộc vào phẩm chất đạo đức và năng lực cơng tác của người cán bộ đó ra
sao. Người cán bộ có tài mà thiếu đức thường gây ra những tai hại khó lường,
ngược lại có đạo đức mà khơng có tài thì như ơng bụt ngồi trong chùa. Hồ Chí
Minh cho rằng: Năng lực của người cán bộ khơng phải hồn tồn do tự nhiên mà
có, một phần lớn do cơng tác, do tập luyện mà có.
Năng lực của người cán bộ bao gồm năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức
thực hiện. Muốn có được năng lực đó người cán bộ phải chịu khó học tập lý luận
Mác- Lênin để có thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dạy: Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về Chủ nghĩa Mác- Lênin mà
tổng kết những khinh nghiệm của Đảng ta, có như thế ta mới hiểu được quy luật
phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối phương châm,
bước đi cụ thể của xã hội chủ nghĩa phù hợp với tình hình nước ta. Như thế là phải
học tập lý luận, phải nâng cao trình độ lý luận chung của Đảng, trước hết là cán
bộ cốt cán của Đảng.
Người thường nhắc nhở cán bộ phải có phong cách làm việc khoa học mà
muốn có phong cách làm việc khoa học thì phải chống bệnh chủ quan, tác phong
quan liêu, chống cách làm việc theo lối bàn giấy, ngồi một nơi chỉ tay năm ngón
khơng chịu xuống cơ sở. Người cán bộ phải quan tâm, gần gũi và hiểu biết quần
chúng, tôn trọng và học hỏi quần chúng bởi vì cán bộ là người đem các chủ trương
chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước của đồn thể chính trị để thi hành
trong nhân dân. Nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng khơng thể thực hiện được.
Khi nhận xét về Đảng ta có lần Hồ Chí Minh cho rằng: Đảng ta có rất nhiều ưu
điểm trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, tuy nhiên Đảng ta cũng có
nhược điểm mà nhược điểm lớn nhất là đội ngũ cán bộ Đảng còn hạn chế về lý
luận. Vì vậy, Hồ Chí Minh địi hỏi cán bộ không ngừng nâng cao lý luận, trên cơ
sở đó nắm vững phương pháp, tìm ra giải pháp tính đa dạng của các vấn đề do
cuộc sống đặt ra, xác định con đường tối ưu để khắc phục khó khăn và loại trừ
thiếu sót, có phẩm chất đạo đức trong sáng, hiểu biết sâu rộng các vấn đề không
chỉ là cơ sở tạo nên uy tín mà cịn là những tiêu chí để mỗi cán bộ phấn đấu và
vươn lên ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng. Do đó, mỗi cán bộ phải tự rèn luyện
phấn đấu vươn lên, nâng cao hơn nữa phẩm chất đạo đức và năng lực của mình.
Trở lại với tình huống, ơng Nguyễn Văn A, Đảng ủy viên, Chủ tịch Hội
Nông dân của xã, theo Điều 12 về bầu cử cán bộ chuyên trách cấp xã quy định:
Việc bầu cử cán bộ chuyên trách cấp xã của Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân
dân thực hiện theo Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và ủy ban nhân dân.
Việc bầu cử cán bộ chuyên trách cấp xã trong tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội thực hiện theo điều lệ của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội.
Ơng Nguyễn Văn A đã được sự tín nhiệm của nhân dân và đảm nhiệm chức
danh Chủ tịch Hội Nông dân, được nhân dân yêu mến do sự tận tụy với công việc,
thái độ tiếp xúc với dân rất hòa nhã và chuẩn mực, những nhân tố trên đã chiếm
được lịng tin u của nhân dân.
Đó là xét về phương diện dân chủ và công khai đảm nhiệm chức danh. Thực
hiện đúng quy định của luật bầu cử các chức danh chuyên trách.
Nhưng khi chúng ta xét ở góc độ năng lực cơng việc và khả năng cơng tác
thì ơng Nguyễn Văn A có những hạn chế, bất cập mà trong tình huống này đưa ra
cho chúng ta những vấn đề cần giải quyết. Phải làm rõ được vấn đề mà tình huống
đặt ra cụ thể là ơng Nguyễn Văn A đã gặp một số khó khăn trong q trình cơng
tác. Chương trình 135 địi hỏi cán bộ phải nắm vững về chuyên môn, chuyển giao
khoa học công nghệ, nắm vững thị trường, nhưng ông Nguyễn Văn A đã khơng
đáp ứng đủ các u cầu đó, một số chỉ tiêu mà tôi muốn đặt ra ở đây là:
Phải đánh giá lại trình độ chun mơn của ông Nguyễn Văn A.
Phía quản lý cán bộ và cấp lãnh đạo phải xem lại việc quy hoạch và đào tạo
cán bộ.
Áp dụng các quan điểm của Lênin: “Lựa chọn nhân tài là một vấn đề cơ
bản của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội” và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về sử dụng cán bộ để sử dụng và lựa chọn cán bộ đạt hiệu quả cao. Khéo lãnh đạo
là nhân tố, là lực đẩy đánh thức tiềm năng sáng tạo, năng lực đội ngũ cán bộ có vai
trị đẩy mạnh cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Do đó việc xây dựng, đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở hiện nay giữ một vị trí quan trọng trong chiến lược
cán bộ của Đảng ta, là vấn đề vừa có tính cấp bách trước mắt vừa có tính cơ bản
lâu dài để lựa chọn sự nghiệp cách mạng nước ta vững bước tiến lên.
III. PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
Đây là một thực tế mà xã hội đang quan tâm nhiều, là vấn đề tế nhị đụng
chạm đến quyền lợi con người trong xã hội. Do đó, giải quyết vấn đề sao cho thấu
tình, đạt lý là điều kiện hết sức khó khăn, vừa là trách nhiệm của cơ quan tham
mưu, vừa là cá nhân đề xuất, vừa là nguyên tắc, quy định, quy chế làm sao đảm
bảo đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
Nghị định Chính phủ và các văn bản của cơ quan Trung ương, đảm bảo phù hợp
với thực tế địa phương, nhất là tỉnh ta là tỉnh Tây nguyên có nhiều đồng bào dân
tộc thiểu số cùng sinh sống, đặc biệt người dân tộc thiểu số tại chỗ.
Pháp lệnh cán bộ công chức ra đời, Nghị định của Chính phủ và các Thơng
tư của bộ ngành Trung ương hướng dẫn đã phần nào giải quyết được những bất cập
của việc tuyển dụng, quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ công chức trong thời kỳ
đổi mới của đất nước, tạo cơ hội việc làm cho nhiều người có nhu cầu việc làm,
nhiều người có trình độ học vấn cao được tự mình thấy cần đóng góp trí tuệ vào cơ
quan nhà nước ở lĩnh vực, cơ quan chuyên môn nào phù hợp. Đã phần nào thấy
được cải cách hành chính của nước ta nói chung, cải cách hành chính ở lĩnh vực
này nói riêng có phần thực hiện được dân chủ, gắn bộ máy trong sạch, gắn với đấu
tranh chống tham nhũng, xây dựng nền hành chính vững mạnh, chuyên nghiệp
hiện đại, chính quy và có tính khoa học. Song bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại khơng ít
những hạn chế đáng chú ý và lo ngại cần khắc phục.
1. Nguyên nhân:
Trước hết là sự ban hành các Quyết định quy phạm pháp luật của các cơ
quan nhà nước cấp trên còn chậm, dẫn đến địa phương lúng túng, bế tắc.
Trong thực tế các quy trình áp dụng các Nghị định, Quy định của Nhà nước
cịn máy móc, chưa hợp lý hóa với thực tiễn địa phương.
Chính quyền địa phương và cơ quan quản lý còn do dự, nể nang, chưa thật
sự mạnh dạn áp dụng và thực hiện đúng với các quy định của Nhà nước, chưa có
nhiều kinh nghiệm ở lĩnh vực này nên bước đầu thực hiện còn lúng túng, khơng có
điều kiện học hỏi cũng như kinh nghiệm từ Trung ương đến các tỉnh bạn. Nhiều
khi làm đón đầu, đi tắc có lợi trước mắt sau đó sửa đổi dần dần.
Trong công tác cán bộ, một phần nào đó vẫn cịn mang nặng tính bảo thủ,
một số cán bộ cơng chức có tư tưởng và nhận thức cịn hạn chế vì sợ đụng chạm
đến lợi ích cá nhân cũng như đụng chạm đến lợi ích riêng cho cá nhân người khác
mà khơng cùng góp sức làm thành một cuộc cách mạng lớn này.
Công tác tuyên truyền sâu rộng đến toàn thể nhân dân trong đổi mới cải cách
hành chính nói chung và cải cách hành chính lĩnh vực tuyển dụng, quản lý cán bộ
cơng chức nói riêng ở mọi lúc mọi nơi còn thiếu và yếu.
Về chủ trương, đường lối từ trên xuống dưới đã rõ ràng, nhất quán và đồng
bộ, nhưng nhận thức về vấn đề này ở một bộ phận cơ sở địa phương còn yếu kém,
bảo thủ, sợ mất phần cá nhân liên quan trong quy định.
2. Hậu quả:
Tình huống này là một đặc trưng của những bất cập trong việc lựa chọn, sử
dụng và đào tạo cán bộ công chức, nhất là đội ngũ cán bộ công chức ở cơ sở là
những người trực tiếp triển khai các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước.
Những nguyên nhân trên khơng giải quyết một cách có hệ thống và chặt chẽ,
chính quyền địa phương cũng như cơ quan chức năng không mạnh dạn thực thi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình thì dẫn đến bộ máy chính quyền hoạt động thiếu
hiệu quả, khơng đồng bộ.
Hậu quả cốt lõi của tình huống nêu trên nếu khơng được giải quyết sẽ dẫn
đến sự trì trệ của cơng việc và khơng có hiệu quả. Nếu ơng Nguyễn Văn A cứ tiếp
tục đảm nhiệm vai trị mà khơng được trau dồi kiến thức dần dần ơng sẽ khơng cịn
hứng thú với công việc, tạo ra một sức ỳ với công việc, giải quyết qua loa không
đúng mục tiêu của cơng việc được giao như Chương trình 135 đặt ra.
Phía nhân dân tuy đã có một q trình lâu dài tín nhiệm và tin tưởng ơng
Nguyễn Văn A, nhưng Chương trình 135 địi hỏi ơng Nguyễn Văn A phải có kiến
thức khoa học để phối hợp chuyển giao công nghệ, xóa bỏ dần những tập tục canh
tác lạc hậu khơng mang lại năng suất và hiệu quả cho người dân, nhạy bén với thị
trường. Ơng Nguyễn Văn A đã khơng thể làm được những việc đó dần dần người
dân sẽ khơng tin tưởng vào ơng với vai trị là Chủ tịch Hội Nơng dân của xã E.
Đó là những hậu quả thực tại của xã E nói riêng, cịn xét ở phương diện rộng
hơn là đối với hệ thống cán bộ cơng chức cơ sở, sẽ cịn bao nhiêu trường hợp
tương tự như ông Nguyễn Văn A nếu chúng ta khơng quan tâm và giải quyết vấn
đề cịn tồn đọng này.
Xã E là một xã cịn khó khăn về nhiều mặt và đồng bào dân tộc thiểu số
chiếm hơn 95% dân số, việc áp dụng triển khai các chương trình 134, 135, các
chương trình xóa đói giảm nghèo, phổ cập giáo dục và các chương trình khác của
Chính phủ trước hết địi hỏi chính quyền cơ sở phải quan tâm đúng mức, chặt chẽ.
Đội ngũ cán bộ cơ sở ngoài việc bám sát dân còn phải trau dồi kiến thức, bồi
dưỡng lý luận chính trị, am hiểu phong tục, tập quán của cộng đồng dân cư trên địa
bàn công tác… có như thế thì kinh tế mới ổn định và phát triển, đời sống người dân
mới được nâng cao về vật chất và tinh thần. Có được sự tin yêu của dân là sức
mạnh to lớn với đội ngũ cán bộ công chức, là động lực thúc đẩy sự tiến bộ cả về tư
duy và phẩm chất của người cán bộ như lời Bác dạy cán bộ là công bộc của nhân
dân.
Và theo hướng ngược lại người cán bộ có trình độ chun môn, phẩm chất
đạo đức công việc phù hợp với năng lực, có tư duy và sáng tạo sẽ được nhân dân
tín nhiệm. Qua đó người dân cũng tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao.
IV. XÂY DỰNG CÁC PHƯƠNG ÁN VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN GIẢI
QUYẾT VẦN ĐỀ
Qua phân tích và đánh giá các ngun nhân, hậu quả của tình huống nêu
trên, tơi đề xuất các phương án như sau:
1. Phương án thứ nhất:
Hiện nay đội ngũ cán bộ công chức cấp cơ sở cịn thiếu khá nhiều, chất
lượng đội ngũ cán bộ cơng chức cơ sở thực tế vẫn chưa cao, mặt bằng trình độ văn
hóa, trình độ chun mơn nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý Nhà nước, ngoại
ngữ, tin học cũng như kỹ năng và phương pháp vận dụng kiến thức, lý luận đã học
vào thực tiễn công tác của đội ngũ cán bộ cơng chức cơ sở vẫn cịn thấp, chưa đáp
ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Đặc biệt tình trạng cán bộ cơng chức cơ sở là
người dân tộc kinh công tác ở địa bàn vùng dân tộc thiểu số nhưng chưa am tường
tiếng nói, phong tục, tập quán của người dân tộc thiểu số vẫn cịn tồn tại khá phổ
biến.
* Phương án này có những ưu điểm và hạn chế sau:
Ưu điểm: Là phương án mà nhà nước đang tích cực đầu tư nhằm khắc phục
và phù hợp với các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, cán bộ cơng chức phải
có trình độ chuyên môn và không ngừng được trau dồi, bổ sung kiến thức phục vụ
tốt cho cơng tác mình đang phụ trách.
Đào tạo luôn phù hợp với tất cả cán bộ công chức, không phân biệt chức
năng, nhiệm vụ, bất cứ cán bộ công chức nào cũng đều phải cần học tập.
Khi cán bộ công chức được đào tạo và quan tâm đúng mức, sẽ có được một
đội ngũ cán bộ cơng chức có trình độ chun mơn hóa, ở trường hợp ơng Nguyễn
Văn A là cán bộ trẻ tuổi, có phẩm chất đạo đức, lý luận chính trị kiên định và vững
vàng khi được đào tạo sẽ nâng cao trình độ và cống hiến cho đất nước tốt hơn.
Hạn chế: Để công tác đào tạo đạt hiệu quả cần rất nhiều nhân tố; ngân sách;
đội ngũ cán bộ giảng viên đủ về số lượng và tốt về chất lượng.
Việc lập danh sách cần phải chính xác và chương trình giảng dạy phải đáp
ứng được yêu cầu khả năng công tác, các kiến thức phải được áp dụng một cách
thật sự có hiệu quả phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương, phù hợp với
nhịp sống và xu thế chung của xã hội.
2 . Phương án thứ hai:
Rà soát lại đội ngũ cán bộ công chức ở cơ sở trong huyện về trình độ chun
mơn, độ tuổi, khả năng công tác nhằm sắp xếp hợp lý nhân lực phù hợp với khả
năng công tác để đạt được kết quả tốt nhất. Tạo điều kiện cho cán bộ công chức
tiếp cận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, sử dụng đúng người, đúng việc, vào
đúng vị trí. Căn cứ vào các Nghị định của Chính phủ: Nghị định số 121/2003/NĐCP; Nghị định số 92/2009/NĐ-CP; Nghị định số 112/2011/NĐ-CP; Nghị định số
34/2019/NĐ-CP của Chính phủ...để sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ phù hợp với
công việc và khả năng công tác, kịp thời sớm giải quyết những bất cập, tồn đọng
góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác quản lý nhà nước của cơ quan.
Ông Nguyễn Văn A là Đảng ủy viên, Chủ tịch Hội nông dân của xã nhưng
không đủ khả để phối hợp thực hiện Chương trình 135 của Chính phủ nên các cấp
có thẩm quyền sắp xếp ơng Nguyễn Văn A vào vị trí cơng tác, chức danh phù hợp
với độ tuổi và khả năng, sở trường công tác của ông Nguyễn Văn A.
* Phương án này có những ưu điểm và hạn chế sau:
Ưu điểm: Phương pháp này phù hợp với tình hình kinh tế của địa phương,
khơng địi hỏi phải trích ngân sách của xã.
Chỉ cần áp dụng đúng quy định vào việc sắp xếp, thuyên chuyển cán bộ.
Giúp đội ngũ cán bộ cơng chức cấp xã trẻ tuổi có thể cơng tác phù hợp với sở
trường và trình độ chun mơn, khơng bị gị bó trong khn khổ cơng việc mà cán
bộ cơng chức khơng cịn đủ khả năng phụ trách.
Hạn chế: Đây là vấn đề tế nhị, tuy cán bộ công chức đã được chuyển sang
công tác ở lĩnh vực hợp lý hơn, nhưng từ chức danh chuyên trách để chuyển sang
một chức danh khác thì chính sách về tiền lương và các khoản trợ cấp khác có còn
ngang bằng hoặc cao hơn hay thấp hơn so với bậc lương , hệ số lương của chức
danh cũ.
Để phương án này giải quyết tốt các vấn đề nêu trên đòi hỏi bản thân người
cán bộ phải thực sự kiên định, chấp hành tốt quy định của pháp luật, đòi hỏi phải vì
mục tiêu chung, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng văn minh. Phải
giáo dục vấn đề tư tưởng cho cán bộ công chức biết chấp nhận và khơng nản chí
với năng lực của mình, từ chức danh Chủ tịch Hội nông dân chuyển sang chức
danh khác, tâm lý ông Nguyễn Văn A sẽ bị đè nặng bởi dư luận, tư tưởng cho rằng
mình yếu kém, khơng có tương lai để phát triển nghề nghiệp.
3. Phương án thứ ba:
Kết hợp cả phương án 1 và phương án 2, tức là thuyên chuyển công tác gắn
với việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ công chức.
* Phương án này có những ưu điểm và hạn chế sau:
Ưu điểm: Tùy vào khả năng, sở trường công tác để có biện pháp giải quyết
khoa học và hợp lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức đầy đủ về
số lượng. Như vậy sẽ đạt được hiệu quả cao nhất.
Người cán bộ sẽ phát huy khả năng vào cơng việc mà trình độ chun mơn,
sự hiểu biết của họ phù hợp, khi biện pháp đào tạo thật sự có chất lượng ơng
Nguyễn Văn A vẫn giữ ngun vị trí cơng tác cũ, vẫn được sự tín nhiệm của nhân
dân, chuyên môn và những yêu cầu về khoa học cơng nghệ, khả năng phân tích thị
trường sẽ phần nào được cải thiện.
Hạn chế: Việc đánh giá cán bộ cơng chức gặp nhiều khó khăn, cần có sự
mạnh dạn và xác thực.
4. Lựa chọn phương án giải quyết:
Qua phân tích, đánh giá những ưu điểm cũng như hạn chế của các
phương án nêu trên, có thể thấy rằng, mỗi phương án có một ưu thế riêng và hạn
chế nhất định; là tình huống mang tính pháp lý cao, mang tính nhạy cảm, do vậy có
rất nhiều phương án để lựa chọn. Vấn đề ở đây là người quản lý đưa ra phương án
mang tính hợp tình, hợp lý cao và được các bên liên quan ủng hộ và kế hoạch giải
quyết theo phương án đó sao cho có hiệu quả.
Qua ba phương án đã phân tích ở trên, thì tơi thấy phương án thứ 3 mang
tính khả thi cao và phù hợp với tình hình thực tế trong giai đoạn hiện nay. Qua đó,
giúp chúng ta giải quyết được vấn đề mà cần phải giải quyết; và tôi quyết định
chọn phương án 3 là phương án tối ưu; nhằm đáp ứng được nhu cầu thực tiễn trong
tình hình hiện nay.
Qua đó, tạo sự ổn định, kế thừa và phát triển đội ngũ cán bộ, nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động trong tình hình thực tế của cán bộ cơng chức cấp cơ sở
nói chung và xã E nói riêng.
V. KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN ĐƯỢC LỰA
CHỌN
Sự ra đời của Chương trình 135 đã thể hiện chủ trương, đường lối nhất quán
của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo,
chăm lo đời sống nhân dân, bảo đảm tiến bộ công bằng xã hội ở vùng dân tộc thiểu
số và miền núi.
Với mục tiêu nâng cao nhanh đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các
dân tộc ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa; tạo điều kiện để
đưa nông thôn các vùng này thốt khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát
triển, hòa nhập vào sự phát triển chung của cả nước; góp phần bảo đảm trật tự an
tồn xã hội, an ninh quốc phòng.
Để thực hiện tốt, đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả về việc tuyển dụng và sử
dụng quản lý cán bộ công chức cấp xã và các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn
thi hành; cần phải tổ chức tốt các trình tự thực hiện sau đây:
- Cơ quan tham mưu cho UBND tỉnh về lĩnh vực nội vụ phải chủ động
nghiên cứu, tổng hợp ý kiến tham gia đóng góp xây dựng của các cấp, các ngành
để hoàn thiện và củng cố đội ngũ cán bộ cơng chức cấp xã, có những chính sách
phù hợp hơn.
- Các cơ quan, đơn vị, cơ sở, cá nhân cán bộ, công chức phải xác định việc
chọn cử cán bộ công chức đi đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ, kiến thức,
năng lực cơng tác, chuẩn hóa tiêu chuẩn chức danh quy định là một trong những
nhiệm vụ chính trị quan trọng cần phải tích cực, chủ động, quyết tâm, nỗ lực phấn
đấu thực hiện.
- Các cơ quan, đơn vị, cơ sở phải chọn cử cán bộ công chức đi học trên cơ sở
chức trách, nhiệm vụ công tác đang đảm nhận hoặc quy hoạch sẽ đảm nhận; phải
sắp xếp thời gian, bố trí cơng việc hợp lý, chọn cử cán bộ công chức đúng chỉ tiêu,
tiến độ quy định.
KẾT LUẬN
Tình huống trên là một vấn đề tiêu biểu, là một sự bất cập trong lĩnh vực
quản lý của ngành. Đội ngũ cán bộ công chức cấp xã là bộ phận quan trọng trong
việc triển khai các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đòi
hỏi sự quan tâm sâu sắc của các cấp, các ngành và chính quyền địa phương. Có
như vậy dân mới giàu, xã hội công bằng dân chủ và văn minh.
Những giải pháp nêu trên nếu được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện
thì sẽ góp phần làm cho q trình đánh giá cán bộ, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
điều động, bố trí, sử dụng cán bộ ở cơ sở nói chung, thực sự là một q trình tạo ra
chất mới và sự phát triển toàn diện trong mỗi con người cán bộ Đảng, chính quyền,
đồn thể cấp cơ sở góp phần nhiều hơn nữa vào sự nghiệp Cơng nghiệp hóa - Hiện
đại hóa đất nước hiện nay.
Tơi lựa chọn đề tài này với hy vọng đề tài góp phần nào đó trong cơng tác
xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ngày càng hiệu quả hơn, đáp ứng với yêu cầu
nhiệm vụ mới chuẩn bị Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII của Đảng. Do kiến thức và thời gian chuẩn bị có hạn, tài liệu tham
khảo khơng nhiều nên chắc chắn tiểu luận không tránh khỏi những tồn tại, thiếu
sót.
Kính mong Q thầy, cơ giáo và đồng nghiệp đóng góp ý kiến.
Xin chân thành cảm ơn!
KIẾN NGHỊ
1. Đối với Trung ương:
- Nghiên cứu ban hành các chính sách cụ thể hơn trong đội ngũ cán bộ xã,
phường, thị trấn, để chế độ tiền lương có thể đảm bảo cuộc sống, an tâm cơng tác,
cống hiến hết sức mình cho đất nước. Đồng thời, cần có chính sách đặc thù để thu
hút đội ngũ cán bộ trẻ có trình độ cao về công tác ở cơ sở, nhất là đối với vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Cần tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ công chức cấp xã, phường, thị trấn. Thống nhất, đồng bộ, cơng bằng
chế độ chính sách cho người dạy và người học trong cả nước, chú ý đến vùng
miền, đối tượng có tính đặc thù.
2. Đối với tỉnh:
Đội ngũ cán bộ cấp xã hiện nay phần lớn trưởng thành từ quần chúng, có
thực tiễn sáng tạo trong cơng tác. Tuy nhiên, về mặt trình độ học vấn, chun mơn
nghiệp vụ cịn hạn chế; trong khi đó hằng năm số sinh viên các trường Đại học,
Cao đẳng ra trường chưa có cơng ăn việc làm hoặc được sắp xếp công việc không
theo đúng chuyên môn nghiệp vụ. Bởi vậy, sau khi ra trường khơng ít sinh viên đã
đi tỉnh khác để tìm kiếm cơng ăn việc làm. Tỉnh cần xây dựng chính sách thu hút
nhân tài về cho cấp xã để khơng lãng phí chất xám của xã hội và có nguồn cán bộ
thay thế số cán bộ cơ sở không đủ điều kiện tiếp tục cơng tác.
Tỉnh nên có chủ trương cùng Trường Chính trị tỉnh đào tạo cán bộ xã,
phường, thị trấn theo từng chức danh, có phân biệt theo vùng, miền với nội dung
phù hợp.
3. Đối với huyện:
Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy phải thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở
và hướng dẫn cơ sở xây dựng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đồng thời,
tăng cường cơ sở vật chất cho việc dạy và học, gắn lý luận với thực tiễn đáp ứng
yêu cầu đào tạo của các cơ sở và có giải pháp chỉ đạo các xã, thị trấn xây dựng và
quản lý đào tạo đúng hướng có hiệu quả.
Trung tâm Bồi dưỡng chính trị của huyện cần tiếp tục có những đổi mới về
kế hoạch đào tạo sao cho sát, hợp với tình hình thực tế của địa phương cơ sở, đổi
mới chương trình đào tạo, đặc biệt là chương trình đào tạo xã, thị trấn là người dân
tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị định số 112/2011/NĐ-CP, ngày 05/12/2011của Chính phủ về cơng
chức xã, phường, thị trấn.
2. Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức
danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ cơng chức ở xã, phường,
thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
3. Nghị định số 34/2019/NĐ-CP, ngày 24/4/2019 của Chính phủ về sửa đổi,
bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố.
4. Nghị quyết số 39/NQ/TW, ngày 17/4/2015 về tinh giản biên chế và cơ
cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
5. Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
6. Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV, ngày 16/11/2004 của Bộ trưởng Bộ Nội
vụ về việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn.
7. Luật công chức hiện hành.
8. Trường Chính trị tỉnh D - Tài liệu bồi dưỡng về quản lý Nhà nước chương
trình chun viên chính.
NHẬN XÉT CỦA GIÁM KHẢO
………………………………………………………………………………………
…..…………………………………………………….…..
………………………………...………………………………………………..
………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………..
….................................................................................................................................
.....
………………………………………………………………………………...
………...…………………………………………………….…………………..
………………...………………………………………………………………...
………………………...………………………………………………..……….
………………………………....………………………………………………...
………………………………………..
…………………………………….............................................................................
.....
…………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………
Giám khảo 1
Giám khảo 2