NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
ĐÔI ĐIỀU VỀ XUNG ĐỘT
VÀ THỂ CHẾ HÓA XUNG ĐỘT
T
Trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây nói chung, ở nước ta nói riêng, khái niệm xung đột
xã hội hầu như không xuất hiện một cách chính thức. Mọi vấn đề có liên quan thường được xem
xét dưới các khái niệm “mâu thuẫn”, “đấu tranh”. Cách tiếp cận giản đơn này đã làm cho việc
nhìn nhận và giải quyết tranh chấp, xung đột không mấy hiệu quả, thậm chí phức tạp hơn. Thực
tiễn địi hỏi phải có một hướng tiếp cận khách quan, khoa học để nhận diện, lý giải đúng bản chất
và tìm ra giải pháp xử lý các tranh chấp, xung đột một cách thích hợp.
Bài viết nhận diện và lý giải nguyên nhân, cũng như đề xuất một số giải pháp cho vấn đề này.
uy ln song hành và góp phần
làm nên lịch sử lồi người,
nhưng chỉ đến thời hiện đại, tính
hiện hữu của xung đột mới được thừa nhận.
Trước thời kỳ Phục Hưng, triết học thường
coi tranh cãi, giao tranh và xung đột là mối
đe dọa đối với hịa bình và đạo đức, gây ra
chiến tranh hoặc sự tan vỡ của cộng đồng.
Do vậy, người ta không cho phép coi tranh
chấp và xung đột là những dạng hiển nhiên,
SỐ 7/2018
n Phạm Xuân Cần
bình thường và chính đáng của hành động. Cùng với
q trình thế tục hóa thời kỳ Phục Hưng, dần dần sự
trói buộc của tơn giáo đối với tư duy, triết học và chính
trị được cởi bỏ, theo đó người ta đã từng bước thừa
nhận sự tồn tại của xung đột.
Những tiền đề của thuyết xung đột được xác lập
bởi N. Macchiavelli - nhà tư tưởng Ý (1469-1527),
Hobber - nhà triết học Anh (1588-1679) và Charles
Darwin - nhà sinh học Anh (1809-1882). Thế nhưng,
những người được coi là đã tạo nên nền tảng kinh điển
Tạp chí
KH-CN Nghệ An
[17]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
cho thuyết xung đột chính là Các Mác nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin (18181883), Marx Weber - nhà xã hội học Đức
(1864-1920) và Georg Simmel - nhà xã hội
học Đức (1858-1918). Trên nền tảng kinh
điển đó, với sự đóng góp lớn của 3 nhà xã
hội học đương đại: Dahrendorf (Đức), Lewis
Corse (Mỹ) và Rapoport (Nga), thuyết xung
đột được hoàn thiện, trở thành một trong
những hình mẫu xã hội học hiện đại. Sự phát
triển của thuyết xung đột được coi là một sự
đáp trả đích đáng đối với thuyết chức năng cấu trúc (còn gọi là thuyết cân bằng) thống
trị xã hội học vào đầu thế kỷ XX. Do đó, có
người cho rằng, lịch sử xã hội học hiện đại
chính là lịch sử của cuộc tranh luận, đối đầu
giữa thuyết xung đột và thuyết chức năng cấu trúc. Điểm khác biệt chủ yếu của thuyết
xung đột so với thuyết chức năng - cấu trúc
chính là trong lúc thuyết chức năng - cấu trúc
không thừa nhận xung đột, coi xung đột là
“sai lệch bệnh hoạn”, thì thuyết xung đột nhấn
mạnh vai trò của xung đột, thừa nhận xung
đột tồn tại khách quan, dưới mọi cấp độ, nhất
là xung đột giữa các cá nhân, các nhóm xã
hội, các giai cấp và giữa các quốc gia.
Thuyết xung đột cho rằng: Đời sống xã
hội dựa trên cơ sở các quyền lợi, do đó
thường nảy sinh sự mâu thuẫn, đối lập vì lợi
ích, từ đó dẫn tới xung đột giữa các nhóm.
Mâu thuẫn và xung đột cũng làm cho các hệ
thống xã hội bị phân hóa và ln có xu
hướng hướng tới sự thay đổi. Ngược lại,
thuyết chức năng - cấu trúc lại cho rằng, đời
sống xã hội dựa trên cơ sở là các chuẩn mực
và giá trị, do đó phụ thuộc nhiều vào sự gắn
kết. Các hệ thống xã hội tồn tại trên cơ sở sự
đồng tình và ln có xu hướng hướng tới sự
ổn định. Khi đánh giá về sự khác biệt giữa
thuyết xung đột và thuyết chức năng - cấu
trúc, Từ điển Bách khoa Việt Nam cho rằng:
“Cả 2 thuyết đều phiến diện nhưng lại bổ
sung cho nhau. Cần nhận thức xung đột xã
hội về cả 2 mặt đồng thời và lịch thời (mặt
đồng thời thì xem xét cấu trúc xã hội, mặt
lịch thời thì xem xét quá trình xã hội). Hai
trạng thái cân bằng và xung đột nằm trong
cùng một quá trình, quan hệ với nhau như
SỐ 7/2018
quan hệ giữa trị và loạn, thường và biến”.
Nhận diện xung đột
Xung đột là một trong những trạng thái thường
xuyên của cuộc sống con người, tồn tại ở mọi cấp độ:
trong gia đình, trong nhóm và giữa các nhóm, trong
xã hội và giữa các xã hội… Tuy nhiên, không phải
xung đột nào cũng được coi là xung đột xã hội, mà chỉ
những xung đột có tính chất xã hội thì mới được coi
là xung đột xã hội. Theo chúng tôi, xung đột xã hội
được xác định là giai đoạn phát triển cao nhất của các
mâu thuẫn trong hệ thống các quan hệ giữa con người
với con người, các tập đoàn xã hội, các thiết chế xã
hội và xã hội nói chung, được đặc trưng bằng sự đối
lập các lợi ích và quan điểm, được biểu hiện bằng các
hành vi đụng độ, xơ xát hữu hình trên thực tế.
Như vậy, xung đột xã hội là một trong những hình
thức cơ bản của sự biến đổi xã hội. Xung đột xã hội
có thể xảy ra giữa cá nhân với cá nhân (khi cá nhân
đó là đại diện cho một lực lượng xã hội nhất định),
giữa nhóm này với nhóm khác, giữa giai cấp này với
giai cấp khác, giữa quốc gia này với quốc gia khác…
Theo đó, suy cho cùng chủ thể của xung đột xã hội
chính là các nhóm xã hội. Mâu thuẫn là nguyên nhân
sâu xa và trực tiếp của xung đột, xung đột là sự thể
hiện mâu thuẫn ở trạng thái cực trị. Trạng thái đó được
biểu hiện dưới các hành vi đụng độ hữu hình trên thực
tế. Xung đột phát sinh và được đẩy lên đỉnh điểm
không chỉ do ý thức của các chủ thể, mà cịn có vai
trị to lớn của các xung vơ thức hoặc có ý thức từ bên
ngồi. Khơng có mâu thuẫn thì khơng có xung đột, tuy
nhiên khơng phải mâu thuẫn nào cũng có thể chuyển
hóa thành xung đột, mâu thuẫn chỉ chuyển hóa thành
xung đột khi đã tích tụ đủ những năng lượng tới hạn.
Cũng chính từ quan điểm về mối quan hệ giữa mâu
thuẫn và xung đột, người ta thường phân chia xung
đột thành xung đột lợi ích và xung đột giá trị. Ở đâu
tích tụ mâu thuẫn về lợi ích (bao gồm cả lợi ích vật
chất và phi vật chất) thì ở đó tiềm tàng nguy cơ xung
đột. Đây là dạng xung đột phổ biến. Bên cạnh đó,
xung đột cịn phát sinh từ các mâu thuẫn về giá trị hay
quan điểm (như xung đột tôn giáo, sắc tộc). Tuy cả hai
dạng xung đột này đều có thể phát triển đến đỉnh cao,
hết sức khốc liệt, nhưng thực tế cho thấy, xung đột giá
trị thường kéo dài, khó xử lý dứt điểm hơn. Ngoài ra,
trên lý thuyết cũng như trong thực tiễn, hai dạng xung
đột này có liên quan mật thiết và có thể chuyển hóa,
nhất là từ xung đột lợi ích trở thành xung đột giá trị.
Tuy nhiên, hiện nay cũng đang có những mưu toan
Tạp chí
KH-CN Nghệ An
[18]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
đánh tráo khái niệm. Học thuyết “Sự đụng
độ giữa các nền văn minh” của nhà báo - học
giả Mỹ S. Huntington là một ví dụ. Theo đó,
những xung đột lợi ích, đấu tranh giai cấp,
đấu tranh giải phóng dân tộc, chống chủ
nghĩa thực dân mới, chống bóc lột hiện nay
được lý giải là xung đột về văn hóa và do
văn hóa. Trong lúc đó, xuất phát từ quan
điểm cho rằng, mâu thuẫn là nguyên nhân
của xung đột, người ta kết luận căn nguyên
sâu xa của xung đột xã hội chính là bất bình
đẳng xã hội.
Nhìn nhận vai trò của xung đột đối với
tiến bộ xã hội chính là nơi mà các nhà lý luận
theo các trường phái khác nhau dễ “xung
đột” với nhau nhất. Những người theo chủ
nghĩa chức năng - cấu trúc luôn nhấn mạnh
đến trạng thái cân bằng của cơ cấu hơn là sự
biến đổi của cơ cấu đó. Vì vậy, họ khơng
thừa nhận xung đột, coi xung đột là sự rối
loạn chức năng, là những “sai lệch bệnh
hoạn”, phá vỡ sự ổn định và liên kết cộng
đồng, nghĩa là tiêu cực. Ngược lại, thuyết
xung đột đánh giá cao vai trò của xung đột,
coi xung đột là người bạn đồng hành tất yếu
của đời sống xã hội. Xung đột đóng vai trị
tích cực, là địn bẩy thúc đẩy, hoặc giúp sửa
chữa những thiếu sót và khẳng định những
thay đổi có tính tiến bộ. Đặc biệt, trong bối
cảnh một xã hội ổn định, xung đột cũng có
những vai trị tích cực đối với sự phát triển
của xã hội. Cụ thể là xung đột có vai trò cảnh
Nhận thức đúng sự tồn tại và vai trò của mâu thuẫn,
xung đột, có cách ứng xử thích hợp sẽ làm cho xã hội
lành mạnh, ổn định, gắn kết và phát triển
SỐ 7/2018
báo xã hội, buộc các nhà cầm quyền phải chú ý và
khắc phục những bất ổn xã hội được xung đột cảnh
báo. Trong một xã hội ổn định, xung đột không những
không phá vỡ cộng đồng, mà ngược lại làm tăng sự cố
kết để ứng phó có hiệu quả hơn với những bất ổn. Về
mặt tâm lý, xung đột góp phần giải tỏa, khơng để tích
tụ sự căng thẳng thái quá. Tuy nhiên, dù theo thuyết
nào thì người ta cũng phải thừa nhận: Về khía cạnh xã
hội học, xung đột thường là tập hợp những hành vi
lệch chuẩn, vượt quá khuôn khổ của pháp luật, luôn
chứa đựng nguy cơ đe dọa sự ổn định xã hội và an
ninh trật tự. Do đó, xung đột nói chung nằm ngồi
mong đợi của các nhà nước - chủ thể ln tìm cách
làm cho xã hội ổn định.
Theo quan điểm Mác xít, tuy khơng phải xung đột
nào cũng được xem là động lực của sự tiến bộ, nhưng
cũng phải thừa nhận rằng, bản thân xung đột ở một
khía cạnh nào đó tạo ra một số tác động tích cực, đặc
biệt là sự cảnh báo xã hội một cách nghiêm khắc, tạo
áp lực để giải quyết những vấn đề còn tồn đọng (bất
bình đẳng, thiếu dân chủ, năng lực yếu kém của đội
ngũ cán bộ…). Tuy nhiên, nhìn nhận những tác động
tích cực của xung đột khơng có nghĩa là khuyến khích
xung đột, mà ngược lại, cần phải tìm cách xử lý mâu
thuẫn một cách hợp lý bằng con đường phi xung đột.
Làm được như vậy, một mặt phát huy được vai trò của
xung đột, mặt khác hạn chế được những hậu quả xấu
mà nó có thể mang lại.
Giải pháp xử lý xung đột
Dựa trên những quan điểm khác nhau về bản chất,
nguyên nhân, vai trò của xung đột xã hội, mà người ta
có quan điểm khác nhau về biện pháp, cách thức xử
lý nó.
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi đấu tranh giai cấp dẫn
tới cách mạng xã hội là biện pháp giải quyết xung đột
một cách triệt để nhất. Nhưng, xung đột khơng chỉ
có trong đấu tranh giai cấp, mà cịn tồn tại dưới nhiều
hình thức và cấp độ khác. Những người theo thuyết
xung đột cho rằng, tiền đề của việc xử lý xung đột là
phải thừa nhận sự tồn tại của nó. Trên cơ sở thừa
nhận sự tồn tại của xung đột, việc xử lý nó có thể dẫn
đến một trong hai kết cục. Kiểu kết cục thứ nhất,
được gọi là “tổng số không dành cho hai người”
(zero sym). Theo kiểu này, bao giờ cũng có kẻ thắng
- người thua, hoặc cả hai đều thua (như người ta vẫn
thường nói “một mất, một còn” hoặc “trạng chết,
chúa cũng băng hà”). Kiểu kết cục này được áp dụng
cho các xung đột dựa trên mâu thuẫn đối kháng
Tạp chí
KH-CN Nghệ An
[19]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
khơng thể dung hịa. Trong hầu hết các điều
kiện khác, kiểu kết cục này không được ưa
chuộng. Kiểu kết cục thứ hai là “cả hai đều
thắng” (win-win). Theo đó, cuộc xung đột
được dàn xếp sao cho ít tổn thương nhất và
ai cũng được chia phần thắng lợi, tùy theo
tương quan lực lượng. Đây là mơ hình được
ưa chuộng hiện nay.
Để hướng tới kết cục này, các giải pháp
giải quyết xung đột phải được thiết kế theo
hướng nghiêng về phía điều hịa xung đột là
chủ yếu. Trước hết là thể chế hóa xung đột,
nghĩa là đưa các hình thức xung đột xã hội
vào khn khổ có thể quản lý được bằng
pháp luật. Bằng cách này, có thể giảm được
tính vơ chính phủ và hạn chế tác hại của các
xung vơ thức trong xung đột. Luật biểu tình,
luật đình cơng, luật về tình trạng khẩn cấp…
chính là những cố gắng thể chế hóa xung đột
của các nhà nước. Trong một số trường hợp,
người ta cũng có thể cách ly các bên xung
đột, nhưng chỉ là rất hạn hữu. Giải pháp
được áp dụng rộng rãi là thương lượng và
hòa giải thông qua trung gian (hai bên ngồi
lại với nhau cùng với bên hòa giải - trung
gian - để dàn xếp xung đột theo hướng đi đến
một sự thỏa hiệp nào đó, sao cho cả hai đều
giảm được sự tổn thương). Sự can dự của
bên trung gian có thể ở nhiều mức độ khác
nhau, từ đơn thuần chỉ là người trung gian,
đến vai trò là trọng tài và cao nhất là trọng
tài bắt buộc. Khi đó, phán quyết của bên
trung gian là có tính bắt buộc, thậm chí
cưỡng chế đối với hai bên xung đột. Tuy
nhiên, trên thực tế, điều hịa xung đột là cơng
việc cực kỳ khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải
phối hợp nhiều giải pháp một cách kiên trì
và mềm dẻo.
Một vài kiến nghị
Thừa nhận sự tồn tại, đánh giá đúng vai
trò của mâu thuẫn và xung đột, đồng thời
đảm bảo ổn định chính trị xã hội chính là
định hướng xuyên suốt của việc ngăn ngừa
và xử lý xung đột xã hội. Cần quán triệt
phương châm coi trọng ngăn ngừa không để
phát sinh xung đột, khi xung đột xảy ra thì
phải tìm cách thu nhỏ, khơng để kéo dài, lây
lan. Tuy nhiên, đây không phải là một sự
SỐ 7/2018
thỏa hiệp xã hội vô nguyên tắc, mà là cố gắng giải
quyết sớm và hợp lý các mâu thuẫn bằng con đường
phi xung đột. Trong đó, kiên trì vận động, thương
lượng và quản lý là phương thức chủ yếu để xử lý
mâu thuẫn và xung đột.
Giải pháp ngăn ngừa xung đột xã hội quan trọng
nhất cố nhiên cũng chính là tìm cách quản lý sự phân
tầng xã hội, mà trước hết là sự phân hóa giàu nghèo.
Mặc dù phân hóa giàu nghèo là một tất yếu của nền
kinh tế thị trường, nhưng để giữ ổn định xã hội cần
phải quản lý sự phân hóa này về mức độ phân hóa
(khơng để phân cực thái q), tốc độ phân hóa (khơng
để diễn ra nhanh q), ngun nhân phân hóa, nhất là
chống tham nhũng, hạn chế tối đa sự giàu lên bất chính
bằng tham nhũng, bn lậu hoặc bằng các con đường
phạm tội khác.
Bên cạnh đó, phải xây dựng và hồn thiện hệ thống
tiếp nhận, đánh giá, phản hồi và xử lý ý kiến của nhân
dân và dư luận xã hội, khơng để tích tụ sự căng thẳng
xã hội một cách không cần thiết. Xây dựng các thiết
chế dân chủ và thực hành dân chủ ở cơ sở cũng là một
bí quyết để ngăn ngừa xung đột. Điều này đã được
chứng minh bằng thực tiễn từ năm 1998 đến nay, nhờ
triển khai thực hiện quy chế dân chủ cơ sở một cách
sâu rộng mà tình hình tranh chấp, xung đột nói chung,
đã lắng hẳn xuống.
Theo hướng thể chế hóa xung đột, chúng ta cũng
cần phải xây dựng, hoàn thiện và đưa vào cuộc sống
pháp luật về xung đột xã hội. Thực tiễn đang địi hỏi
phải có các quy định pháp luật về lập hội, biểu tình,
bãi cơng, tình trạng khẩn cấp… để từng bước quản lý
các hoạt động này theo pháp luật. Đó là giải pháp để
hạn chế đến mức thấp nhất sự vơ chính phủ và những
hành động vơ thức, cũng như sự lợi dụng để kích
động. Theo đó, chính quyền và các cơ quan chức năng
cũng phải xây dựng các phương án, rèn tập các kỹ
năng để chủ động ứng xử với xung đột một cách đúng
đắn và văn minh.
Mâu thuẫn và xung đột là bạn đồng hành và là
động lực của xã hội. Một xã hội khơng có mâu thuẫn
và xung đột là một xã hội ngưng đọng và trì trệ,
khơng có sức sống. Nhưng cuộc sống cũng cần sự ổn
định, do đó, ai cũng muốn có những người bạn đồng
hành hịa bình và thân thiện. Nhận thức đúng sự tồn
tại và vai trò của mâu thuẫn, xung đột, có cách ứng
xử thích hợp, thì chắc chắn đó cũng là những tác
nhân làm cho xã hội lành mạnh, ổn định, gắn kết và
phát triển./.
Tạp chí
KH-CN Nghệ An
[20]