Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

NGHIÊN CỨU TỶ LỆ VIÊM TĨNH MẠCH SAU ĐẶT CATHETER TĨNH MẠCH NGOẠI VI VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI BỆNH VIỆN PHỔI TRUNG ƯƠNG NĂM 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

CAO THỊ HỒNG HÀ
NGHIÊN CỨU TỶ LỆ VIÊM TĨNH MẠCH SAU ĐẶT
CATHETER TĨNH MẠCH NGOẠI VI
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
TẠI BỆNH VIỆN PHỔI TRUNG ƯƠNG NĂM 2018
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐIỀU DƯỠNG
Mã số: 8720301

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS LÊ VĂN HỢI

Nam Định – 2018


i

TÓM TẮT
Mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ viêm tĩnh mạch tại vị trí đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi ở
Khoa Hồi sức tích cực, Khoa Lao hơ hấp, Khoa Phẫu thuật Lồng ngực.
2. Mô tả các yếu tố nguy cơ gây viêm tĩnh mạch sau đặt catheter tĩnh mạch
ngoại vi ở Khoa Hồi sức tích cực, Khoa Lao hơ hấp, Khoa Phẫu thuật Lồng ngực.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên
người bệnh được đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi tại Bệnh viện Phổi trung ương
trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2018. Nghiên cứu sử dụng thang điểm


INS phlebitis scale để đánh giá.
Kết quả: có 341 người bệnh được lựa chọn vào nghiên cứu với 403 Catheter
tĩnh mạch ngoại vi được quan sát. Tỷ lệ viêm tĩnh mạch chung sau đặt CTMNV
đánh giá bằng thang điểm INS Phlebitis scale là 43,4% tính theo người bệnh và
45,2% tính theo CTMNV. Kết quả phân tích hồi quy logistic đa biến cho thấy có 8
yếu tố liên quan và có tác động cùng chiều đến viêm tĩnh mạch ngoại vi: Khoa lao
hô hấp, bệnh tim mạch, catheter temuro,vị trí lưu cẳng tay, thời gian lưu catheter
48-72h, thời gian lưu catheter 72-96h, thời gian lưu catheter 96-120h, thời gian lưu
catheter ngoài 120h.
Kết luận: tỷ lệ viêm tĩnh mạch tại địa bàn nghiên cứu khá cao, kết quả của
nghiên cứu cho thấy rằng thời gian lưu càng dài thì nguy cơ viêm tĩnh mạch càng
tăng, bên cạnh đó các yếu tố về khoa điều trị, bệnh, loại catheter và vị trí lưu cũng
có tác động đến viêm tĩnh mạch.


ii

LỜI CẢM ƠN
Trong q trình học tập nghiên cứu, hồn thành luận văn tốt nghiệp, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình và sự động viên từ các thầy cơ, gia đình và bạn
bè.
Nhân dịp này tơi xin bày tỏ biết ơn sâu sắc đến:
Ban giám hiệu, các phòng ban chức năng của trường Đại học Điều dưỡng Nam
Định đã tận tình quan tâm giảng dạy, giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập và làm
luận văn tốt nghiệp.
Ban giám đốc, phòng Kế hoạch tổng hợp, lãnh đạo khoa và các quý đồng
nghiệp tại các khoa: khoa Hồi sức tích cực, khoa Lao hơ hấp và khoa Phẫu thuật
Lồng ngực – Bệnh viện Phổi Trung ương đã tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tơi hồn
thành nghiên cứu.
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS Lê Văn Hợi – Phó giám đốc

Bệnh viện Phổi Trung ương, người đã tận tình hướng dẫn, trực tiếp giúp đỡ tơi
trong q trình thực hiện và hồn thành luận văn tốt nghiệp.
Với tất cả lịng kính trọng của mình, tơi xin chân thành cảm ơn các quý thầy cô
trong hội đồng đề cương và trong hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã giúp đỡ tôi
những ý kiến q báu để tơi có thể thực hiện và hồn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tơi vơ cùng biết ơn gia đình, những người ln dành cho tơi sự yêu thương,
động viên trong cuộc sống, học tập và công tác.
Nam Định, ngày 28 tháng 12 năm 2018
Người làm luận văn

CAO THỊ HỒNG HÀ


iii

LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Cao Thị Hồng Hà học viên lớp cao học Khóa 3, chuyên ngành Điều
dưỡng, trường Đại học Điều dưỡng Nam Định xin cam đoan:
Đây là luận văn do chính tơi trực tiếp thực hiện nghiên cứu dưới sự hướng dẫn
của thầy Lê Văn Hợi, cơng trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào
khác đã được công bố ở Việt Nam.
Các số liệu và thơng tin trong nghiên cứu hồn tồn chính xác, trung thực và
khách quan. Đã được sự đồng ý thu thập và xác nhận của cơ sở nơi mà tôi thực hiện
việc thu thập số liệu.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về những cam đoan này!
Nam Định, ngày 28 tháng 12 năm 2018
Người làm luận văn

CAO THỊ HỒNG HÀ



MỤC LỤC
Nội dung

Trang

TÓM TẮT ................................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii
LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ....................................................................... iv
DANH MỤC CÁC BẢNG..........................................................................................v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ.......................................................................... vi
ĐẶT VẤN ĐỀ.............................................................................................................1
MỤC TIÊU..................................................................................................................3
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU .........................................................................4
1.1. Tổng quan về catheter tĩnh mạch ngoại vi ........................................................4
1.1.1. Giới thiệu về catheter tĩnh mạch ngoại vi .................................................. 4
1.1.2. Tĩnh mạch trị liệu bằng CTMNV .............................................................. 4
1.1.3. Chỉ định và chống chỉ định đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi ...................... 5
1.1.4. Các tai biến có thể xảy ra khi đặt CTMNV ................................................ 6
1.1.5. Lựa chọn vị trí, chăm sóc và thay thế catheter tĩnh mạch ngoại vi ............ 7
1.1.6. Tình hình áp dụng kỹ thuật đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi ...................... 8
1.2. Viêm tĩnh mạch sau đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi ........................................9
1.2.1. Khái niệm viêm tĩnh mạch ......................................................................... 9
1.2.2. Biến chứng của viêm tĩnh mạch ................................................................. 9
1.2.3. Xử trí viêm tĩnh mạch sau đặt CTMNV ................................................... 10
1.2.4. Tiêu chí đánh giá viêm tĩnh mạch ............................................................ 11
1.2.5. Tình hình viêm tĩnh mạch sau đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi ............... 12



1.2.6. Các yếu tố liên quan đến viêm tĩnh mạch sau đặt catheter tĩnh mạch ngoại
vi ......................................................................................................................... 15
1.3. Khung lý thuyết ..............................................................................................17
1.4. Giới thiệu tóm tắt về địa bàn nghiên cứu........................................................18
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................19
2.1. Đối tượng nghiên cứu .....................................................................................19
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ...................................................................19
2.3. Thiết kế nghiên cứu ........................................................................................19
2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu ................................................................19
2.5. Phương pháp thu thập số liệu .........................................................................19
2.6. Các chỉ số, biến số nghiên cứu .......................................................................20
2.7. Các khái niệm, thước đo, tiêu chuẩn đánh giá ................................................23
2.8. Phương pháp phân tích số liệu ........................................................................24
2.9. Vấn đề đạo đức của nghiên cứu ......................................................................24
2.10. Sai số và biện pháp khắc phục sai số ............................................................24
2.10.1. Sai số ...................................................................................................... 24
2.10.2. Biện pháp khắc phục sai số .................................................................... 25
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .....................................................................26
3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu ......................................................26
3.2. Tỷ lệ viêm tĩnh mạch đánh giá theo thang điểm INS phlebitis scale .............27
3.3. Tỷ lệ viêm tĩnh mạch theo các yếu tố người bệnh(N=341) ............................29
3.4. Tỷ lệ viêm tĩnh mạch theo các yếu tố liên quan đến lâm sàng .......................31
3.5. Tỷ lệ viêm tĩnh mạch với các yếu tố liên quan đến catheter ..........................33
3.6. Các yếu tố liên quan đến viêm tĩnh mạch ngoại vi .........................................37


3.6.1. Các yếu tố liên quan đến viêm tĩnh mạch ngoại vi theo mơ hình hồi quy
logistic đơn biến ................................................................................................. 37
3.6.2. Các yếu tố liên quan đến viêm tĩnh mạch ngoại vi theo mơ hình hồi quy
logistic đa biến.................................................................................................... 40

Chương 4: BÀN LUẬN ............................................................................................41
4.1. Bàn luận đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu ......................................41
4.2. Bàn luận về tỷ lệ viêm tĩnh mạch sau đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi ..........43
4.3. Bàn luận về các yếu tố nguy cơ gây viêm tĩnh mạch ngoại vi .......................48
KẾT LUẬN ...............................................................................................................51
1. Tỷ lệ viêm tĩnh mạch sau đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi tại Bệnh viện Phổi
trung ương ..............................................................................................................51
2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng viêm tĩnh mạch sau đặt catheter tĩnh
mạch ngoại vi .........................................................................................................52
KHUYẾN NGHỊ .......................................................................................................53
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................54
Phụ lục 1: Bản đồng thuận
Phụ lục 2: Bộ thu thập số liệu
Phụ lục 3: Danh sách người bệnh tham gia nghiên cứu
Phụ lục 4: Hình ảnh minh họa


iv

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CTMNV:

Catheter tĩnh mạch ngoại vi

CTV:

Cộng tác viên

NB:


Người bệnh

VTM:

Viêm tĩnh mạch


v

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1: Thang đo INS Phlebitis Scale ...................................................................12

Bảng 3.1: Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu ..................................... 26
Bảng 3.2: Tỷ lệ viêm tĩnh mạch chung và sự phân bố các trường hợp .......... 27
Bảng 3. 3: Tỷ lệ viêm tĩnh mạch chung và sự phân bố các trường hợp ......... 28
Bảng 3.4: Tỷ lệ người bệnh viêm tĩnh mạch theo nhóm tuổi ......................... 29
Bảng 3. 5: Tỷ lệ người bệnh viêm tĩnh mạch theo giới tính ........................... 29
Bảng 3. 6: Tỷ lệ người bệnh viêm tĩnh mạch theo BMI ................................. 30
Bảng 3.7: Tỷ lệ người bệnh viêm tĩnh mạch theo khoa điều trị ..................... 31
Bảng 3. 8: Tỷ lệ người bệnh viêm tĩnh mạch theo bệnh chính ....................... 31
Bảng 3.9: Tỷ lệ viêm tĩnh mạch với các loại Catheter .................................... 33
Bảng 3.10: Tỷ lệ viêm tĩnh mạch theo thời gian lưu catheter......................... 33
Bảng 3.11: Tỷ lệ vị trí lưu catheter bị viêm tĩnh mạch theo số lần đặt kim ... 34
Bảng 3.12: Tỷ lệ viêm tĩnh mạch ngoại vi theo vị trí lưu kim........................ 34
Bảng 3.13: Tỷ lệ viêm theo thuốc dịch truyền sử dụng .................................. 35
Bảng 3.14: Mối liên quan giữa yếu tố người bệnh và viêm tĩnh mạch ngoại vi
......................................................................................................................... 37
Bảng 3.15: Mối liên quan giữa các yếu tố lâm sàng đến VTM ngoại vi ........ 38

Bảng 3.16: Mối liên quan giữa các yếu tố catheter và viêm tĩnh mạch ngoại vi
......................................................................................................................... 39
Bảng 3.17: Mơ hình hồi quy logistic đa biến giữa viêm tĩnh mạch ngoại vi.. 40


vi

DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ
Trang
Hình 1. 1: Khung lý thuyết ........................................................................................17

Biểu đồ 3. 1: Số lượng người bệnh mắc các bệnh về phổi có các bệnh kèm
theo bị viêm tĩnh mạch .................................................................................... 32
Biểu đồ 3.2: Số lượng người bệnh mắc các bệnh về lao có các bệnh kèm theo
bị viêm tĩnh mạch ............................................................................................ 32
Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ viêm theo loại kháng sinh sử dụng. .................................. 35
Biểu đồ 3.4: Tỷ lệ viêm theo chế phẩm từ máu .............................................. 36
Biểu đồ 3.5: Tỷ lệ viêm theo các loại dịch khác ............................................. 36


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tĩnh mạch trị liệu là một trong những kỹ thuật không thể thiếu trong thực
hiện y lệnh của người điều dưỡng. Bên cạnh việc sử dụng kim thép để tiêm truyền
tĩnh mạch thì sử dụng Catheter tĩnh mạch ngoại vi (CTMNV) cho người bệnh điều
trị nội trú có chỉ định tiêm truyền tĩnh mạch hàng ngày hoặc trong các trường hợp
cấp cứu, phẫu thuật cần đưa thuốc, dịch truyền vào cơ thể một cách nhanh chóng là
cần thiết. CTMNV là một thiết bị y khoa đã được sử dụng nhiều và từ lâu trên thế
giới cũng như tại Việt Nam. Đặt CTMNV là một thủ thuật xâm lấn phổ biến trong

thực hành lâm sàng. Mặc dù những ưu điểm của việc sử dụng CTMNV trong tĩnh
mạch trị liệu là không thể phủ nhận khi đem lại sự thoải mái cho người bệnh, giúp
người bệnh giảm bớt đau đớn trong những lần lấy kim mới và tạo điều kiện thuận
lợi hơn cho điều dưỡng trong việc thực hiện y lệnh thuốc, nhưng lưu CTMNV trong
một khoảng thời gian cũng gây ra một số tai biến. Có những tai biến sớm sẽ được
xử trí ngay mà khơng để lại hậu quả, tuy nhiên có những tai biến muộn như viêm
tĩnh mạch, nhiễm khuẩn tại chỗ, tắc mạch, huyết khối tĩnh mạch, nhiễm khuẩn
huyết, nhiễm khuẩn tồn thân…nếu khơng được phát hiện sớm sẽ gây ra hậu quả vô
cùng nghiêm trọng. Một trong những tai biến muộn hay gặp nhất là tình trạng viêm
tĩnh mạch sau đặt và lưu CTMNV [26],[47]. Tỷ lệ viêm tĩnh mạch trên thế giới
được công bố qua các cơng trình nghiên cứu dao động từ 1,8% đến 60% tùy thuộc
vào phương pháp và địa điểm thực hiện các nghiên cứu. Và một số yếu tố liên quan
có thể làm tăng tỷ lệ viêm tĩnh mạch đã được nhắc đến như giới tính [56]; tình trạng
bệnh lý [40]; loại catheter [19],[22],[28]; quá trình đặt và sử dụng catheter [53], các
loại thuốc, dịch truyền sử dụng,[32],[33],[39]; vị trí lưu [37],[49]; thời gian
lưu[17],[18],[42].
Khi viêm tĩnh mạch xảy ra, người bệnh sẽ có cảm giác đau vị trí lưu, đi kèm
với đỏ, sưng và ở mức độ viêm cao nhất là tĩnh mạch lưu catheter bị cứng (thừng
tĩnh mạch). Viêm tĩnh mạch sau đặt CTMNV kéo dài trong 1 thời gian ngắn sau khi
loại bỏ catheter mà không gây ra các biến chứng, các triệu chứng thường biến mất
sau 1- 2 tuần, riêng với triệu chứng thừng tĩnh mạch thì phải mất thời gian lâu hơn


2

để phục hồi. Trong trường hợp đã hình thành thừng tĩnh mạch, sẽ gây ra rất nhiều
khó khăn cho cả người bệnh và điều dưỡng khi tiến hành đặt catheter ở các vị trí
khác. Vì vậy việc phát hiện sớm triệu chứng viêm tĩnh mạch sau đặt CTMNV để xử
lý kịp thời là rất quan trọng.
Ở Việt Nam việc sử dụng CTMNV rất phổ biến và các biến chứng như viêm

tĩnh mạch sau đặt catheter là khơng ít ( 5,1% - 50,52%) [5], [12],[13]. Cũng có một
số nghiên cứu về tỷ lệ viêm tĩnh mạch sau đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi nhưng rất
ít và các nghiên cứu hầu như không chỉ ra được việc đánh giá viêm tĩnh mạch sử
dụng thang đo nào và cỡ mẫu nghiên cứu ít trong phạm vi hẹp. Tại Bệnh viện Phổi
trung ương CTMNV được sử dụng từ hơn 10 năm trở lại đây. Hiện tại ở hầu hết các
khoa lâm sàng đều sử dụng CTMNV trong q trình chăm sóc và điều trị thuốc
bằng đường tĩnh mạch. Các tai biến khi sử dụng CTMNV đã được phát hiện và ghi
nhận. Với những tai biến sớm, người bệnh thường được xử trí ngay và không để lại
hậu quả nặng nề, các dấu hiệu sẽ biến mất sau một thời gian ngắn. Trong thời gian
gần đây, trong q trình chăm sóc người bệnh chúng tơi đã thấy xuất hiện một trong
những tai biến muộn, xảy ra thường xuyên nhất là viêm tĩnh mạch sau thời gian lưu
CTMNV. Vì vậy chúng tơi tiến hành thực hiện đề tài “Tỷ lệ viêm tĩnh mạch sau
đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi ở người lớn và một số yếu tố liên quan tại Bệnh
viện Phổi Trung ương 5 tháng đầu năm 2018” để xác định được tỷ lệ viêm tĩnh
mạch và các yếu tố có liên quan đến viêm tĩnh mạch sau đặt CTMNV, trên cơ sở đó
đưa ra các khuyến cáo giúp giảm bớt tình trạng này để hoạt động chăm sóc người
bệnh tốt hơn.


3

MỤC TIÊU
1. Xác định tỷ lệ viêm tĩnh mạch tại vị trí đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi ở
Khoa Hồi sức tích cực, Khoa Lao hơ hấp và Khoa Phẫu thuật Lồng ngực 5 tháng
đầu năm 2018.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến viêm tĩnh mạch sau đặt catheter tĩnh mạch
ngoại vi ở Khoa Hồi sức tích cực, Khoa Lao hô hấp và Khoa Phẫu thuật Lồng ngực.


4


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan về catheter tĩnh mạch ngoại vi
1.1.1. Giới thiệu về catheter tĩnh mạch ngoại vi
Catheter đặt trong lòng mạch: là loại ống được làm bằng vật liệu tổng hợp,
đưa vào trong lòng mạch nhằm chẩn đoán và điều trị người bệnh. Catheter tĩnh
mạch ngoại vi là dụng cụ y khoa có thiết kế chính bao gồm hệ thống van một chiều
và van hai chiều, hệ thống ống dẫn trong đó ống nhựa bao bọc sát ống dẫn kim loại,
khi đưa vào lòng tĩnh mạch sẽ loại bỏ ống dẫn kim loại và cố định ống nhựa. Đầu
catheter mềm nên khi người bệnh cử động không gây tổn thương thành mạch.
Catheter tĩnh mạch ngoại vi thường được đặt trong tĩnh mạch ở cẳng tay và cánh
tay, có chiều dài dưới 8cm[3]. Trong nghiên cứu này sử dụng hai loại catheter tĩnh
mạch ngoại vi là Catheter tĩnh mạch ngoại vi an toàn của hãng Braun cỡ 22G và
Catheter tĩnh mạch ngoại vi của hãng Temuro số 24G. Catheter tĩnh mạch ngoại vi
an toàn của hãng Braun được trang bị các tính năng an tồn bổ sung để tránh sự cố y
khoa liên quan đến vật sắc nhọn.
1.1.2. Tĩnh mạch trị liệu bằng CTMNV
Một trong các kết quả được đưa ra từ những cuộc khảo sát về thực trạng tiêm
an toàn vào những thời điểm khác nhau (2002, 2005, 2008) đó là tỷ lệ người bệnh
được kê đơn sử dụng thuốc tiêm khá cao (71,5%)[4]. Do đó đưa thuốc vào cơ thể
người bệnh bằng đường tiêm là một kỹ thuật cơ bản và quan trọng của người điều
dưỡng. Đối với từng loại thuốc và mục đích sử dụng mà thuốc có thể được đưa bằng
các đường tiêm khác nhau như tiêm bắp, tiêm dưới da, tiêm trong da hay tiêm tĩnh
mạch. Trong đó tiêm tĩnh mạch thường được ưu tiên sử dụng với ưu điểm tác dụng
nhanh và giảm sự đau đớn cho người bệnh.
Kỹ thuật tiêm truyền tĩnh mạch được thực hiện bằng catheter tĩnh mạch
ngoại vi là phương pháp tiêm, truyền tĩnh mạch sử dụng loại kim làm bằng ống
nhựa mềm luồn vào trong lòng tĩnh mạch. Lợi ích của sử dụng catheter tĩnh mạch
ngoại vi là catheter có thể luồn sâu và cố định chắc chắn vào trong lòng tĩnh mạch,



5

đầu kim lại mềm nên tránh được sự va chạm với thành mạch khi người bệnh thay
đổi tư thế hoặc di chuyển, đặc biệt trong trường hợp người bệnh giãy giụa. Catheter
tĩnh mạch ngoại vi được sử dụng trong những trường hợp người bệnh có chỉ định
cần phải tiêm, truyền nhiều lần trong ngày hoặc phải duy trì tiêm, truyền nhiều ngày
tạo sự an toàn và thoải mái cho người bệnh trong thời gian sử dụng thuốc bằng
đường tĩnh mạch. Sử dụng catheter tĩnh mạch ngoại vi khắc phục được nhược điểm
của kim sắt (gây chệch ven, xuyên mạch, đau trong quá trình tiêm truyền…). Hiện
tại kỹ thuật đặt CTMNV được sử dụng rộng rãi trong các cơ sở điều trị, mang lại
nhiều tiện ích và hiệu quả cho cả người bệnh và điều dưỡng [6],[7],[15]. Với
CTMNV được lưu trong một khoảng thời gian, người bệnh sẽ không phải chịu
những lần lấy kim mới và người điều dưỡng sẽ rút ngắn được thời gian khi dùng
thuốc cho người bệnh, cũng như giảm được các tai biến khi thực hiện kỹ thuật lấy
kim mới góp phần làm giảm áp lực cơng việc cho người điều dưỡng.
1.1.3. Chỉ định và chống chỉ định đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi
Chỉ định:
Các trường hợp người bệnh cần hồi sức cấp cứu: sốc, trụy mạch, suy hơ
hấp, hơn mê, ngừng tuần hồn…
Tiêm, truyền thuốc qua đường tĩnh mạch
Truyền dịch liên tục
Truyền dịch ngắt quãng
Truyền máu và các chế phẩm của máu
Trước khi làm thủ thuật, phẫu thuật, các thuốc cản quang…
Các trường hợp cần nuôi dưỡng tĩnh mạch ngắn ngày
Chống chỉ định:
Rối loạn đông máu ( chống chỉ định tương đối)
Huyết khối tĩnh mạch

Giãn tĩnh mạch ngoại biên
Sốt xuất huyết


6

1.1.4. Các tai biến có thể xảy ra khi đặt CTMNV
Tai biến sớm:
Đâm nhầm vào động mạch. Xử trí: Rút ngay catheter, băng ép tại điểm đâm
catheter, theo dõi dấu hiệu chảy máu tại chỗ.
Thoát mạch: do chệch catheter, vỡ tĩnh mạch. Xử trí: Rút catheter, chuyển vị
trí truyền sang chi khác, thường xuyên kiểm tra bằng bắt mạch và làm dấu hiệu làm
đầy mao mạch. Báo bác sĩ.
Tụ máu: Do chảy máu vào tổ chức xung quanh hoặc catheter xuyên qua
mạch máu. Xử trí: Rút catheter, Băng ép quanh nơi tụ máu bằng gạc lạnh.
Tuột Catheter: Do cố định khơng chắc hoặc do người bệnh tự rút truyền. Xử
trí: Rút catheter.
Tai biến muộn:
Viêm tĩnh mạch. Xử trí: Rút catheter, chườm ấm, báo bác sĩ, ghi chép tình
trạng và những xử trí.
Nhiễm khuẩn tại chỗ. Xử trí: Rút catheter, chuyển vị trí truyền sang chi khác,
báo bác sĩ, theo dõi chăm sóc vị trí nhiễm khuẩn.
Nhiễm khuẩn tồn thân: do không tuân thủ nguyên tắc vô khuẩn khi thực
hiện kỹ thuật/ chăm sóc vùng truyền kém/ người bệnh suy giảm miễn dịch/ lưu
catheter.
Một số tai biến khác:
Co thắt tĩnh mạch, kích ứng tại nơi truyền: do truyền dịch/máu lạnh; kích
ứng tĩnh mạch do thuốc hoặc dịch; tốc độ truyền quá nhanh. Xử trí: Áp miếng gạc
ấm lên vùng truyền (Có thể sử dụng máy làm ấm dịch truyền). Giảm tốc độ truyền.
Quá tải tuần hoàn: do tốc độ truyền quá nhanh. Xử trí: Cho người bệnh nằm

đầu cao 30-45 độ. Thở oxy nếu cần. Báo bác sĩ để có hướng xử trí phù hợp.
Dị ứng thuốc. Xử trí: Ngừng truyền, phối hợp với bác sĩ xử trí sốc phản vệ
theo phác đồ.


7

Một số tai biến ít gặp hơn:
Tổn thương dây chằng, dây thần kinh: do kỹ thuật chọc không đúng hoặc cố
định chặt quá. Xử trí: Ngừng truyền, báo bác sĩ.
Tắc mạch do khí. Xử trí: Ngừng truyền. Đặt người bệnh ở tư thế
Trendelenburg. Báo bác sĩ, cho người bệnh thở oxy theo chỉ định. Ghi chép các xử
trí và can thiệp đã làm.
1.1.5. Lựa chọn vị trí, chăm sóc và thay thế catheter tĩnh mạch ngoại vi
Lựa chọn vị trí, chăm sóc catheter tĩnh mạch ngoại vi:
Ở người lớn, nên sử dụng mạch máu ở chi trên. Trong trường hợp phải đặt
đường truyền ở chi dưới nên chuyển vị trí đặt từ chi dưới lên chi trên nếu có thể
thay đổi.
Ở trẻ em, nên ưu tiên chi trên. Trong trường hợp khơng cịn nơi khác, có thể
đặt ở chi dưới hoặc vùng da đầu lành lặn.
Tránh sử dụng kim bằng thép để truyền dịch và thuốc, do nguy cơ gây hoại
tử mơ và có thể thấm dịch ra ngồi mạch máu.
Nên sử dụng ống catheter có độ dài trung bình đặt vào mạch máu trung tâm
khi thời gian điều trị kéo dài trên 6 ngày.
Cần thăm khám hằng ngày bằng quan sát trực tiếp để phát hiện dấu hiệu
sưng, nóng, đỏ của vị trí đặt catheter khi sử dụng loại băng keo trong. Không nên
tháo bỏ bông gạc vô khuẩn che phủ vị trí đặt catheter chỉ để xem nếu khơng có dấu
hiệu nhiễm khuẩn.
Rút bỏ catheter trong trường hợp có sưng, nóng, đỏ, đau tại vị trí đặt hoặc có
những dấu hiệu NKH có liên quan đến đặt catheter.

Thay thế catheter tĩnh mạch ngoại vi:
Ở người lớn, không nên thay catheter ngoại biên thường quy trước 72–96 giờ.
Thay catheter ở trẻ em chỉ khi có những chỉ định trên lâm sàng.
Chỉ thay catheter có độ dài trung bình khi có chỉ định lâm sàng đặc biệt như
viêm mao mạch, NKH.


8

1.1.6. Tình hình áp dụng kỹ thuật đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi
Catheter tĩnh mạch ngoại vi là ống thông thường được sử dụng nhất trong
các bệnh viện. Đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi khi người bệnh nằm điều trị trong
bệnh viện, là một thao tác thường gặp trong chăm sóc, chẩn đốn, theo dõi và điều
trị. Có tới 70% người bệnh cần đường tĩnh mạch ngoại biên trong thời gian nằm
viện và 200 triệu catheter tĩnh mạch ngoại vi được sử dụng mỗi năm tại một bệnh
viện cấp cứu của Hoa Kỳ[20]. Tại Australia tỷ lệ catheter tĩnh mạch ngoại vi được
sử dụng trên nhóm đối tượng nghiên cứu là 86.4%[41] và 80.6% số catheter mạch
máu đặt cho người bệnh là catheter tĩnh mạch ngoại vi được xác định trong một
nghiên cứu tại Tây Ban Nha[27].
Tại Việt Nam, catheter tĩnh mạch ngoại vi được sử dụng cho người bệnh từ
rất lâu ở hầu hết các bệnh viện đặc biệt là người bệnh tại khoa cấp cứu – hồi sức và
phẫu thuật. Năm 2009, bệnh viện đa khoa huyện Ba Vì đã bắt đầu sử dụng catheter
tĩnh mạch ngoại vi cho người bệnh nội trú và năm 2012 tiến hành lưu catheter tĩnh
mạch ngoại vi thường quy cho trẻ nằm điều trị nội trú[2]. Tại khoa HSCC Bệnh
viện Tim mạch An Giang, catheter tĩnh mạch ngoại vi được đặt thường quy cho tất
cả các người bệnh vào khoa[8]. Catheter tĩnh mạch ngoại vi cũng được sử dụng cho
tất cả người bệnh trong khoa sơ sinh – BV nhi Quảng Nam có chỉ định tiêm truyền
tĩnh mạch nhiều lần trong ngày[6]. Với mục đích lấy máu xét nghiệm và thực hiện y
lệnh điều trị, catheter tĩnh mạch ngoại vi đã được đặt cho tất cả người bệnh mới vào
nhập viện tại khoa Nội tổng hợp – Bệnh viện Nhi Thanh Hóa, tác giả Lê Thị Hương

(2012) đã đánh giá hiệu quả sử dụng catheter tĩnh mạch ngoại vi cho người bệnh
mới vào viện là tương đối tốt [7].
Tại Bệnh viện Phổi Trung ương, catheter tĩnh mạch ngoại vi được sử dụng ở
hầu hết các khoa lâm sàng với mục đích tiêm truyền thuốc, đặc biệt tại các khoa có
nhiều người bệnh nặng, khoa có người bệnh có chỉ định phẫu thì việc đặt và lưu
catheter tĩnh mạch ngoại vi trở thành kỹ thuật thường quy khi người bệnh nhập viện
và người bệnh chuẩn bị phẫu thuật giúp cho việc xử trí người bệnh khi có diễn biến
bất thường được diễn ra nhanh chóng và thuận tiện. Với các khoa khối nội số lượng


9

người bệnh đơng và dùng nhiều loại thuốc truyền thì kỹ thuật đặt và lưu catheter
tĩnh mạch ngoại vi được ưu tiên sử dụng để giảm áp lực công việc cho người điều
dưỡng. Theo thống kê của bệnh viện, tổng số các loại CTMNV được sử dụng cho
người bệnh trong năm 2017 là 57.236 chiếc cao hơn 10 lần so với năm 2016, và
trong 6 tháng đầu năm năm 2018 tổng các loại CTMNV đã sử dụng là 25.302 chiếc.
1.2. Viêm tĩnh mạch sau đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi
Kỹ thuật đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi là một kỹ thuật phổ biến, được sử
dụng trong hầu hết các bệnh viện từ tuyến cơ sở cho đến trung ương. Việc đặt
catheter tĩnh mạch ngoại vi góp phần làm tăng tỷ lệ tiêm an tồn khi khơng phải có
thêm những lần lấy kim mới, hạn chế biến chứng cho người được tiêm và an toàn
cho người tiêm, giảm số lượng rác thải và vật sắc nhọn có dính máu ra mơi
trường[4]. Những catheter này địi hỏi phải được duy trì và chăm sóc cẩn thận để
tránh các biến chứng như viêm tĩnh mạch, thâm nhiễm, tắc nghẽn, nhiễm trùng cục
bộ và trong một số trường hợp có thể dẫn đến nhiễm trùng huyết[52]. Một trong
những biến chứng đó và cũng là tình trạng hay gặp của việc đặt catheter tĩnh mạch
ngoại vi là viêm tĩnh mạch trong thời gian lưu kim [26],[47].
1.2.1. Khái niệm viêm tĩnh mạch
Viêm tĩnh mạch là sự viêm của tĩnh mạch bề mặt tại vị trí đặt catheter tĩnh

mạch ngoại vi. Các triệu chứng của viêm tĩnh mạch xuất hiện theo các mức độ
viêm, được đánh giá theo thang điểm[31].
1.2.2. Biến chứng của viêm tĩnh mạch
Viêm tĩnh mạch sớm tại một vị trí lưu CTMNV thường sẽ tự khỏi sau khi
catheter được loại bỏ hoặc đặt lại ở một vị trí khác.
Biến chứng rất hiếm nhưng có thể xảy ra: bao gồm nhiễm trùng, huyết khối
và viêm tắc tĩnh mạch tái phát.
Một trong những biến chứng nghiêm trọng nhất và hiếm gặp là viêm tắc tĩnh
mạch hoại tử, một tình trạng được đặc trưng bởi huyết khối tĩnh mạch và viêm
nhiễm với sự hiện diện của nhiễm khuẩn huyết.


10

1.2.3. Xử trí viêm tĩnh mạch sau đặt CTMNV
Điều dưỡng nên đánh giá thường xuyên vị trí đặt catheter để phát hiện các
dấu hiệu và triệu chứng của viêm tĩnh mạch từ đó xác định nhu cầu và loại can
thiệp; giáo dục bệnh nhân và / hoặc người chăm sóc về viêm tĩnh mạch, can thiệp và
theo dõi; đánh giá đáp ứng của bệnh nhân để điều trị.
Nếu tình trạng viêm tĩnh mạch xảy ra, điều dưỡng nên có các xử trí như sau:
Đánh giá vị trí đặt catheter để biết các dấu hiệu, triệu chứng và mức độ
nghiêm trọng của viêm tĩnh mạch bằng việc sử dụng một thang đo tiêu chuẩn.
Xác định nguyên nhân có thể gây ra tình trạng viêm tĩnh mạch: do các loại
thuốc sử dụng qua catheter, vị trí đặt catheter, loại catheter hoặc quá trình chuẩn bị
đặt và chăm sóc catheter, qua đó lựa chọn các biện pháp can thiệp phù hợp. Việc xử
trí viêm tĩnh mạch sẽ phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tình trạng viêm và sự
hiện diện của huyết khối. Với bất kỳ mức độ viêm tĩnh mạch nào thì việc đầu tiên là
ngừng sử dụng đường truyền tại vị trí đó và loại bỏ các CTMNV. Áp dụng phương
pháp chườm ấm trong vịng 20 phút tại vị trí đặt catheter trong thời gian 6 đến 24
tiếng đối với thuốc không độc tế bào. Viêm tĩnh mạch mức độ nhẹ thường sẽ tự

khỏi.
Đánh giá và ghi lại phản ứng của bệnh nhân đối với các can thiệp.
Khi catheter tĩnh mạch ngoại vi bị loại bỏ, hãy xem xét sự cần thiết phải phối
hợp với bác sỹ và các điều dưỡng khác về nhu cầu tiếp tục đặt lại thay thế hoặc loại
bỏ hoàn toàn. Sau khi rút bỏ catheter, điều dưỡng nên theo dõi vị trí đã đặt và lưu
catheter trong 48 giờ để phát hiện viêm tĩnh mạch sau truyền; hoặc khi xuất viện,
bệnh nhân và / hoặc người chăm sóc cần được hướng dẫn về các dấu hiệu và triệu
chứng của viêm tĩnh mạch và người liên lạc nếu điều này xảy ra.
Các điều dưỡng nên sử dụng một thang đo đánh giá viêm tĩnh mạch được
tiêu chuẩn hóa đảm bảo hợp lệ, đáng tin cậy, và khả thi về mặt lâm sàng
Một chi bị ảnh hưởng bởi viêm tĩnh mạch sau đặt CTMNV nên được nâng
lên để giảm thiểu viêm và một loại kem chống viêm hoặc gel có thể được áp dụng
trực tiếp cho vị trí bị tổn thương đó [25].


11

Thuốc giảm đau chống viêm có thể được kê đơn để điều trị cả viêm và đau
do viêm tĩnh mạch.
1.2.4. Tiêu chí đánh giá viêm tĩnh mạch
Một số thang đo viêm tĩnh mạch và các công cụ đánh giá đã được phát triển,
và hai công cụ thông thường nhất được sử dụng là INS Phlebitis Scale và Visual
Infusion Phlebitis (VIP) Scale. Trong đó INS Phlebitis Scale được phát triển bởi
Hội Điều dưỡng tiêm truyền (Infusion Nurses Society) của Hoa Kỳ (2011). Sử dụng
một thang điểm từ 0-4, INS Phlebitis Scale đã được chứng minh là một cơng cụ
nhanh chóng, dễ dàng và hữu ích [31], [30], [44].
Hội Điều dưỡng tiêm truyền ở Hoa Kỳ đã xây dựng thang đo INS Phlebitis
Scale đầu tiên vào năm 1998 [44]. Thang đo INS Phlebitis Scale đã thay đổi theo
thời gian với nhiều phiên bản khác nhau để phù hợp hơn với hoàn cảnh nghiên cứu,
và phiên bản hiện tại được khuyến khích sử dụng là phiên bản năm 2011. Thang

điểm được dùng để đánh giá tình trạng viêm tĩnh mạch ngoại vi dựa vào các triệu
chứng lâm sàng tại vị trí lưu kim, thang điểm được chia thành 5 độ từ độ 0 (khơng
có triệu chứng) tới độ 4 (tất cả các triệu chứng hiện nay: đau, ban đỏ, phù nề, hình
thành tĩnh mạch cứng > 2,54 cm chiều dài và thoát nước rỉ) tương ứng với tình
trạng viêm tĩnh mạch được thể hiện trên lâm sàng là tăng dần, dựa vào thang điểm
rất dễ để nhận biết mức độ viêm tĩnh mạch bằng cách hỏi bệnh nhân, quan sát vị trí
lưu kim, sờ nắn tĩnh mạch phía trên vị trí lưu kim. Có rất nhiều nghiên cứu đã lựa
chọn sử dụng thang đo INS Phlebitis Scale để đánh giá tình trạng viêm tĩnh mạch
sau khi đặt các dụng cụ vào tĩnh mạch ngoại biên [34], [36], [43].
Thang đo INS Phlebitis Scale cũng được đánh giá về khả năng chấp nhận và
tính khả thi trong một nghiên cứu của Dianne Groll và các cộng sự (2010). Các điều
dưỡng tham gia nghiên cứu đã cho thấy thang đo này rất dễ sử dụng khi hoàn thành
thang đo đánh giá tương đối nhanh, với thời gian hồn thành trung bình là 1,3 phút
(khoảng 1-1,5 phút, SD 0,9 phút) [29].


12

Bảng 1.1: Thang đo INS Phlebitis Scale
Mức độ

Biểu hiện

0

Không biểu hiện

1

Đỏ da ở vị trí đặt kim có kèm đau hoặc khơng đau


2

Đau tại vị trí đặt kim có kèm theo đỏ da và/ hoặc phù nề

3

4

Đau tại vị trí đặt kim có kèm theo đỏ da và/ hoặc phù nề, bắt đầu hình
thành thừng tĩnh mạch có thể sờ thấy được
Đau tại vị trí đặt kim có kèm theo đỏ da và/ hoặc phù nề, hình thành
thừng tĩnh mạch rõ rệt có chiều dài trên 2,5cm, rỉ dịch mủ.

1.2.5. Tình hình viêm tĩnh mạch sau đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi
Tỷ lệ viêm tĩnh mạch ở những người có catheter tĩnh mạch ngoại vi khác
nhau rất nhiều do sự khác nhau về định nghĩa, thiết kế nghiên cứu, lựa chọn bệnh
nhân và thời gian theo dõi [35]. Các nghiên cứu cùng sử dụng thang đo INS
Phlebitis Scale đã chỉ ra rằng tỷ lệ VTM dao động từ 1,8% [57] đến 60% [16] trên
những người bệnh có sử dụng catheter tĩnh mạch ngoại vi.
Trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng đa trung tâm,
5.907 CTMNV từ 3.283 người bệnh đã được nghiên cứu, viêm tĩnh mạch sau khi
đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi tại thời điểm sau 48 giờ được chẩn đoán ở 59 người
bệnh (1,8%), khi dữ liệu được phân tích trên mỗi catheter, tỷ lệ này thấp hơn,
62/5907 (1,1%) [57].
Lyda Zoraya Rojas-Sánchez và cộng sự ( 2015) đã thực hiện một nghiên cứu
ngẫu nhiên trong một nghiên cứu thuần tập vào tháng 8 năm 2010 về tần suất viêm
tĩnh mạch tại Bucaramanga, Colombia. Nghiên cứu bao gồm 198 người trên 18 tuổi
được tiếp nhận tại phịng cấp cứu và đã có thời gian nằm viện từ 6 đến 24 giờ. Kết
quả của nghiên cứu về tỷ lệ viêm tĩnh mạch là 10,1%, [47].



13

Tại một phòng khám ngoại thần kinh, khi tiến hành nghiên cứu mơ tả cắt
ngang trên 325 người bệnh có độ tuổi từ 18 tuổi trở lên với 347 catheter, viêm tĩnh
mạch được tìm thấy ở tỷ lệ 17,6%, tất cả đều ở mức độ I, hầu hết xuất hiện vào ngày
thứ 2 sau khi đặt thiết bị [24].
Tỷ lệ viêm tĩnh mạch là 29,8% được xác định khi tiến hành nghiên cứu trên
168 catheter tĩnh mạch ngoại vi tại khoa cấp cứu của bệnh viện Nehru, PGIMER,
Chandigarh [48].
Khi tiến hành nghiên cứu tại một bệnh viện ở Brasil với cỡ mẫu là 76 NB,
trong số 24 người bệnh (31,6%) bị VTM có: 10 NB ở mức độ I; 09 người ở mức độ
II; 04 người ở mức độ III và 01 người ở mức độ IV; thời gian lưu catheter trong
khoảng từ 3 đến 120 giờ, trung bình là 49 giờ [54].
Sử dụng mẫu thuận tiện và thu thập thời gian trong vòng 6 tháng, một nghiên
cứu bao gồm tổng cộng 12 bệnh nhân. Mỗi lần tiêm truyền tĩnh mạch amiodarone
được xem là một sự xuất hiện riêng biệt, với tổng cộng 24 lần truyền. Nghiên cứu
đã tìm thấy các mức độ viêm tĩnh mạch khác nhau phát triển ở 8 bệnh nhân (67%)
và 12 trong số 24 vị trí truyền (50%) [21].
Một nghiên cứu thuần tập tương lai đã được tiến hành với mục tiêu xác định
tỷ lệ mắc viêm tĩnh mạch tại một đơn vị y tế lâm sàng thực hiện tại Brazil. Nghiên
cứu sử dụng một bảng câu hỏi cấu trúc để quan sát 100 người bệnh được nhận vào
khoa và có 234 đường truyền tĩnh mạch ngoại vi đã được thực hiện. Viêm tĩnh
mạch được xác định ở 60% người bệnh và 55,6% tổng số đường truyền tĩnh mạch
ngoại vi, hầu hết các đường truyền vẫn còn nguyên vẹn trong hơn 72 giờ (53%)
[16].
Nghiên cứu từ năm 2008 tại khoa ngoại chung của Bệnh viện đại học Thổ
Nhĩ Kỳ, một công cụ thu thập dữ liệu dựa trên các tiêu chuẩn được thành lập bởi
Infusion Nurses Society được sử dụng để quan sát có hệ thống 568 vị trí tĩnh mạch

có đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi để truyền dịch và dùng thuốc ở 355 người bệnh.
Các vị trí truyền dịch của người bệnh được theo dõi 24 giờ một lần trong khi quá
trình lưu catheter và trong 48 giờ sau khi ngưng đường dùng tĩnh mạch. Kết quả là


14

309 trong tổng số 568 vị trí đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên (54,5%) phát triển
viêm tĩnh mạch khi đặt catheter, và viêm tĩnh mạch sau tiêm tiêm truyền xuất hiện ở
25 vị trí sau loại bỏ catheter [55].
Xác định viêm tĩnh mạch ngoại biên là một vấn đề phổ biến và có ý nghĩa
quan trọng trong thực hành lâm sàng. Một nghiên cứu được thực hiện để xác định
sự xuất hiện của viêm tĩnh mạch liên quan đến catheter tĩnh mạch ngoại vi và các
yếu tố có thể liên quan đến sự phát triển của viêm tĩnh mạch. Nghiên cứu thực hiện
trên 230 bệnh nhân được đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi lần đầu tiên. Vị trí đặt
catheter đã được kiểm tra các dấu hiệu viêm tĩnh mạch mỗi ngày một lần. Kết quả:
viêm tĩnh mạch xuất hiện ở 136/230 người bệnh (59,1%) [50].
Ba khoa: Ngoại chung, phẫu thuật chỉnh hình – thần kinh và phẫu thuật tim
mạch của một Bệnh viện đại học ở Brasil đã được lựa chọn để thực hiện nghiên cứu
xác định mức độ phổ biến của viêm tĩnh mạch và mối liên quan của nó với các yếu
tố nhân khẩu học cũng như các yếu tố lâm sàng. Có 174 người bệnh được theo dõi
trong đó hầu hết người bệnh (45,41%) là ở khoa ngoại chung; 43,10% thuộc khoa
phẫu thuật chỉnh hình – thần kinh; còn lại 11,49% là người bệnh của khoa phẫu
thuật tim mạch. Kết quả là từ 221 vị trí được quan sát thì có 42 vị trí có đủ tiêu chí
xác định viêm tĩnh mạch (19%). Tỷ lệ nam bị viêm tĩnh mạch (12,66%) nhiều hơn
nữ (6,33%). Trong mối liên quan với khoa mà người bệnh nằm nội trú, khoa ngoại
chung và khoa phẫu thuật chỉnh hình – thần kinh cùng có 19 người bệnh bị viêm
tĩnh mạch (45,24%), khoa phẫu thuật tim mạch chỉ có 4 trường hợp chiếm 9,52%
[51].
Nghiên cứu khảo sát 122 mẫu catheter tĩnh mạch ngoại vi được đặt cho 122

người bệnh trong một đơn vị y tế chỉ ra rằng viêm tĩnh mạch là biến chứng thường
gặp nhất ( 31,1%) [26].
Để xác định tỷ lệ và các yếu tố nguy cơ viêm tĩnh mạch gây viêm tĩnh mạch
trên người bệnh tim mạch, một nghiên cứu đã được tiến hành với 60 người bệnh tim
mạch người lớn có sử dụng catheter tĩnh mạch ngoại vi. Tỷ lệ viêm tĩnh mạch được
xác định là 12% [23].


15

Tại Việt Nam cũng có một số nghiên cứu về catheter tĩnh mạch ngoại vi
nhưng các nghiên cứu về tỷ lệ viêm tĩnh mạch sau đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi
rất hạn chế. Các nghiên cứu hầu như không chỉ ra được việc đánh giá viêm tĩnh
mạch sử dụng thang đo nào và cỡ mẫu nghiên cứu ít trong phạm vi hẹp, những yếu
tố liên quan cũng chưa được chỉ ra một cách rõ ràng. Một nghiên cứu trước đây ở
Bệnh viện Nhi đồng II, thành phố Hồ Chí Minh khảo sát 58 trường hợp lưu
CTMNV trên bệnh nhi với thời gian lưu kim tối đa thì tỷ lệ viêm tĩnh mạch là 5,1%,
nghiên cứu này không đưa ra một khái niệm hay đề cập đến thang đo nào được sử
dụng để đánh giá [13]. Nguyễn Ngọc Rạng và cộng sự (2013) chỉ sử dụng một định
nghĩa để xác định tỷ lệ viêm tĩnh mạch giữa hai nhóm người bệnh thay catheter tĩnh
mạch ngoại vi thường quy và thay theo chỉ định lâm sàng lần lượt là 11% và 20.2%
[9]. Tỷ lệ viêm tĩnh mạch là 26,7 % đối với catheter Vialon, 56,7% đối catheter
Teflon được xác định là có ý nghĩa thống kê khi so sánh chất lượng hai loại catheter
tĩnh mạch ngoại vi trong đặt đường truyền nuôi dưỡng tĩnh mạch [5]. Mặc dù có sử
dụng thang đo đánh giá ở khoa Hồi sức tích cực nhưng với các thang đo khác nhau,
ở hai bệnh viện khác nhau thì tỷ lệ viêm tĩnh mạch cũng có sự cách biệt khá lớn 8%
(thang đo VIP Scale, bệnh viện tim mạch An Giang) và 50,52% (thang điểm Baxter,
Bệnh viện Phổi Trung ương) [8], [12].
1.2.6. Các yếu tố liên quan đến viêm tĩnh mạch sau đặt catheter tĩnh mạch ngoại
vi

Các yếu tố có liên quan đến sinh lý bệnh của viêm tĩnh mạch là tác nhân hóa
học (thuốc, dịch truyền gây kích thích), tác nhân cơ học (chất liệu, kích cỡ catheter,
vị trí đặt…) và tác nhân nhiễm trùng. Ngồi ra, tuổi, giới, bệnh lý (nhiễm trùng,
bỏng, tiểu đường..) cũng có thể có ảnh hưởng.
Lyda Zoraya Rojas-Sánchez và cộng sự (2015) đã tiến hành nghiên cứu ở
Bucaramanga, Colombia với số người bệnh là 198 vào khoa cấp cứu trong vòng 6
giờ đến 24 giờ. Kết quả có 6 yếu tố liên quan được xác định là độ tuổi, thời gian
nằm viện, sử dụng tiểu cầu, sử dụng thuốc gây nghiện, các thuốc kháng sinh và
thuốc giảm tiết dịch dạ dày [47].


×