1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sâu răng, viêm lợi là hai bệnh phổ biến trong số các bệnh răng miệng ở
trẻ em [42]. Bệnh sâu răng có đặc điểm là tiêu dần các chất vô cơ và hữu cơ ở
men và ngà răng tạo thành lỗ sâu. Nếu điều trị không kịp thời sẽ gây viêm tuỷ,
viêm quanh cuống răng và có thể mất răng. Từ những năm 70 của thế kỷ XX,
Tổ chức Y tể thế giới (WHO) đã xếp 3 bệnh trong số hơn 10 bệnh phổ biến là
tai họa của loài người: bệnh tim mạch, bệnh ung thư và bệnh sâu răng [63].
Bệnh sâu răng là một tai họa của lồi người vì 3 lý do: bệnh mắc rất sớm; rất
phổ biến (chiếm > 90% dân số); chi phí chữa răng rất lớn, nếu chỉ chú ý đến
việc chữa bệnh thì khơng một quốc gia nào có thể chi trả được kể cả những
nước giàu có nhất [44].
Trong những thập niên vừa qua, khoa học thế giới đã đạt được nhiều
tiến bộ trong việc giải thích bệnh căn của sâu răng cũng như cách phịng
chống bệnh răng miệng, chính vì vậy ở một số nước phát triển như Australia,
Mỹ và các nước Bắc Âu đã hạ được tỷ lệ bệnh sâu răng xuống còn một nửa so
với những năm trước. Sau 25 năm phịng bệnh (1969-1994) số răng sâu trung
bình trẻ em 12 tuổi ở các nước này giảm từ 6,5 xuống còn dưới 3 [8], [56].
Ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, do điều kiện kinh tế
cịn nhiều khó khăn, thiếu trang thiết bị và nhận thức về sức khỏe răng miệng
còn nhiều hạn chế nên tỷ lệ mắc bệnh răng miệng còn cao và có chiều hướng
gia tăng [27]. Năm 2001, tỷ lệ sâu răng ở Hà Nội là 84,9% trẻ em 6 - 8 tuổi
sâu răng sữa, 64,1% trẻ em 12 - 14 tuổi sâu răng vĩnh viễn và 78,55% có cao
răng. Để giải quyết thực trạng trên, giải pháp hiệu quả nhất là tăng cường
cơng tác phịng bệnh, làm tốt cơng tác chăm sóc sức khỏe răng miệng ban đầu
như các nước tiên tiến đã làm trong những năm qua.
Từ nhiều năm nay, ngành răng hàm mặt Việt Nam đã đạt nhiệm vụ
chăm sóc sức khỏe răng miệng ban đầu là nhiệm vụ hàng đầu và lấy công tác
2
Nha học đường làm trọng tâm vì nhà trường là mơi trường tốt nhất để tổ chức
chăm sóc sức khỏe ban đầu cho trẻ em.
Cho đến nay, chương trình Nha học đường đã được triển khai ở tất cả
các tỉnh thành trong cả nước, chương trình vẫn đang được chú trọng phát triển
cả bề rộng lẫn chiều sâu [26]. Vấn đề cần phải đánh giá thực trạng bệnh răng
miệng học sinh của từng địa phương để có tham mưu và đề xuất các nội dung
chương trình Nha học đường phù hợp cho từng tỉnh trong từng giai đoạn là
hết sức cần thiết.
Để có số liệu khoa học về tình hình bệnh sâu răng, viêm lợi của học
sinh tiểu học Nguyễn Du - Thành phố Hà Tĩnh tỉnh Hà Tĩnh và là cơ sở để
ngành y tế Hà Tĩnh tham mưu chính xác cho tỉnh việc hoạch định chính sách
y tế phù hợp trong đó có chương trình Nha học đường.
Chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Thực trạng sâu răng, viêm lợi
và một số yếu tố liên quan ở học sinh trường tiểu học Nguyễn Du –
Thành phố Hà Tĩnh năm 2020” với mục tiêu sau:
1. Mô tả thực trạng sâu răng, viêm lợi của học sinh Trường tiểu học
Nguyễn Du – Thành phố Hà Tĩnh năm 2020.
2. Một số yếu tố liên quan đến bệnh sâu răng, viêm lợi của học sinh
trường tiểu học Nguyễn Du – Tp Hà Tĩnh.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. GIẢI PHẪU, TỔ CHỨC HỌC CỦA RĂNG VÀ VÙNG QUANH RĂNG
1.1.1. Giải phẫu răng
Răng gồm 2 phần: Thân răng và chân răng [11]. Thân răng được bao bọc
bởi men răng, chân răng được xêmăng bao bọc. Giữa thân răng và chân răng
là đường cổ răng (cổ răng giải phẫu) là một đường cong còn gọi là đường nối
men - xê măng. Vùng quanh răng gồm lợi, dây chằng quanh răng, xê măng và
xương ổ răng [8], [12].
Hình 1.1. Giải phẫu răng [8]
4
1.1.2. Tổ chức học của răng
Cấu tạo của răng gồm: men răng, ngà răng và tủy răng [8],[2].
1.1.2.1. Men răng
Men răng phủ mặt ngồi ngà thân răng, có nguồn gốc từ ngoại bì, là mơ
cứng nhất trong cơ thể có tỷ lệ chất vô cơ cao nhất (khoảng 96%).
Về mặt hóa học, chất vơ cơ chiếm 96%, chủ yếu là 3[(P04)2Ca3]
Ca(OH)2 còn lại là các muối cacbonat của magiê và một lượng nhỏ clorua,
fluorua và muối sunfat của natri và kali. Thành phần hữu cơ chiếm khoảng
1% trong đó chủ yếu là protit.
Về mặt lý học, men răng trong, cứng, giòn và cản tia X với tỷ trọng từ
2,3- 3 so với ngà răng.
Cấu trúc học của men răng: Quan sát qua kính hiển vi thấy hai loại
đường vân:
- Đường Retzius: Trên tiêu bản cắt ngang là các đường chạy song song
vớinhau và song song với đường viền ngoài của lớp men cũng như với đường
ranh giới men ngà ở phía trong.
- Đường trụ men: Chạy suốt chiều dày men răng và hướng thẳng góc với
đường ngồi trong của men răng, đơi khi có sự gấp khúc và thay đổi hướng đi
của trụ men.
Cấu trúc siêu vi của men: Thành phần hữu cơ có cấu trúc sợi và sắp xếp
dọc theo trụ men, có vùng hợp với trụ men góc 40o, thành phần vô cơ là các
khối tinh thể to nhỏ khơng đều dài 1µm rộng 0,04 - 0,1 µm. Cấu tạo của các
tinh thể là hydroxy apatit, chất giữa trụ men là các giả tinh thể apatit (thay
PO4 bằng CaCO3, Mg CO3).
1.1.2.2. Ngà răng
Có nguồn gốc từ trung bì, kém cứng hơn men, chứa tỷ lệ chất vô cơ thấp
hơn men (75%), chủ yếu là 3 [(PO4)2Ca3)2H2O].
Về tổ chức học: Ngà răng được chia làm hai loại:
5
- Ngà tiên phát: Chiếm khối lượng chủ yếu và được tạo nên trong q
trình hình thành răng, nó bao gồm: Ống ngà, chất giữa ống ngà và dây Tôm.
+ Ống ngà: Có số lượng từ 15 – 50.000 ống /1mm 2, đường kính ống từ 3
- 5µm, ống ngà chính chạy suốt chiều dày của ngà và tận cùng bằng đầu chốt
ở ranh giới men ngà, ống ngà phụ là ống nhỏ hoặc nhánh bên, nhánh tận cùng
của ống ngà chính.
+ Chất giữa ống ngà: Có cấu trúc sợi được ngấm vơi, sắp xếp thẳng góc
với ống ngà.
+ Dây Tôm: Nằm trong ống ngà, là đuôi nguyên sinh chất của tế bào tạo ngà.
- Ngà thứ phát: Được sinh ra khi răng đã hình thành gồm ngà thứ phát
sinh lý, ngà phản ứng và ngà trong suốt.
1.1.2.3. Tuỷ răng
Là mô liên kết mềm, nằm trong hốc tuỷ gồm tuỷ chân và tủy thân. Tuỷ
răng trong buồng tủy gọi là tủy thân hoặc tủy buồng, tuỷ răng trong ống tủy
gọi là tủy chân. Các nguyên bào ngà nằm sát vách hốc tủy.
Về tổ chức học, tuỷ răng gồm hai vùng: Vùng cạnh tuỷ và vùng giữa tuỷ:
+ Vùng cạnh tuỷ: Gồm các lớp tế bào tạo ngà (2 - 3 lớp) và lớp khơng
có tế bào gồm những tổ chức sợi tạo keo.
+ Vùng giữa tuỷ là tổ chức liên kết có nhiều tế bào, ít tổ chức sợi.
1.1.3. Vùng quanh răng
Bao gồm xương ổ răng, xê măng, dây chằng nha chu và lợi răng [8], [11].
1.1.3.1. Xương ổ răng
Là mơ xương xốp, bên ngồi được bao bọc bằng màng xương nơi nướu
răng bám vào. Xương ổ răng tạo thành một huyệt, có hình dáng và kích thước
phù hợp với chân răng. Bề mặt ổ răng, nơi đối diện với chân răng, là mơ
xương đặc biệt có nhiều lỗ thủng cho mạch máu, thần kinh từ xương xuyên
qua để nuôi dây chằng nha chu, gọi là xương ổ chính danh hay lá sàng.
6
1.1.3.2. Xê măng
Là mơ đặc biệt, hình thành cùng với sự hình thành chân răng, phủ mặt
ngồi ngà chân răng. Xê măng được bồi đắp thêm ở phía chóp chủ yếu để bù
trừ sự mòn mặt nhai, được coi là hiện tượng mọc răng suốt đời.
1.1.3.3. Dây chằng quanh răng
Dây chằng quanh răng nằm ở khe giữa xương ổ răng và xêmăng, bình
thường khe này rộng 0,15 - 0, 25mm. Dây chằng nha chu có nhiệm vụ giữ cho
răng gắn vào xương ổ răng và đồng thời có chức năng làm vật đệm, làm cho
mỗi răng có sự xê dịch nhẹ độc lập với nhau trong khi ăn nhai, giúp lưu thông
máu, truyền cảm giác áp lực và truyền lực để tránh tác dụng có hại của lực
nhai đối với răng và quanh răng.
1.1.3.4. Lợi răng
Bao gồm lợi tự do và lợi bám.
- Lợi tự do: Gồm có bờ lợi tự do (đường viền lợi) và nhú lợi (núm lợi).
- Lợi bám dính: Vùng lợi dính hơi gồ lên, nối tiếp từ phần lợi tự do đến
phần niêm mạc di động.
1.2. SINH BỆNH HỌC SÂU RĂNG VÀ VIÊM LỢI
1.2.1. Sinh bệnh học sâu răng
Bệnh sâu răng là bệnh do nhiều ngun nhân gây nên trong đó vi khuẩn
đóng vai trị quan trọng nhất [42], các yếu tố thuận lợi như chế độ ăn uống
nhiều đường, vệ sinh răng miệng không tốt, chất lượng men răng kém, môi
trường tự nhiên nhất là mơi trường nước ăn uống có hàm lượng fluor thấp
(hàm lượng fluor tối ưu là 0,8 - 1,2 ppm/lít)... tạo điều kiện cho sâu răng phát
triển [12], [43].
Trước năm 1970, người ta cho rằng bệnh căn của sâu răng là do nhiều
nguyên nhân với sự tác động của 3 yếu tố. Sự phối hợp của các yếu tố này để
gây sâu răng được thể hiện bằng sơ đồ Keyes.
7
Hình 1.2. Sơ đồ Keyes (1969) [12]
Về sau, White giải thích sinh bệnh học sâu răng bằng việc thay vịng tròn
chất đường trong sơ đồ Keyes bằng vòng tròn chất nền và đề cao vai trò bảo
vệ của nước bọt, pH dòng chảy nước bọt quanh răng và vai trò của fluor.
Hình 1.3. Sơ đồ White (1975) [12]
Cơ chế sinh bệnh học của sâu răng được thể hiện bằng hai q trình hủy
khống và tái khống. Nếu q trình hủy khống lớn hơn q trình tái khống
thì sẽ gây sâu răng. Tác giả Figuero E và cộng sự khi nghiên cứu đã kết luận
loại trừ mảng bám vi khuẩn làm giảm tỷ lệ sâu răng [48].
Theo một số tác giả sâu răng khơng thể phát triển mà khơng có sự hiện
diện của carbohydrate lên men chế độ ăn uống, đặc biệt là đường [52].
8
Sâu răng = Huỷ khoáng > Tái khoáng
Các yếu tố gây mất ổn định làm sâu răng:
* Mảng bám vi khuẩn
* Chế độ ăn nhiều đường nhiều lần
* Thiếu nước bọt hay nước bọt axit
* Axit từ dạ dày tràn lên miệng
* pH môi trường miệng < 5
Các yếu tố bảo vệ:
* Nước bọt
* Khả năng kháng axit của men răng
* Fluor có ở bề mặt men răng
* Sự trám bít hố rãnh
* Nồng độ Ca ++, NPO4 quanh rang
* pH > 5,5
Hình 1.4. Sơ đồ tóm tắt cơ chế sâu răng [10]
Với sự hiểu biết nhiều hơn về sinh bệnh học quá trình sâu răng nên hơn
hai thập kỷ qua, loài người đã đạt được nhiều thành tựu lớn trong dự phòng
sâu răng [8], [12], [Error: Reference source not found5].
1.2.2. Sinh bệnh học viêm lợi
- Bệnh viêm lợi:
Viêm lợi là một chứng bệnh viêm phát sinh ở tổ chức lợi. Biểu hiện lâm
sàng là lợi nề, đỏ, mất săn, dễ chảy máu, kèm hơi miệng, người bệnh có cảm
giác sót, ngứa lợi.
Dịch tễ học của bệnh viêm lợi liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau:
+ Theo giới tính: Chảy máu lợi ở nam nhiều hơn ở nữ. Ngược lại tuổi từ
15-19 thì chảy máu lợi ở nữ nhiều hơn nam.
+ Theo điều kiện kinh tế: Tỷ lệ viêm lợi ở Châu Phi, Châu Á lớn hơn ở
Châu Âu, Châu Úc [60]. Tỷ lệ viêm lợi ở nông thôn lớn hơn ở thành thị [47].
9
+ Con người: thói quen hút thuốc, uống rượu .
+ Thức ăn - tính chất: rắn chắc, có sợi, dai, mềm, mỏng, bột... hoặc làm
tăng giảm sự kết dính của mảng bám, sự sừng hố của biểu mơ lợi hay kích
thích tuần hồn máu [45].
+ Nước bọt: thiểu năng nước bọt, khô miệng bệnh viêm lợi sẽ gia tăng [28].
- Bệnh viêm quanh răng:
Bệnh viêm quanh răng tiến triển thầm lặng. Khởi đầu, người bệnh chỉ
cảm thấy miệng hôi hơn binh thường.
Bệnh quanh răng là bệnh rất phổ biến, tỷ lệ mắc rất cao, ở trẻ em chủ yếu
là bệnh viêm lợi [4].
Bệnh quanh răng do nhiều nguyên nhân như thiếu sinh tố, sang chấn
khớp cắn, vi khuẩn và VSRM kém... trong đó vi khuẩn và VSRM kém tạo nên
cặn bám răng là ngun nhân chính.
Cặn bám răng hình thành trên bề mặt răng ngay sau khi ăn. Thành phần
trong cặn bám răng: vi khuẩn chiếm chủ yếu đến 70% trọng lượng, còn 30%
là chất tựa hữu cơ. Các vi khuẩn này xâm nhập vùng quanh răng gây viêm,
phá hủy tổ chức. Tác động của chúng có thể là trực tiếp do hoạt động của vi
khuẩn sản sinh ra các men, nội độc tố, các sản phẩm đào thải... hoặc gián tiếp
do vai trò kháng nguyên của chúng. Viêm lợi xuất hiện rất sớm khi cặn bám
răng hình thành được 7 ngày [5], [26].
1.3. DỊCH TỄ HỌC SÂU RĂNG VÀ VIÊM LỢI
1.3.1. Tình hình sâu răng ở trẻ em
1.3.1.1. Trên Thế giới
Tại hội nghị Alma Ata năm 1978, WHO công bố có hơn 90% dân số Thế
giới mắc bệnh sâu răng và phát động chương trình hành động vì sức khỏe
răng miệng cho con người đến năm 2000 đồng thời có chương trình giúp đỡ
cho tất cả các nước trên thế giới triển khai chương trình này [77]. Các nghiên
cứu cho thấy tỷ lệ sâu răng ở trẻ em chiếm tỷ lệ cao hơn [55]. Qua hai thập
10
kỷ, chương trình này đã phát huy được hiệu quả to lớn ở nhiều quốc gia trong
đó có Việt Nam. Song, do việc triển khai chương trình phịng bệnh răng
miệng phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế - xã hội riêng của mỗi nước
nên kết quả thực hiện chương trình này ở các nước trên thế giới cịn ở nhiều
mức độ khác nhau. Bệnh răng miệng trên thế giới ngày nay có hai khuynh
hướng rõ rệt:
+ Ở các nước phát triển: Từ những năm 1940 đến 1960, tình hình sâu
răng rất nghiêm trọng. Những năm cuối của thập kỷ 1970 tới nay, tình hình
sâu răng tại các nước phát triển có xu hướng giảm dần [61], chỉ số SMT tuổi
12 tại hầu hết các nước này ở mức thấp và rất thấp [72], [73].
+ Ở các nước đang phát triển: ở những năm của thập kỷ 1960, tình hình
sâu răng ở các nước nàythấp hơn nhiều so với các nước phát triển. Chỉ số
SMT trẻ 12 tuổi là 1.0 – 3.0, thậm chí một số nước dưới mức 1.0 như Thái
Lan, Uganda, Zaire [76], thập kỷ 1970 và 1980 chỉ số này lại tăng lên và ở
mức từ 3.0 đến 5.0 và một số nước còn cao hơn như Chi lê là 6.3; French
Polynesia là 10.7 [3],[6]. Nhìn chung, tình trạng sâu răng của các nước đang
1.3.1.2. Ở Việt Nam
Rất cao
(> 6,6)Cao
(4,5 - 6,5)Trung
bình
(2,7 - 4,4)Thấp
(1,2 - 2,6)Rất thấp
(0 - 1,1)SMT
Các nước đang phát triển
Các nước phát triển
phát triển có xu hướng tăng [20].
(12
ti)
Theo Nguyễn Văn Cát
(1983-1984)
tỷ lệ sâu răng ở trẻ 12 tuổi trên toàn
11
quốc năm là: miền Bắc là 19,3%, SMT là 0,40. Ở miền Nam là 76,29%, chỉ số
SMT là 2,51 [35]
Năm 1991, tác giả Võ Thế Quang công bố kết quả điều tra cơ bản bệnh
răng miệng toàn quốc cho thấy sâu răng ở Việt Nam tăng dần theo tuổi cả về
tỷ lệ sâu răng và chỉ số SMT [35]. Kết quả điều tra răng miệng toàn quốc năm
2001 do Trần Văn Trường và Trịnh Đình Hải cơng bố, tình hình sâu răng ở
Việt Nam có xu hướng tăng lên và không đồng đều giữa các vùng miền trong
cả nước [36Error: Reference source not found].
Năm 2001, Trần Văn Trường và Trịnh Đình Hải cơng bố tỷ lệ sâu răng
tuổi ở trẻ em trong kết quả điều tra cơ bản bệnh răng miệng toàn quốc ở tuổi
5-6 tuổi. Tỷ lệ sâu răng sữa là 84,90% chỉ số smt là 5,54 và 12 tuổi tỷ lệ sâu
răng vĩnh viễn là 56,60 % chỉ số SMT là 1,87 [36].
Năm 2010 tác giả Trương Mạnh Dũng và cộng sự (Viện đào tạo răng
hàm mặt - Đại học y Hà Nội) công bố kết quả điều tra cơ bản bệnh răng
miệng các tỉnh thành trong toàn quốc. Tỷ lệ sâu răng sữa ở trẻ 4-8 tuổi là
81,6% chỉ số SMT là 4,74%. Tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn 16,3%, chỉ số SMT là
0,30 [5].
Năm 2014 tác giả Đổ Quốc Tiệp và cộng sự công bố nghiên cứu trên
5804 học sinh tại 17 trường THCS Tp Đồng Hới Quảng Bình tỷ lệ sâu răng
trung bình là 64,7%, SMT là 1,88
Tại Huế Trần Tấn Tài nghiên cứu năm 2014 thấy rằng tỷ lệ sâu răng
chung là 77,6%, trong đó sâu răng sữa là 67,2%, sâu răng vĩnh viễn là 45,2%.
Chỉ số smtr răng sữa chung là 4,25, trong đó, TP Huế là 4,41 và Nam Đơng là
4,0; Chỉ số SMTr răng vĩnh viễn chung là 1,41, trong đó, TP Huế là 1,60 và
Nam Đông là 1,41[25]..
Năm 2015 theo tác giả Nguyễn Anh Sơn khi nghiên cứu ở tỉnh Vĩnh
Phúc cho kết quả tỷ lệ sâu răng là 63,6%, chỉ số SMT chung là 1,64.
Theo Nguyễn Quốc Trung tỷ lệ sâu răng sửa ở nhóm 9 tuổi là 78%, sâu
12
răng vĩnh viễn là 12%.
Năm 2018 Phạm Văn Trọng đã nghiên cứu xác định tỷ lệ sâu răng như
sau: Tỷ lệ sâu răng chung của học sinh 16,7%, nhóm học sinh tuổi từ 9 – 11
sâu răng cao hơn nhóm học sinh tuổi từ 7 – 8, sâu răng sữa 16,7%, sâu răng
vĩnh viễn 5,5% [33].
1.3.2. Tình hình viêm lợi
Theo nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài, bệnh quanh răng ở trẻ
em có tỷ lệ mắc cao, nhiều nơi tỷ lệ này trên 90%. Tuy nhiên bệnh quanh răng
ở trẻ em thường được biểu hiện là viêm lợi. Theo WHO, năm 1978 bình qn
trên thế giới có 80% trẻ em dưới 12 tuổi và 100% trẻ em 14 tuổi bị viêm lợi
mãn [68Error: Reference source not found].
Ở Việt Nam, Võ Thế Quang công bố trong kết quả điều tra cơ bản bệnh
răng miệng năm 1990, tỷ lệ học sinh viêm lợi ở lứa tuổi 12 là 95%, trong đó.
Hà Nội là 84%, Thành Phố Hồ Chí Minh là 100% , Hải Hưng là 100%, Cao
Bằng là 88% [35Error: Reference source not found].
Năm 2001, Trần Văn Trường và Trịnh Đình Hải cơng bố tình trạng
viêm lợi ở trẻ em .Trẻ 6-8 tuổi là 42,7%, trẻ 9-11 tuổi là 69,2%, Trẻ 12 - 14
tuổi là 71,4% [36].
Năm 2010: Tác giả Trương Mạnh Dũng. Viện đào tạo Răng hàm mặt –
Đại học Y Hà Nội cơng bố tình trạng viêm lợi trên toàn quốc ở trẻ 4-8 tuổi:
11,9% [5].
Năm 2015 theo tác giả Nguyễn Anh Sơn khi nghiên cứu ở tỉnh Vĩnh
Phúc cho kết quả tỷ lệ viêm lợi là 81,1%.
Năm 2018 Phạm Văn Trọng đã nghiên cứu xác định tỷ lệ viêm lợi như
sau: Tỷ lệ học sinh mắc bệnh viêm lợi 27%, học sinh nam 32,6%; học sinh nữ
20,4% [33]
1.4. CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ GÂY SÂU RĂNG, VIÊM LỢI Ở HỌC
SINH
13
Theo các tác giả trên thế giới cũng như ở trong nước, các yếu tố nguy cơ gây
sâu răng, viêm lợi được chia thành nhiều nhóm trong đó có 3 nhóm sau [27]:
- Nhóm yếu tố nguy cơ về các đặc trưng cá nhân của trẻ em và cha mẹ
học sinh
- Nhóm yếu tố nguy cơ về yếu tố tự nhiên, môi trường (địa dư, Fluor, độ
cứng nguồn nước sinh hoạt…) [58]
- Nhóm yếu tố nguy cơ về kiến thức, thái độ, hành vi vệ sinh răng miệng.
1.4.1. Nhóm yếu tố nguy cơ về các đặc trưng cá nhân của trẻ em và cha
mẹ học sinh:
Các nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy tỷ lệ sâu răng ở học sinh
nam cao hơn học sinh nữ tuy nhiên cũng có một số tác giả lại không thấy sự
khác biệt về sâu răng giữa nam và nữ [62].
Nghiên cứu của Khan và cộng sự thông báo rằng mỗi học sinh nam cấp tiểu
học có 7 răng cần hàn trong khi mỗi học sinh nữ chỉ có 6 răng cần hàn [53].
Okeigbemen và cộng sự cho biết học sinh thành thị có chỉ số SMT cao
hơn học sinh nông thôn (0.72 so với 0.53), học sinh trường tư thục có chỉ số
SMT cao hơn học sinh trường công lập (0.75 so với 0.59) [66].
David và cộng sự thông báo trẻ em sống ở thành thị có nguy cơ sâu răng
cao gấp 1,5 lần trẻ em ở nơng thơn, trẻ em nghèo có nguy cơ sâu răng cao gấp
1,7 lần trẻ em ở các gia đình giàu [46].
Okullo và CS cho biết học sinh ở nội thành được chăm sóc răng miệng tốt
hơn nên ít bị mất răng hơn học sinh nơng thơn, học sinh có bố mẹ trình độ văn
hóa cao và ít bị các hủ tục chi phối thì có tình trạng răng miệng tốt hơn [67].
Ở Việt Nam, Trần văn Trường và CS thông báo một số yếu tố nguy cơ
sâu răng, viêm lợi về các đặc trưng cá nhân của học sinh [36] như sau:
- Chỉ số smt/SMT của nam cao hơn nữ,
- Học sinh tuổi càng cao thì chỉ số smt /SMT càng cao [36].
Tác giả Phạm Văn Trọng năm 2018 nghiên có sự liên quan giữa tuổi và
bệnh sâu răng, viêm lợi cụ thể: Học sinh có nhóm tuổi từ 9 - 11 có tỷ lệ sâu
răng (7,6%) cao gấp 3,57 lần học sinh sâu răng vĩnh viễn có nhóm tuổi từ 7 -
14
8 (2,3%)học sinh có nhóm tuổi từ 9 - 11 có tỷ lệ sâu răng sữa (20,3%) cao gấp
2 lần học sinh sâu răng sữa có nhóm tuổi từ 7 - 8 (11,3%);học sinh có nhóm
tuổi từ 9 - 11 có tỷ lệ viêm lợi (37,6%) cao gấp 4,73 lần học sinh viêm lợi có
nhóm tuổi từ 7 - 8 (11,3%) (sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê) [33].
1.4.2. Nhóm yếu tố nguy cơ về yếu tố tự nhiên, môi trường (địa dư, Fluor,
độ cứng nguồn nước sinh hoạt…)
+ Về địa dư: Chỉ số smt ở trẻ em 6-8 tuổi: cao nhất ở vùng núi phía Bắc
(6,49) và thấp nhất ở cao nguyên Trung bộ, ở trẻ 9 -11 tuổi cao nhất ở vùng
núi phía Bắc (2,46) và thấp nhất ở cao nguyên Trung bộ (1,35) [36], [17].
Theo Trần Tấn Tài nghiên cứu ở Huế Tỉ lệ sâu răng và chỉ số SMTr đều ở
mức cao, riêng trung bình răng trám ở HS các trường thành phố cao hơn ở
huyện Nam Đông [25] .
+ Fluor: Từ năm 1958, WHO đã kết luận nước uống có nồng độ Fluor
khoảng 1ppm là có khả năng làm giảm tỷ lệ sâu răng, Fluor hóa nước uống là
biện pháp y tế cơng cộng có hiệu quả và có thể thực hiện được trong chiến
lược dự phịng sâu răng trên tồn cầu [76].
Tác dụng của fluor trong phòng bệnh sâu răng [35]: Việc khuếch tán liên
tục Fluor nồng độ thấp vào xoang miệng làm tăng sự tái khống hóa của men
răng. Fluor cịn ức chế q trình chuyển hóa đường của vi khuẩn và chính sự
chuyển hóa này làm biến đổi đường thành axit dưới tác động của vi khuẩn.
Trong quá trình phát triển của răng, fluor kết hợp với những tinh thể
Hydroxyapatite của men răng đang phát triển, làm giảm khả năng hòa tan của
men răng
- Theo Harthrler (1980), Fluor vào cơ thể càng sớm càng tốt, cho trẻ em
từ 1-3 tuổi uống nước được Fluor hóa thì giảm71% sâu răng ở các mặt láng và
giảm 40% sâu răng ở các hố rãnh [78].
- Ở Việt Nam năm 1991 đã thực hiện điều chỉnh nồng độ Fluor đến tối
ưu cho sức khỏe của răng tại Nhà máy nước Thủ Đức - Thành phố Hồ Chí
Minh, sau 3 năm giảm sâu răng 30% ở trẻ 12 tuổi [39].
1.4.3. Nhóm nguy cơ về kiến thức, thái độ, hành vi VSRM
15
Theo một số nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước, các yếu tố nguy
cơ về kiến thức, thái độ, hành vi VSRM như hiểu biết về sâu răng, viêm lợi,
khám định kỳ răng miệng, thói quen chải răng, thời gian thay bàn chải đánh
răng…có sự liên quan chặt chẽ đến tình trạng sâu răng, viêm lợi [16].
- Rao và CS cho biết tại Ấn Độ có đến 59,2-62% học sinh có chải răng ít
nhất 1 lần/ngày nhưng chỉ có 5,1-13,6% sử dụng kem đánh răng, 3,1% dùng
tay làm sạch răng và 21% dùng tro và than để đánh răng hàng ngày [41].
- Okeigbemen và CS thông báo có 95,8% học sinh có sử dụng bàn chải đánh
răng nhưng 81% học sinh chưa bao giờ được khám răng tại các cơ sở y tế [66].
- David và cộng sự cho rằng trẻ em không sử dụng bàn chải đánh răng
thì có nguy cơ sâu răng cao gấp 1,9 lần những trẻ khác [21], [34].
- Trần Văn Trường và CS cũng thông báo về tỷ lệ học sinh Việt Nam có
chải răng, dùng kem đánh răng, số lần chải răng trong ngày và mơ tả hành vi
chăm sóc răng miệng [21] [36].
Chế độ ăn nhiều carbo-hydrat cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ sâu răng [70]
Bảng 1.1. Tỷ lệ học sinh chăm sóc răng miệng ở việt Nam năm 2001
Tuổi
6-8
9-11
12-14
15-17
Chải răng
Dùng kem
hôm truớc
chải răng
87,1
91,9
97,8
99,5
94,5
92,2
90,4
93,2
Dùng
Chải răng
Chưa từng
nuớc súc
1 lần
đuợc khám
miệng
45,1
47,6
45,0
38,7
/ngày
41,7
42,6
41,1
42,4
răng
63,3
61,6
74,0
69,6
- Trần Tấn Tài 2014 kết luận học sinh bị bệnh sâu răng chưa nghe nói về
bệnh răng miệng gấp 2,44 lần so với học sinh không bị sâu răng (KTC 95%: 1,135,31, p<0,05). Học sinh bị bệnh sâu răng có số lần chải răng trong ngày < 3 lần
gấp 10 lần so với học sinh không bị sâu răng (KTC 95%: 2,34-42,78; p<0,001).
Học sinh bị bệnh sâu răng có thời gian thay bàn chải trên 3 tháng gấp 4,5 lần so
16
với học sinh không bị sâu răng (KTC 95%:2,21-9,37; p<0,001). Học sinh bị bệnh
sâu răng dùng tăm xỉa răng gấp 2,44 lần so với học sinh không bị sâu răng (KTC
95%: 1,36-4,36; p<0,01). Học sinh bị bệnh sâu răng không súc miệng đều đặn sau
bữa ăn gấp 100 lần so với học sinh không bị sâu răng (KTC 95%:13,95-716,91;
p<0,001). Học sinh bị bệnh sâu răng có sở thích uống nước ngọt gấp 1,86 lần so
với học sinh không bị sâu răng (KTC 95%: 1,09-3,16; p<0,05). - Học sinh bị bệnh
sâu răng có thói quen ngậm thức ăn gấp 2 lần so với học sinh không bị sâu răng
(KTC 95%: 1,05-3,80; p<0,05) [25].
- Phạm Văn Trọng năm 2018 kết luận nhóm học sinh có thực hành
VSRM trung bình, kém có nguy cơ mắc sâu răng sữa cao gấp 2,84 lần so với
nhóm học sinh có thực hành VSRM tốt; có nguy cơ mắc sâu răng vĩnh viễn
gấp 1,52 lần so với nhóm học sinh có thực hành VSRM tốt và có nguy cơ mắc
bệnh viêm lợi cao gấp 1,46 lần so với nhóm học sinh có thực hành VSRM tốt,
sự chênh lệch có ý nghĩa thống kê (p<0,05) [33]
1.5. MỘT SỐ BIỆN PHÁP DỰ PHỊNG SÂU RĂNG, VIÊM LỢI
1.5.1. Dự phịng sâu răng
Từ những hiểu biết về nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của sâu răng,
WHO đã đưa ra một số biện pháp phòng bệnh sâu răng chủ yếu [64] .
- Sử dụng Fluor [74]:
Fluor hoá nguồn cung cấp nước cơng cộng với độ tập trung Fluor từ
0,7mgF/lít đến 1,2 mgF/lít nước mà độ tập trung tối ưu tuỳ thuộc vào khí hậu.
Đưa Fluor vào muối với độ tập trung fluor là 250 mgF/1kg muối.
Dùng viên fluor.
Fluor hoá nguồn cung cấp nước ở trường học với độ tập trung fluor cao
hơn mức độ tập trung fluor tối ưu trong nước công cộng 4,5 lần [75].
Súc miệng với các dung dịch Fluor pha loãng: [55], Cho trẻ em súc
miệng hàng ngày với dung dịch fluor 0,05% hoặc súc miệng mỗi tuần 1 lần
với dung dịch fluor 0,2 %.
17
Dùng kem đánh răng có fluor, dùng gel fluor hoặc vecni fluor, sử dụng
phối hợp các dạng fluor [63].
- Trám bít hỗ rãnh: Áp dụng đối với các mặt nhai để ngăn ngừa sâu ở
hố răng sau khi răng vinh viễn mọc.
- Chế độ ăn uống hợp lý: Kiểm soát các thức ăn và đồ uống có đường
bao gồm các biện pháp dưới đây:
Kiểm sốt các thực phẩm có đường ở trường học, giảm dần số lần ăn
các thực phẩm có đường [73].
Giảm mức độ tiêu thụ đường ở tầm quốc gia
Dùng các sản phẩm thay thế đường: xylitol, malnitol .
- Hướng dẫn vệ sinh răng miệng:
+ Các biện pháp được giám sát chặt chẽ ở trường bao gồm chải răng và
dùng chỉ nha khoa.
+ Các biện pháp không giám sát được như thực hiện chải răng và các
biện pháp VSRM khác ở nhà.
Tuy vậy, tuỳ theo đặc điểm cụ thể mà mỗi nước, thậm chí các khu vực
trong một nước cũng phải lựa chọn các biện pháp khác nhau cho phù hợp với
thực tiễn ở từng nước và từng khu vực [30], [64].
- Mục tiêu dự phòng sâu răng:
Từ năm 1979 đến năm 1994, WHO đã nhiều lần đưa ra các mục tiêu và
bổ sung các mục tiêu toàn cầu về dự phòng sâu răng [11], [28].
18
Bảng 1.2. Mục tiêu tồn cầu dự phịng sâu răng trẻ em cho năm 2020
Lứa tuổi
Mục tiêu
5-6
90% trẻ em không bị sâu răng
12
Răng sâu mất trám <1
18
100% giữ được toàn bộ răng
Ở Việt Nam, mục tiêu của chương trình nha học đường là đạt được mục
tiêu về dự phòng sâu răng của WHO và đảm bảo ít nhất 80% học sinh tiểu học
và trung học cơ sở được CSRM ổn định, dài lâu qua chương trình nha học
đường [27].
1.5.2. Dự phòng viêm lợi
* Các biện pháp can thiệp [10], [26].
- Chải răng đúng cách: Các kỹ thuật chải răng phải đáp ứng được các
yêu cầu sau:
+ Làm sạch được tất cả mặt răng, đặc biệt là vùng rãnh lợi và kẽ răng.
+ Việc di chuyển bàn chải không được làm tổn thương tổ chức mềm và
tổ chức cứng.
+ Kỹ thuật phải đơn giản và dễ học, dễ hướng dẫn cho cộng đồng.
+ Có hai kỹ thuật chải răng được nhiều người ưa chuộng là kỹ thuật
cuốn (the rool technique) được dùng khi lợi nhạy cảm và kỹ thuật Bass (the
Bass technique) được dùng khi lợi lành mạnh.
- Làm sạch kẽ răng bằng chỉ tơ nha khoa, bàn chải kẽ.
- Phương pháp phun tưới.
- Kiểm soát cặn bám răng bằng phương pháp hố học: Là biện pháp
dùng nước súc miệng có tác dụng lên mảng bám răng.
- Khắc phục sửa chữa các sai sót: Bao gồm sửa chữa lại các răng hàn
hoặc phục hình sai quy cách, tạo điểm tiếp giáp giữa các răng …
- Đảm bảo chế độ ăn uống: Thiếu hụt dinh dưỡng phối hợp với mảng bám
răng sẽ làm tăng quá tình viêm lợi vì vậy cần phải có chế độ ăn cân bằng [71].
- Tun truyền phịng bệnh răng miệng: Việc tuyên truyền phòng bệnh
19
giúp cho trẻ em trong cộng đồng có kiến thức, hiểu biết và từ đó có thay đổi
về nhận thức, quan điểm dẫn đến thay đổi về thói quen trong CSRM.
* Mục tiêu can thiệp dự phòng bệnh quanh răng:
Tổ chức Y tế Thế giới đã đặt ra mục tiêu cho năm 2000: 90% số người
ở lứa tuổi 18 có sức khoẻ lợi ở mức chấp nhận được, tức là mỗi người có ít
nhất ba vùng lục phân lành mạnh (CPITN 0) [34], [49].
Ở Việt Nam, mục tiêu từ năm 2000 đến năm 2010 là giảm tỷ lệ trẻ em
viêm lợi xuống 50% so với năm 1990 [12], [36].
1.5.3. Chương trình nha học đường
Trong khoảng hai thập niên trở lại đây, các nước phát triển đã thành
công trong việc giảm tỷ lệ sâu răng nhờ vào các biện pháp phòng bệnh sâu
răng hữu hiệu, đó là việc sử dụng fluor trong cộng đồng [63], đặc biệt là trong
trường học. Xây dựng chương trình phịng chống sâu răng, viêm lợi hiệu quả
bằng chăm sóc răng miệng trẻ em trong nhà trường là giải pháp tốt nhất. Đây
chính là cách thức mà Việt Nam và các nước đang phát triển dang triển khai
thực hiện.
Ở nước ta, chương trình nha học đường đã được tiến hành từ đầu những
năm 1980 ... Đến nay đã được thực hiện ở 64 tỉnh thành với 3 nội dung can
thiệp [39]:
- Nội dung 1: Giáo dục nha khoa hướng dẫn học sinh phương pháp chải
răng và các biện pháp khác làm sạch răng, giữ gìn VSRM. Khắc sâu thói quen
chải răng hàng ngày và kỹ năng chải răng đúng cho trẻ em.
- Nội dung 2: Cho học sinh súc miệng nước có fluor 0,2% tại trường
học mỗi tuần một lần.
- Nội dung 3: Dự phòng lâm sàng bao gồm khám và VSRM răng miệng
định kỳ, trám bít hố rãnh, lấy cao răng, điều trị viêm lợi, hàn răng sâu sớm,
nhổ răng sữa thay...
Tuy nhiên còn tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng địa phương mà triển
20
khai các nội dung ở các mức độ khác nhau cho cho phù hợp và đạt hiệu quả
cao nhất.
Chăm sóc dự phòng bệnh răng miệng cho trẻ em là tạo điều kiện để cỏ
một thế hệ sau này có sức khỏe răng miệng tốt. Sau thời gian 20-30 năm, các
khảo sát cho thấy tỷ lệ sâu răng, viên lợi trung bình của trẻ em trong độ tuổi
học đường tại các nước trên giảm xuống đáng kể.
Với kinh nghiệm và kết quả phịng bệnh ở các nước cơng nghiệp hóa
cao, vớỉ thực trạng các bệnh răng miệng ở trẻ em nước ta, với khuyến cáo của
WHO, Việt Nam đã triển khai chương trình Nha học đường với quy mơ tồn
quốc từ năm 1980.
1.6. Các kết quả nghiên cứu về công tác nha học đường của Thế giới và
Việt Nam
Mahmosud K. Al – Omiri và CS nghiên cứu ở 557 học sinh độ tuổi trung
bình là 13,5 ở một trường học phía Bắc Jordan, báo có cho thấy 83,1% học
sinh có dùng bàn chải đánh răng và kem đánh răng để VSRM: 36,4% chải
răng buổi sáng; 52,6% chải răng buổi tối trước khi đi ngủ và 17,6% chải răng
cả buổi sáng và buổi tối trước khi đi ngủ. Có 66% học sinh đi khám răng
miệng định kỳ, 46,9% chỉ đến nha sỹ khi đau và 20,1% ít khi hoặc khơng bao
giờ đến nha sỹ [57]
Zhu L và CS nghiên cứu ở 4400 học sinh từ 12 – 18 tuổi ở Trung Quốc
thấy 44% HS chải răng ít nhất 2 lần/ ngày nhưng chỉ có 17% có sử dụng thuốc
đánh răng có fluor; 29% học sinh 12 tuổi chỉ đến khám bác sỹ khi răng đã bị
đau [78].
Năm 2018 Leon Bilder và cộng sự nghiên cứu trên 1100 trẻ em tại cộng
hòa Maldova về các kiến thức về bệnh sâu răng và viêm lợi [56]
Ở Việt Nam, một số cơng trình nghiên cứu đã cơng bố.
- Trịnh Đình Hải (2000), Hiệu quả chăm sóc răng miệng trẻ em học
đường trong sâu răng và bệnh quanh răng tại Hải Dương. Nội dung can thiệp:
21
(1) Giáo dục khoa, hướng dẫn chải răng, (2) súc miệng fluor 0,2% tại trường
mỗi tuần một lần, (3) dự phòng lâm sàng: lấy cao răng, điều trị viêm lợi, hàn
răng. Kết quả: Giảm sâu răng, viêm lợi, cải thiện tình trạng VSRM [10].
Theo nghiên cứu của Trần Thị Mỹ Hạnh năm 2006 đã đánh giá KAP học
sinh lứa tuổi 7 – 11 tại trường tiểu học Thanh Liệt Hà Nội cho kết quả: Về
kiến thức 81,6% các em đạt điểm khá giỏi. Khơng có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về kiến thức răng miệng giữa nam và nữ [13]
Năm 2008 Chu Thi Vân Ngọc đã nghiên cứu đánh giá KAP ở học sinh
trường học có sở lứa tuổi 11-14 tại Hoàng Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội cũng cho
thấy: có 84,6% học sinh đạt điểm kiến thức phịng bệnh loại khám tất cả học
sinh đều có bàn chải đánh răng và sử dụng thuốc đánh răng, có 85,6% học
sinh chải răng thường xuyên vào buổi sáng và buổi tối trước khi đi ngủ, đồng
thời tác giả cũng xác định có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa sâu răng
viêm lợi và tình hình VSRM đúng cách là đề phòng sâu răng. Về thực hành:
90,9% đã từng đi khám răng, 94% chải răng ít nhất 2 lần/ngày. 70% chải răng
từ 1 -3 phút, tuy nhiên chỉ có 43,3% chải răng đúng cách. [38]
- Đào Thị Ngọc Lan (2002), nghiên cứu thực trạng bệnh răng miệng của
học sinh tiểu học các dân tộc tỉnh Yên Bái và một số biện pháp can thiệp cộng
đồng. Nội dung can thiệp: (1) Giáo dục nha khoa, hướng dẫn chải răng, (2)
súc miệng fluor 0,2% tại trường mỗi tuần một lần, (3) dự phòng lâm sàng: lấy
cao răng, hàn răng. Kết quả: Giảm sâu răng, viêm lợi, KAP của học sinh về
bệnh RM có hiệu quả rõ rệt. [17]
- Dương Thi Truyền (2005), nghiên cứu hiệu quả một số biện pháp chăm
sóc sức khỏe ban đầu cho học sinh tại An Giang. Nội dung can thiệp: (1) Giáo
dục nha khoa, hướng dẫn chải răng, (2) súc miệng fluor 0,02% tại trường mỗi
tuần một lần, (3) khám điều trị sớm, trám bít hố rãnh. Kết quả: Giảm sâu răng,
viêm lợi, cải thiện tình trạng VSRM, KAP của học sinh về bệnh RM có hiệu
quả rõ rệt. [37]
22
- Đào Thị Dung (2007), đánh giá hiệu quả can thiệp chương trình nha
học đường tại một số trường tiểu học quận Đống Đa Hà Nội. Can thiệp bằng
cả 4 nội dung của NHĐ (giáo dục nha khoa, súc miệng fluor tại trường, khám
và điều trị sớm, trám bít hố rãnh dự phòng sâu răng). Kết quả: giảm sâu răng
44,01%, viêm lợi 58,6%, giảm biến chứng viêm tủy [4]
Năm 2012, Lê Anh Tuấn, Đánh giá thực trạng bệnh sâu răng, viêm lợi ở
học sinh từ 6 đến 11 tuổi tại tỉnh Ninh Thuận năm 2012 kết quả: Tỷ lệ sâu
răng sữa của học sinh 6-11 tuổi là 80,1%, chỉ số smt là 4,46. Tỷ lệ sâu răng
sữa có xu hướng giảm dần theo tuổi. Tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn học sinh 6-11
tuổi là 23,3%, chỉ số SMT là 0,52. Tỷ lệ SRVV có xu hướng tăng dần theo
tuổi. Tỷ lệ viêm lợi của học sinh 6-11 là 44,3 % ở mức trung bình.
Năm 2014, Trần Tấn Tài, nghiên cứu thực trạng bệnh sâu răng và hiệu
quả can thiệp cộng đồng của học sinh tại một số trường tiểu học ở Thừa thiên
Huế thấy Tỷ lệ sâu răng chung là 77,6%, trong đó sâu răng sữa là 67,2%, sâu
răng vĩnh viễn là 45,2%. Chỉ số smtr răng sữa chung là 4,25, trong đó, TP
Huế là 4,41 và Nam Đơng là 4,0; Chỉ số SMT răng vĩnh viễn chung là 1,41,
trong đó, TP Huế là 1,60 và Nam Đơng là 1,41. Tỷ lệ sâu răng mới trong
nhóm can thiệp là 25,7%, nhóm chứng là 56,6% ( p <0,01). - Tỷ lệ sâu răng
sữa, răng vĩnh viễn, cao răng, mảng bám răng ở nhóm can thiệp đều thấp hơn
nhóm đối chứng có ý nghĩa (p<0,01), trừ viêm lợi với sự khác biệt ở mức
p<0,05. - Hiệu quả can thiệp thể hiện rõ nhất với viêm lợi (HQCT =161,0),
sau đó đến mảng bám răng (HQCT =90,1), tiếp đó đến sâu răng chung
(HQCT = 30,9) [25].
Năm 2015 theo tác giả Nguyễn Anh Sơn khi nghiên cứu ở tỉnh Vĩnh
Phúc cho kết quả tỷ lệ sâu răng là 63,6%, chỉ số SMT chung là 1,64.
Theo Nguyễn Quốc Trung tỷ lệ sâu răng sửa ở nhóm 9 tuổi là 78%, sâu
răng vĩnh viễn là 12% [32].
Năm 2018 Phạm Văn Trọng đã nghiên cứu xác định tỷ lệ sâu răng như
23
sau: Tỷ lệ sâu răng chung của học sinh 16,7%, nhóm học sinh tuổi từ 9 – 11
sâu răng cao hơn nhóm học sinh tuổi từ 7 – 8, sâu răng sữa 16,7%, sâu răng
vĩnh viễn 5,5% [33].
Năm 2018 Tác giả Lê Quang Vương đánh giá thực trạng sâu răng và một
số yếu tố liên quan từ phía bà mẹ của học sinh trường tiểu học thị trấn Nông
Cống tỉnh Thanh Hóa tỷ lệ sâu răng là 62,7%, trong đó sâu răng sữa là 68,5%,
sâu răng vĩnh viễn là 31,5%, SMT răng sữa 1,96, SMt răng vĩnh viễn là
0,4[41].
24
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5
- Tiêu chuẩn lựa chọn:
Học sinh:
- Học sinh tiểu học từ 7 - 11 tuổi
- Học sinh hợp tác khám và trả lời phỏng vấn
- Học sinh khỏe mạnh đi học trong thời gian khám và phỏng vấn
- Tiêu chuẩn loại trừ:
Học sinh:
- Học sinh ngồi nhóm tuổi nghiên cứu
- Học sinh không hợp tác khám và trả lời phỏng vấn
- Học sinh đang mắc bệnh cấp tính
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
Trường tiểu học Nguyễn Du - Thành phố Hà Tĩnh - Tỉnh Hà Tĩnh
Trường tiểu học Nguyễn Du - Thành phố Hà Tĩnh - Tỉnh Hà Tĩnh là một
trường nằm ở trung tâm Thành phố Hà Tĩnh, trường có 1137 học sinh, gồm 5
khối, mỗi khối 6 lớp học (mỗi lớp có từ 34 - 38 em). Trường tiểu học Nguyễn
Du - Thành phố Hà Tĩnh - Tỉnh Hà Tĩnh là trường mới thành lập hơn 10 năm,
nằm trong khu vực dân cư đơng đúc, người dân có dân trí cao, nhiều cán bộ
viên chức sinh sống tại khu vực này.
2.1.3 Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 1/2020 đến tháng 12/2020
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kể nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang.
25
2.2.2. Cỡ mẫu và cách chọn cỡ mẫu
* Cỡ mẫu:
Sử dụng cơng thức tính cỡ mẫu cho điều tra mơ tả cắt ngang, xác định tỷ
lệ:
n = Z21-a/2
p.q
.k
d2
Trong đó:
n: cỡ mẫu cần chọn
Z1-a/2 = 1,96 ở mức độ ý nghĩa thống kê 95%
p: tỷ lệ mắc bệnh răng miệng của trẻ em 6 - 12 tuổi (p = 0,75)
q= 1 - p
d: độ chính xác mong muốn của kết quả nghiên cứu, d = 0,05.
Lấy p = 0,75 theo kết quả điều tra sức khỏe răng miệng toàn quốc 2010,
ta tính được n = 288, để dự phịng đảm bảo cho cỡ mẫu ta cộng thêm 10%,
thực tế mẫu nghiên cứu là 330 học sinh.
* Kỹ thuật chọn mẫu
Chọn mẫu theo nhiều giai đoạn
- Chọn có chủ đích
+ Trường tiểu học Nguyễn Du - Tp Hà Tĩnh
- Chọn khối, lớp:
+ Sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng, mỗi tầng là 1
khối trong 5 khối (Từ khối lớp 1 đến khối lớp 5).
+ Chọn ngẫu nhiên 2 lớp trong mỗi khối bằng phương pháp chọn ngẫu
nhiên đơn. Chọn tất cả học sinh của lớp được chọn trong mỗi khối. Ước lượng
như vậy chúng tôi sẽ chọn được từ 340 đến 380 học sinh vào điều tra, số
lượng này thỏa mãn cở mẫu tối thiểu.
2.3. Nội dung và biến số nghiên cứu
* Các biến số nghiên cứu