Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1990 - 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.58 KB, 12 trang )

THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1990 - 2004
I. thực trạng phát triển kinh tế trong giai đoạn 1990 - 2004
1. Giai đoạn 1991 - 1995
Giai đoạn này đánh dấu một mốc quan trọng đối với kinh tế Việt
Nam, là giai đoạn nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất từ trước tới
nay. GDP tăng bình quân năm là 8,2% từ 1991 - 1995. Đặc biệt nổi bật là
sự tăng trưởng của ngành công nghiệp, trong giai đoạn này giá trị sản
lượng công nghiệp tăng trưởng bình quân là 13,4%/năm, lạm phát được
đẩy lùi từ 67,7% năm 1991 lên 18,2%/GDP năm 1995, tổng đầu tư toàn
xã hội tăng từ 15,1% GDP năm 1991 lên 27,1% GDP năm 1995; cơ cấu
kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hoá: năm 1991 tỷ
trọng các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ tương ứng là 23,5;
40,5%; 36% đến năm 1995 thay đổi cơ cấu trong 3 ngành đó là: 27,2%;
28,8%; 44,1%. Xuất khẩu tăng mạnh hơn 2 lần từ 1991 là 2,042 tỷ đô la
đến 1995 là 5,2 tỷ đô la.
Nguyên nhân của sự tăng trưởng giai đoạn 1991 - 1995
Nguyên nhân bao trùm của tốc độ tăng trưởng cao trong giai đoạn
này la những cải cách mạnh mẽ vào cuối những năm 80.
Từ sự kiện đổi mới Đại hội VI năm 1986 đến năm 1990, Việt Nam đã liên tục thực hiện cải
cách, mở cửa theo hướng cơ chế htị trường, những chủ trương đó đã phát huy mạnh mẽ tiềm lực
trong nước, tạo điều kiện cho mọi ngời dân, mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động sản xuất
kinh doanh theo cơ chế thị trường; thu hút nhanh vốn đầu tư nước ngoài, từ năm 1993 có nguồn tài
trợ ODA là những nguyên tố quan trọng tăng nguồn đầu tư trong khi tiết kiệm và đầu tư trong
nước thấp. Ngoài ra từ năm 1988, Việt Nam xuất hiện một ngành mới là khai thác dầu thô, trong
năm 1989, dầu thô đã đóng góp 7,2% tổng thu ngân sách 1,1% GDP trong các năm 1990 - 1991,
dầu thô đã đóng góp tới 13,1% và 20,8% tổng thu ngân sách 2,0% và 2,8% GDP. Xuất khẩu dầu
thô đã thu hút được nguồn thu gần đủ để bù đắp cắt giảm viện trợ của khối Liên Xô cũ. Cũng với
đó là Việt Nam đã nhanh chóng tìm ra thị trường mới để tăng giá trị xuất khẩu, hàng hóa, nên về
nguyên tắc, sự sụp đổ của khối Liên Xô cũ không ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế nước ta.
2. Giai đoạn 1996 - 1999


Nếu như giai đoạn 1991 - 1995 nền kinh tế Việt Nam tăng nhanh và
ổn định, thì bắt đầu từ năm 1996, đã bộc lộ nhiều yếu kém nội tại của
nền kinh tế. Tốc độ tăng GDP đã giảm từ năm 1996, sau đó giảm rất
nhanh xuống 4,8% năm 1999 từ 9,45 năm 1995. Từ năm 1996, thì những
chính sách "cởi trói" của các năm cuối thập kỷ 80 không còn phát huy
tác dụng như những năm 1991 - 1995. Sau một giai đoạn nền kinh tế
phát triển nhanh có nghĩa tăng mạnh các lực lượng sản xuất, htì nó cũng
đỏi hỏi các dịnh chế, các chính sách cần đổi mơi để phù hợp với nền
kinh tế thị trường ở nước ta cao hơn.
Hệ quả tất yếu la mức độ chậm chạp trong việc cải thiện năng lực
cạnh tranh vốn đã yếu kém của sản phẩm Việt Nam trên thị trường cả
trong lẫn ngoài nước, cơ cấu kinh tế bất hợp lý, xảy ra tình trạng không
cân đối giữa cung và cầu. Hệ số ICOR tăng nhanh (từ khoảng 2,8 - 3,5
trong thời kỳ 1990 - 1996 lên 4,9 - 5,4 trong các năm 1998 và 1999) là
một trong những bằng chứng rõ nhất của tình trạng hoạt động kém hiệu
quả của nền kinh tế giai đoạn 1996 - 1999
3. Giai đoạn 2000 - 2004
Trên cơ sở tình hình phát triển kinh tế - xã hội 3 năm 2001 - 2003
và những dự báo khả năng thực hiện kế hoạch năm 2004 như trên, có thể
sơ bộ đánh giá tình hình thực hiện các mục tiêu va nhiệm vụ 4 năm 2001
- 2004 so với kế hoạch 5 năm như sau:
Nền kinh tế vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá và ổn định;
nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân 4 năm 2001 - 2004 khoảng 7,2%
(năm 2001 tăng 6,9%, năm 2002 tăng 7,1% năm 2003 tăng 7,3%, năm
2004 tăng 7,6%); tuy thấp hơn 0,3% só với mức kế hoạch bình quân
chung 5 năm 2001 - 2005; nhưng trong điều kiện khó khăn cả ở trong và
ngoài nước thì mức tăng trưởng đạt được 4 năm qua là một cố gắng rất
lớn; đây là mức tăng trưởng khá cao so với các nước trong khu vực.
Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân trong 4 năm
(2001 - 2004) là 5,2% (kế hoạch là 4,8%). Tuy nhiên, giá trị tăng thêm

(GDP nông nghiệp) dự kiến chỉ đạt khoảng 3,4%, thấp hơn mục tiêu đề
ra (mục tiêu 5 năm là 4%/năm).
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân trong 4 năm (2001 -
2004) tăng 15,3%, (kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 là 13,1%). Tuy nhiên,
do chi phí sản xuất còn cao nên giá trị tăng thêm của công nghiệp bình
quân 4 năm chỉ đạt 10%, thấp hơn kế hoạch (kế hoạch 5 năm là 10,4%).
Giá trị các ngành dịch vụ tăng bình quân 4 năm khoảng 7,2%, thấp
hơn so với mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2001- 2005 đề ra là 7,5%. Giá
trị tăng thêm bình quân 4 năm đạt 6,6% (mục tiêu kế hoạch 5 năm la
6,8%).
Tính chung 4 năm, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 77 tỷ USD,
tốc độ tăng xuất khẩu bình quân 4 năm là khoảng 14,6% (năm 2001 tăng
4,1%, năm 2002 tăng 11,2%; năm 2003 tăng 20,8%; năm 2004 tăng 24%)
(kế hoạch 5 năm là 104 - 110 tỷ USD, tăng 14 - 16%). Kim ngạch xuất
khẩu bình quân đầu người năm 2004 đạt trên 305 USD/người, tuy còn ở
mức thấp nhưng đã thuộc loại các nước có nền ngoại thương phát triển.
Ước tổng vốn đầu tư đưa vào nền kinh tế 4 năm 2001 - 2004 (tính
theo giá 2000) khoảng 731 nghìn tỷ đồng, đạt khoảng 88% kế hoạch 5
năm đề ra. Trong đó, vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước chiếm
21,9%; vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước chiếm 14,7%; vốn đầu tư của
Doanh nghiệp Nhà nước chiếm 17,7%; vốn đầu tư của tư nhân và dân cư
chiếm 25,7%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 17,3%. Trong 4
năm 2001 - 2004 cam kết ODA dự kiến đạt khoảng 10,5 tỷ USD; giải
ngân ODA ước đạt khỏng 6,2 tỷ USD.
Thu ngân sách Nhà nước 4 năm qua đạt khá, tỷ lệ huy động vào
ngân sách trung bình là 22,7% GDP.
Tình hình giá cả có biến dộngvà diễn biến phức tạp. Chỉ số giá tiêu
dùng tăng bình quân 4 năm khoảng 4,5%/năm (kế hoạch là dưới 5%).
Tạo việc làm mới trong 4 năm cho 5,9 triệu lao động (kế hoạch 5
năm là 7,5 triệu lao động); tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2004 giảm xuống còn

8,3% (kế hoạch đến năm 2005 là 22 - 25%).
Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi đến cuối năm 2004 là 26%
(kế hoạch đến năm 2005 là 22 - 25%).
Tỷ lệ hộ được dùng nước sạch ở nông thôn đến cuối năm 2004 là
58% (kế hoạch đến cuối 2005 là 62%)
Mức tăng trưởng trong 4 năm qua tuy khá, nhưng với quy mô nền
kinh tế nước ta còn quá nhỏ bé thì tốc đọ tăng trưởng như vậy còn quá
thấp để có thể rút ngắn khoảng cách so với các nước trong khu vực. Điều
đó đòi hỏi cần có sự phấn đấu cao hơn, bứt phá mạnh hơn trong các năm
tới, trước mắt là năm 2005 để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững và
có hiệu quả.
4. Tổng quan về sự phát triển của công nghiệp
Trong những năm qua công nghiệp đã đạt được những thành tựu
đáng kể, góp một phần lớn đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, do phát huy
được lợi thế so sánh trong việc khai thác tài nguyên và phát huy lợ thế về
sử dụng nguồn lao động. Những kết quả đó là sự cố gắng rất lớn của nền
kinh tế nói chung và của ngành công nghiệp nói riêng.
Tỷ lệ công nghiệp chiếm trong tổng sản phẩm trong nước từ
21,85% năm 1995, đến năm 1998 đã tăng lên 26,84% (nếu kể cả xâydựng
tỷ lệ này tương ứng là 28,72% và 32,59%). Đến năm 2004 tỷ trọng công
nghiệp trong GDP tăng lên 39,3% năm 2005 ước đạt 42%.
Công nghiệp đã góp phần quan trọng trong tăng giá trị xuất khẩu
của quốc gia, chiếm khoảng 60% trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu
của cả nước. Một số sản phẩm xuất khẩu có giá trị kim ngạch lớn là: dầu
thô, hàng dệt may, hàng da giầy, hàng nông sản chế biến. Gần đây kim
ngạch xuất khẩu sản phẩm linh kiện điện tử cũng đã đạt trên 500 triệu
USD.
Ngành công nghiệp khai thác: Trong những năm vừa qua công
nghiệp khai thác đã phát triển mạnh, đặc biệt là ngành khai thác dầu khí,

×