Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

LÍ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG KHÁCH SẠN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.13 KB, 14 trang )

LÍ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG
KHÁCH SẠN
1.1 CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KHÁCH SẠN VÀ KINH DOANH KHÁCH SẠN.
1.1.1 Khái niệm về khách sạn.
Khách sạn là kết quả của sự phát triển nhiều thế kỷ về văn minh và xã hội.
Trước kia khách sạn chỉ được dùng cho giới giàu sang, nhưng cùng với sự phát
triển của ngành kinh tế thì du lịch và lưu trú khách sạn đã trở thành hiện tượng phổ
biến.
Khách sạn là cơ sở phục vụ lưu trú phổ biến đối với mọi khách du lịch.
Chúng sản xuất, bán và trao cho khách du lịch những dịch vụ, hàng hóa nhằm đáp
ứng nhu cầu của họ về chỗ ngủ, nghỉ ngơi, ăn uống, chữa bệnh, vui chơi,…phù hợp
với mục đích và động cơ của chuyến đi. Chất lượng và sự đa dạng của dịch vụ
hàng hóa trong khách sạn xác định thứ hạng của nó. Mục đích hoạt động là thu
được lợi nhuận ( Bài giảng kinh tế khách sạn- du lịch).
Tuy nhiên, cùng với sự nâng cao đời sống vật chất tinh thần cuả người dân
cũng như sự phát triển mạnh mẽ của du lịch, thì hoạt động kinh doanh khách sạn
ngày càng phong phú đa dạng từ đó làm giàu thêm nội dung khách sạn. Tùy thuộc
vàoloại hạng khách sạn mà có thể cung cấp các mức chất lượng và các loại dịch vụ
khác nhau.
Khách sạn là cơ sở lưu trú đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng và tiện nghi cần
thiết phục vụ khách du lịch lưu trú, đáp ứng mọi nhu cầu của khách ăn uống, vui
chơi, giải trí của khách vãng lai và khách địa phương. Như vậy, kinh doanh khách
sạn nhằm vào đối tượng chính của khách du lịch. Trong đó hoạt động kinh doanh
chủ yếu của nó là kinh doanh lưu trú. Ngoài ra kinh doanh khách sạn còn phục vụ
nhu cầu ăn uống, dịch vụ bổ sung cho dân cư địa phương.
1.1.2 Đặc điểm kinh doanh khách sạn.
a) Hoạt động kinh doanh khách sạn phụ thuộc vào điều kiện tài nguyên du
lịch ở các vùng du lịch.
Tài nguyên du lịch là một trong những cơ sở để tạo nên vùng du lịch. Vì
khách du lịch với mục đích sử dụng "tài nguyên" du lịch mà nơi ở thường xuyên
không có. Số lượng tài nguyên vốn có, chất lượng của chúng và mức độ kết hợp


với loại tài nguyên trên lãnh thổ có ý nghĩa đặc biệt trong việc hình thành và phát
triển du lịch của một vùng hay một quốc gia. Vì vậy, kinh doanh khách sạn muốn
có khách để mà phục vụ từ đó thu lợi nhuận thì bản thân khách sạn phải "gắn liền"
với tài nguyên du lịch.
b) Hoạt động kinh doanh khách sạn đòi hỏi dung lượng vốn đầu tư ban đầu
và đầu tư cơ bản tương đối cao.
Đặc điểm này xuất phát từ tính cao cấp của nhu cầu về du lịch và tính đồng bộ
của nhu cầu du lịch. Cùng với những nhu cầu đặc trưng của du lịch như nghỉ ngơi,
chữa bệnh, hội họp, giải trí... được đáp ứng chủ yếu bởi tài nguyên du lịch, khách du
lịch hàng ngày càng cần thoả mãn các nhu cầu bình thường cho cuộc sống của mình.
Vì vậy để đáp ứng những nhu cầu cần phải xây dựng một hệ thống đồng bộ các công
trình, cơ sở phục vụ, các trang thiết bị có chất lượng cao.
c) Hoạt động kinh doanh khách sạn đòi hỏi dung lượng lao động trực tiếp
tương đối cao.
Do nhu cầu của con người rất phong phú, đa dạng và có tính cao cấp, hay
nói một cách khác sản phẩm khách sạn không có tính khuôn mẫu. Cho nên không
thể dùng người máy để thay thế con người được mà phải sử dụng chính con người
để thoả mãn tối đa nhu cầu của khách và mức độ phục vụ phải cao.
d) Hoạt động kinh doanh khách sạn chịu sự tác động của tính quy luật.
Do khách sạn xây dựng thường gắn với tài nguyên du lịch, mà tài nguyên du
lịch phụ thuộc vào thời tiết, khí hậu nên việc kinh doanh diễn ra theo mùa. Do quy
luật tâm sinh lý của con người như ăn ngủ chỉ diễn ra ở một số thời điểm trong
ngày, do đó yêu cầu về các dịch vụ cũng diễn ra ở một số thời điểm do đó yêu cầu
các nhà quản lý phải chấp nhận quy luật mà có cách đối ứng cho phù hợp.
1.1.3 Phân loại khách sạn
a) Căn cứ vào giá cả
- Khách sạn bình dân ( 20-70USD ở Việt Nam): Các khách sạn bình dân
thường cung cấp cho khách hàng ở có tivi, điện thoại, phòng tắm và nhà vệ sinh
riêng, tất cả đều đạt hiệu quả. Trong khách sạn bình dân, dịch vụ về ăn uống có thể
là không có. Bộ phận nhân viên gác cửa, khuôn vác, chỉ dẫn gần như không có.

- Khách sạn tiêu chẩn du lịch trung lưu ( 30-200USD ): Các khách sạn tiêu
chuẩn cung cấp những buồng nghỉ tiện nghi với buồng tắm riêng, có dịch vụ ăn
uống và nhân viên khuôn vác hành lý.
- Khách sạn cao cấp ( 60-500USD ): Một khách sạn điển hình là một khách
sạn sang trọng với sự trang trí và tiện nghi hoàn hảo, nhân viên được đào tạo có tay
nghề cao, đồ uống và thực phẩm tốt hơn mức trung bình. Các khách sạn cao cấp
thường có các phòng đặc biệt sang trọng, hai phòng ăn trở lên và một sảnh pha chế
đồ uống, trong buồng nghỉ của khách có tủ lạnh, tủ dựng quần áo.
- Khách sạn sang trọng ( 100-200USD ): Những khách sạn sang trọng thể
hiện mức độ tiêu chuẩn cao nhất của sự sang trọng hoàn hảo, tiện nghi, chuyên
môn khả năng lịch sự của nhân viên và dịch vụ ăn uống đa dạng chất lượng. Một
khách sạn sang trọng điển hình dành 10% diện tích cho buồng ở đặc biệt sang
trọng, có hai phòng ăn trở lên.
b) Căc cứ vào đặc điểm và đối tượng khách.
- Khách sạn truyền thống: Một khách sạn truyền thống được thiết kế cơ bản
bao gồm các phòng riêng có buồng tắm, có các dịch đón tiếp, khuôn vác hành lý và
ăn uống. Nơi đỗ xe có thể có hoặc không. Hầu hết các khách sạn thuộc loại hình
khách sạn tiêu chuẩn, khách sạn cao cấp, khách sạn sang trọng đều là khách sạn
truyền thống.
- Mô-ten: Môtel là viết tắt của hai chữ motor và hotel xuất hiện lần đầu tiên
ở Mỹ. Môtel điển hình gần trục đường chính thuận tiện và có nơi đỗ xe ôtô cho
khách nghỉ, không có dịch vụ ăn uống và hành lý. Môtel tiêu chuẩn cứ một phòng
nghỉ là có một nơi đỗ xe.
- Khách sạn nghỉ dưỡng: Thời kì này có thể nói khách sạn nghỉ dưỡng khá
phát triển. Các khách sạn nghỉ dưỡng ngoài mô hình một khách sạn truyền thống
còn mở thêm các dịch vụ như: sân quần vợt, các thiết bị tập thể hình. Các khách
sạn nghỉ dưỡng thường được xây dựng ở các vùng biển, núi các khu nghỉ mát, an
dưỡng.
- Khách sạn hội nghị: Hiện nay cùng với xu thế công nghiệp hóa, kinh tế
ngày càng phát triển, các hội nghị, hội họp, các khách sạn cũng được xây dựng

nhiều hơn. Một khách sạn hội nghị có thể là một khách sạn truyền thống nhưng
được thiết kế đặc biệt phục vụ cả hội nghị, hội thảo.
- Căn hộ cho thuê: Được thiết kế cho những khách ở dài ngày, cung cấp
phòng ở với buồng tắm riêng. Các dịch vụ lễ tân, nhân viên phục vụ hành lý và an
ninh, có dịch vụ ăn uống giới hạn và hầu hết các phòng ở đều có bếp để khách có
thể tự phục vụ. Căn hộ cho thuê thường đưa ra các định mức giá thấp ( giảm giá),
tiền phòng cho thuê theo tuần, theo tháng và theo mùa.
- Nhà nghỉ bình dân: Nhà nghỉ bình dân được xây dựng như nơi định cư
riêng, ở những khu di tích, thắng cảnh ( nơi có cảnh quan thiên nhiên đẹp, các tòa
nhà cổ), có cung cấp các bữa ăn sáng trong bầu không khí gia đình.
- Các loại hình cơ sở lưu trú khác ( Ở Việt Nam ).
Nhà trọ, nhà khách, làng du lịch, biệt thự.
c) Căn cứ vào quy mô( theo số phòng )
- Khách sạn nhỏ ( 20 phòng ) ở Việt Nam đa số là khách sạn tư nhân.
- Khách sạn trung bình( 20-100 phòng) đa số là khách sạn nhà nước hoặc
công ty cổ phần.
- Khách sạn lớn( trên 100 phòng) đa số là khách sạn liên doanh với nước
ngoài.
d) Căn cứ vào hình thức sở hữu có:
- Khách sạn tư nhân.
- Khách sạn nhà nước.
- Khách sạn liên doanh.
1.2 LAO ĐỘNG TRONG KHÁCH SẠN.
1.2.1 Tính tất yếu của lao động trong kinh doanh khách sạn.
Trên thế giới du lịch được coi là ngành kinh tế quan trọng, đem lại nguồn
thu lớn cho xã hội. Phù hợp với xu thế của hiện đại, khách sạn du lịch đã và đang
phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên thế giới. Trong bối cảnh đó, ngành kinh
doanh khách sạn du lịch ở Việt Nam cũng có nhiều tiến bộ đáng mừng, trong từng
bước phát triển ổn định và đạt được hiệu quả về kinh tế xã hội. Ngành kinh doanh
khách sạn là ngành kinh tế quốc dân được hình thành và phát triển khách quan

trong nền kinh tế XHCN. Khi lực lượng sản xuất phát triển, nhiều ngành kinh tế
mới được hình thành, các thành phố phát triển, xuất hiện nhiều trung tâm thương
mại, ngoại thương được mở rộng. Cùng với sự phát triển của ngành du lịch là sự
cạnh tranh giữa các khách sạn nhằm thu hút nhiều khách hàng, khả năng tài chính
của khách sạn lớn đã làm mở rộng và đa dạng hoạt động kinh doanh khách sạn.
Do tính đa dạng của hoạt động kinh doanh khách sạn mà lao động trong
ngành mang tính phức tạp. Lao động ở đây thực hiện nhiệm vụ kinh doanh tạo ra
thu nhập quốc dân làm cho ngành vận động và phát triển. Hơn thế nữa, những
người lao động trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn còn thực hiện chức năng quan
trọng thứ hai của mình là giao tiếp văn hóa. Họ đại diện cho một đất nước, một nền
văn hóa, một bản sắc riêng trước các khách du lịch nước ngoài.
1.2.2 Đặc điểm của lao động trong kinh doanh khách sạn.
a) Lao động trong khách sạn thường là lao động thủ công, chủ yếu là lao
động chân tay, trực tiếp phục vụ khách.
Các khâu trong quá trình phục vụ rất khó áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật như cơ giới hoá, tự động hoá. Nói như vậy, có nghĩa là ngoài lao động sản
xuất chế biến món ăn là lao động sản xuất vật chất, lao động sản xuất trong khách
sạn chủ yếu là thực hiện các dịch vụ. Các dịch vụ này được tạo ra nhằm thoả mãn
nhu cầu thiết yếu cũng như nhu cầu đặc trưng của khách du lịch. Đặc trưng của

×