ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
---***---
HOÀNG TÁM PHI
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
---***---
HOÀNG TÁM PHI
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã Số: 9380101.03
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TSKH. Đào Trí Úc
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu độc
lập của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong luận án
là trung thực và chưa được công bố trong các cơng
trình khoa học khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Hồng Tám Phi
i
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Cụm từ viết tắt
Nguyên nghĩa
BLTTHS
Bộ luật Tố tụng Hình sự
BPNCTG
Biện pháp ngăn chặn tạm giam
CQĐT
Cơ quan điều tra
CQ/NCTQTHTT
Cơ quan/người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
NBBT
Người bị buộc tội
QCN
Quyền con người
TAND
Tồ án nhân dân
TTHS
Tố tụng hình sự
VKS
Viện Kiểm sát
ii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN TẠM GIAM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...........................................10
1.1. Tình hình nghiên cứu .........................................................................................10
1.2. Đánh giá về các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài .............................31
1.3. Những vấn đề luận án kế thừa và tiếp tục nghiên cứu .......................................34
1.4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học .......................................................37
Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................40
CHƢƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TẠM GIAM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ........................................................43
2.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự ......................43
2.2. Yêu cầu của việc quy định biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự ....56
2.3. Nội dung của quy định về biện pháp ngăn chặn tạm giam trong luật tố tụng
hình sự ......................................................................................................................70
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng, huỷ bỏ, thay thế biện pháp ngăn chặn
tạm giam ....................................................................................................................84
Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................89
CHƢƠNG 3. PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN TẠM GIAM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM..................91
3.1. Pháp luật tố tụng hình sự quy định về biện pháp ngăn chặn tạm giam..............91
3.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam ở Việt Nam .......................121
3.3. Đánh giá về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam ở Việt Nam .....................................................................................................135
Kết luận Chƣơng 3 ................................................................................................150
CHƢƠNG 4. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƢỢNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM TRONG
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ...........................................................152
4.1. Yêu cầu và định hướng đối với việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất
iii
lượng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong q trình giải quyết vụ án
hình sự ....................................................................................................................152
4.2. Hồn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao chất lượng biện pháp ngăn chặn
tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam...............................................................163
Kết luận Chƣơng 4 ................................................................................................188
KẾT LUẬN ............................................................................................................190
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ...............................................................................................................192
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................193
iv
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Tình hình áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam............................................. 123
Bảng 3.2: Tình hình áp dụng một số biện pháp ngăn chặn khác ........................................ 126
Bảng 3.3: Tình hình áp dụng căn cứ tạm giam .................................................................... 127
Bảng 3.4: Tình hình áp dụng trình tự thủ tục tạm giam ...................................................... 131
Bảng 3.5: Tình hình áp dụng thời hạn tạm giam ................................................................. 133
v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ bị can, bị cáo bị tạm giam giai đoạn 2008-2018 ................................... 123
Biểu đồ 3.2: Tình hình áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam ........................................ 124
Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ áp dụng căn cứ tạm giam giai đoạn 2008-2018 .................................... 128
Biểu đồ 3.4: Tình hình áp dụng căn cứ tạm giam ................................................................ 128
Biểu đồ 3.5: Tỷ lệ áp dụng trình tự thủ tục tạm giam giai đoạn 2008-2018 ...................... 131
Biểu đồ 3.6: Tình hình áp dụng trình tự thủ tục tạm giam .................................................. 132
Biểu đồ 3.7: Cơ cấu số bị can quá hạn tạm giam trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án ........................................................................................................................ 134
Biểu đồ 3.8: Tình hình quá hạn tạm giam ........................................................................... 135
vi
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Tố tụng hình sự là hoạt động thể hiện quyền lực của nhà nước trong việc xử
lý tội phạm, bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân. Theo đó, hoạt động TTHS của nhà nước được thực hiện thông qua đại
diện là các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, TA và các cơ
quan khác được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động điều tra) nhân danh nhà
nước tiến hành làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Các hoạt động TTHS mang
tính cưỡng chế đã hạn chế một số QCN như quyền tự do đi lại, thăm thân, quyền
thông tin liên lạc…do người này bị cách ly khỏi xã hội. Tuy nhiên, sự hạn chế này
là cần thiết nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp thời, xử lý nhanh chóng tội phạm, bảo vệ
cơng lý, bảo vệ QCN. Do vậy, khi áp dụng BPNCTG trong quá trình giải quyết vụ
án, đòi hỏi các CQ/NCTQTHTT phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật về
căn cứ, thẩm quyền, đối tượng, trình tự, thủ tục và thời hạn khi áp dụng biện pháp
này. Điều này, còn tránh được việc áp dụng BPNCTG một cách tùy tiện, tạo cơ sở
pháp lý bảo vệ QCN nói chung, quyền lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng biện
pháp này nói riêng; đồng thời, tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền, các tổ chức
xã hội kiểm tra, giám sát việc áp dụng đúng đắn BPNCTG, qua đó góp phần hạn
chế việc xâm phạm đến QCN.
Việc quy định BPNCTG trong luật TTHS các nước, phụ thuộc vào quan
điểm, cách tiếp cận, truyền thống pháp luật, cách thức tổ chức giải quyết vụ án hình
sự, thực tiễn đấu tranh, xử lý tội phạm trong mối liên hệ với các điều kiện chính trị,
kinh tế, xã hội ở từng thời điểm lịch sử nên pháp luật TTHS về BPNCTG ở mỗi
quốc gia, mỗi giai đoạn lịch sử là không giống nhau. Ở Việt Nam, BPNCTG trong
TTHS được quy định từ khi thành lập nước (năm 1945), trên cơ sở kế thừa tinh hoa
của pháp luật các thời đại phong kiến và thuộc Pháp trước đó, cũng như được phát
triển, hồn thiện qua từng giai đoạn lịch sử của đất nước. Trong giai đoạn hiện nay,
trên cơ sở định hướng cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước, Hiến pháp năm
2013 và xuất phát từ yêu cầu giải quyết vụ án hình sự bảo đảm sự khách quan,
1
nhanh chóng, cơng bằng, dân chủ, bảo vệ cơng lý, bảo vệ QCN, do đó, quy định về
BPNCTG đã được duy trì phát triển và hồn thiện trong BLTTHS năm 2015.
BLTTHS năm 2015, ngoài cách tiếp cận xem BPNCTG là giải pháp nhằm
ngăn chặn tội phạm, hỗ trợ CQ/NCTQTHTT trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự, BPNCTG đã được tiếp cận nhiều hơn dưới góc độ bảo vệ QCN, lấy QCN làm
trung tâm, hướng tới việc bảo đảm cao nhất quyền của người bị áp dụng BPNCTG.
Với cách tiếp cận này, các quy định của BLTTHS năm 2015 về BPNCTG không
những bảo đảm được nhiệm vụ “phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng” tội phạm
mà cịn bảo đảm nhiệm vụ “bảo vệ công lý, bảo vệ QCN” trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự. Chánh án TANDTC, PGS.TS Nguyễn Hịa Bình đưa ra u cầu:
“Quy định từng biện pháp tố tụng phải bị điều chỉnh chặt chẽ bởi năm yếu tố: căn
cứ; thẩm quyền; trình tự, thủ tục; thời hạn” [1]. Những yêu cầu này, được quán triệt
trong q trình xây dựng BLTTHS năm 2015, do đó, những quy định về BPNCTG
đã hình thành cơ sở, hành lang pháp lý cho hoạt động áp dụng pháp luật của các
CQ/NCTQTHTT góp phần thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của TTHS được xác định
tại Điều 1 của BLTTHS năm 2015.
Thực tiễn áp dụng BPNCTG những năm qua cho thấy, bên cạnh mặt tích cực
cịn có những bất cập, hạn chế sau:
Thứ nhất, biện pháp ngăn chặn tạm giam có tỷ lệ áp dụng cao nhất trong số
các biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS năm 2015. Mặc dù,
BPNCTG gây ảnh hưởng rất lớn đến QCN, quyền lợi ích hợp pháp của người bị áp
dụng nhưng lại được áp dụng nhiều nhất trong quá trình giải quyết vụ án so với biện
pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn. Cụ thể: theo thống kê của VKSND Tối
cao giai đoạn từ năm 2008 đến 2018, toàn quốc đã khởi tố mới 1.189.167 đối tượng;
trong đó áp dụng BPNCTG đối với 919.662 đối tượng, chiếm tỷ lệ 77,3%; áp dụng
các biện pháp ngăn chặn khác đối với 145.558 đối tượng, chiếm tỷ lệ 22,7%. [xem
bảng Phụ lục số 1] Thực tiễn này đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu về BPNCTG
một cách toàn diện, làm cơ sở cho những điều chỉnh theo hướng hạn chế tới mức
thấp nhất việc áp dụng biện pháp này và chỉ được áp dụng trong những trường hợp
2
đặc biệt, phù hợp với các tiêu chí phổ quát của Liên Hợp Quốc về QCN thay vì
được áp dụng mang tính phổ biến như ở Việt Nam.
Thứ hai, việc áp dụng BPNCTG trong quá trình giải quyết vụ án còn nhiều
sai phạm của CQ/NCTQTHTT, gây ra những hậu quả nặng nề, dẫn tới tình trạng
làm oan người vơ tội. Những vi phạm khi áp dụng BPNCTG của CQ/NCTQTHTT
với các biểu hiện thường thấy như: không thỏa mãn căn cứ khi áp dụng BPNCTG;
không đúng thẩm quyền; không tuân thủ quy định về trình tự, thủ tục và quá thời
hạn tạm giam theo quy định của pháp luật. Cũng theo số liệu thống kê của VKSND
Tối cao từ năm 2008 đến năm 2018, cả nước đã trả tự do 3.645 đối tượng bị áp
dụng BPNCTG khi có quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do hành vi của
người bị áp dụng biện pháp này không cấu thành tội phạm (chiếm 0,34% tổng số
người bị tạm giam); và tạm giam quá thời hạn 3.547 trường hợp (chiếm 0,32% tổng
số người bị tạm giam) [79].
Thứ ba, hiện tượng lạm dụng áp dụng BPNCTG khi giải quyết vụ án đã xâm
hại đến QCN, ảnh hưởng đến tính khách quan trong q trình giải quyết vụ án,
cơng lý khơng được tơn trọng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự công bằng của
hoạt động tư pháp hình sự. Biểu hiện rõ nhất của hiện tượng này là việc ra quyết
định tạm giam NBBT một cách tùy tiện, thậm chí cịn sử dụng BPNCTG như là một
giải pháp nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ dẫn đến sai
phạm của các CQ/NCTQTHTT. Những vi phạm trên đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến
QCN, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, làm giảm ý nghĩa và mục đích cần đạt
được của TTHS nói chung và BPNCTG nói riêng. Thực tiễn này cần được xem xét
nghiên cứu trên cơ sở phương pháp tiếp cận quyền để có biện pháp khắc phục, giảm
thiểu những sai phạm trong việc áp dụng BPNCTG.
Từ những phân tích trên cho thấy, quy định về BPNCTG còn tồn tại những
bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp, yêu cầu bảo vệ cơng lý, bảo
vệ QCN; thực tiễn áp dụng BPNCTG cịn có hạn chế, vướng mắc nhất định. Trong
khi đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 yêu cầu: “Xác định rõ căn cứ tạm giam;
3
hạn chế việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với một số loại tội phạm;
thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam”. Đây vừa là yêu cầu thực hiện nhiệm vụ Chiến lược, đồng thời cũng
là định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật và áp dụng pháp luật về BPNCTG cũng
như đáp ứng được yêu cầu cấp thiết khắc phục bất cập, hạn chế, vi phạm khi áp
dụng BPNCTG. Mặt khác, trong quá trình hội nhập quốc tế bên cạnh việc nội luật
hóa các chuẩn mực quốc tế về QCN trong pháp luật TTHS nói chung và đối với
BPNCTG nói riêng, cần có các giải pháp bảo đảm QCN trong quá trình tạm giam
cho NBBT cũng như phải có cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành, áp dụng biện
pháp ngăn chặn này, kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm. Do đó, cần có những
nghiên cứu sâu hơn cả về lý luận và thực tiễn về BPNCTG theo hướng bảo đảm
QCN, đánh giá tình hình thực tiễn áp dụng biện pháp này một cách khách quan,
toàn diện và đưa ra các giải pháp phù hợp. Vì vậy, để góp phần hồn thiện pháp luật
TTHS, góp phần nâng cao chất lượng thực thi, áp dụng BPNCTG trong TTHS,
nghiên cứu sinh lựa chọn “Biện pháp ngăn chặn tạm giam trong luật tố tụng hình
sự Việt Nam” làm đề tài luận án của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Nghiên cứu đề tài “Biện pháp ngăn chặn tạm giam trong luật tố tụng hình sự
Việt Nam” để làm rõ một số vấn đề lý luận và hướng tới mục đích hình thành cơ sở
lý thuyết về BPNCTG trong TTHS bao gồm quá trình lập pháp và áp dụng biện
pháp này trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; nghiên cứu thực trạng quy định
của pháp luật và thực tiễn áp dụng BPNCTG. Đồng thời, kiến nghị giải pháp hoàn
thiện pháp luật, giải pháp nâng cao chất lượng thực thi, áp dụng BPNCTG trong
TTHS.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được những mục đích trên, luận án đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Một là, nghiên cứu làm rõ khái niệm BPNCTG trong luật TTHS Việt Nam;
phân tích nội hàm, đặc điểm, cơ chế hình thành từ đó làm sáng tỏ và xây dựng khái
niệm hồn thiện về BPNCTG.
Hai là, khái qt hố các quy định về BPNCTG trong lịch sử TTHS Việt
Nam từ năm 1945 đến nay, nghiên cứu để làm sáng tỏ BPNCTG trong pháp luật
4
quốc tế và pháp luật TTHS một số nước cụ thể trên thế giới để rút ra những yếu tố
phù hợp với truyền thống văn hoá Việt Nam về hoạt động lập pháp TTHS.
Ba là, nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng quy định của BLTTHS có
liên quan đến BPNCTG và tìm ra những hạn chế, bất cập trong các quy định.
Bốn là, nghiên cứu, làm rõ thực trạng thi hành những quy định của pháp luật
TTHS về BPNCTG qua việc nghiên cứu các số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của
các cơ quan Tư pháp Trung ương giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2018, nghiên cứu
một số bản án cụ thể để từ đó luận án chỉ ra những hạn chế, vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng BPNCTG và nguyên nhân của nó, làm cơ sở cho việc đưa ra các kiến
nghị hoàn thiện BLTTHS về BPNCTG cũng như các giải pháp nâng cao và bảo
đảm thực hiện đúng việc áp dụng biện pháp này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Từ mục đích nêu trên, luận án có đối tượng nghiên cứu là:
(i) Biện pháp ngăn chặn tạm giam trong TTHS thông qua các ấn phẩm khoa
học được xuất bản ở Việt Nam và các nước trên thế giới;
(ii) Quy định của pháp luật TTHS về BPNCTG ở Việt Nam, ở một số nước trên
thế giới cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp này ở Việt Nam những năm gần đây.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Các quan điểm, học thuyết, cách tiếp cận về biện pháp
ngăn chặn là tri thức của nhân loại nên có phạm vi rộng không bị giới hạn bởi không
gian, thời gian. Do vậy, tác giả sẽ khái quát những đặc điểm nổi bật của chúng. Nội
dung luận án sẽ đề cập đến các vấn đề về lý thuyết và thực tiễn liên quan đến
BPNCTG trong TTHS.
Phạm vi về thời gian: Luận án hệ thống hóa lịch sử phát triển của luật TTHS
Việt Nam quy định về BPNCTG từ năm 1945 đến nay. Nghiên cứu tập trung hơn vào
BPNCTG trong BLTTHS Việt Nam năm 2015. Luận án nghiên cứu thực trạng áp
dụng BPNCTG của các CQ/NCTQTHTT từ năm 2008 đến năm 2019.
Phạm vi về không gian: Luận án nghiên cứu những quy định về BPNCTG
trong pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế và một số nước trên thế giới. Ở Việt Nam,
việc khảo sát thực tiễn áp dụng BPNCTG trong TTHS không bị giới hạn ở địa
5
phương nào mà được xác định trên địa bàn toàn quốc. Mặc dù, luận án được nghiên
cứu dưới góc độ tiếp cận quyền nhưng sẽ ưu tiên phân tích quyền của người bị tạm
giam để đánh giá pháp luật và hành vi của CQ/NCTQTHTT trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Luận án khơng nghiên cứu thực tiễn áp dụng BPNCTG của
CQĐT, VKS và TA Quân sự các cấp.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phƣơng pháp luận
Phương pháp luận: Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng; lý luận khoa học hình sự và tố tụng hình sự; các
quan điểm, luận điểm trong các cơng trình khoa học, sách báo pháp lý của các nhà
khoa học, quản lý…; các quan điểm, chủ trương, đường lối chính sách của Đảng về
nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp nhằm xây
dựng nền tư pháp trong sạch vững mạnh, hiệu quả hướng tới việc bảo vệ công lý,
bảo vệ QCN.
Phương pháp tiếp cận: Bên cạnh các phương pháp tiếp cận mang tính truyền
thống, luận án còn sử dụng phương pháp tiếp cận quyền để xem xét các vấn đề được
nghiên cứu trong luận án. Phương pháp tiếp cận quyền đối với BPNCTG là cách
tiếp cận lấy QCN của người bị tạm giam là trung tâm để xem xét, giải quyết vấn đề
xây dựng pháp luật, áp dụng BPNCTG trong luật TTHS.
4.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
Trên căn bản của phương pháp luận và phương pháp tiếp cận nêu trên luận
án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
Phương pháp phân tích quy phạm: Đây là phương pháp trọng tâm của các
nghiên cứu ngành luật. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở chương 3 của
luận án. Phương pháp này dùng để phân tích các quy phạm thể hiện trong Hiến
pháp, các đạo luật, văn bản dưới luật và ở một mức độ nào đó trong các nghị quyết
của Đảng Cộng sản.
Phương pháp phân tích tư liệu: cũng được dùng trong tồn bộ luận án. Các
tư liệu có thể xếp loại thành các nhóm: văn bản (pháp lý, chính trị, hành chính);
cơng trình khoa học (tạp chí chun ngành, sách chuyên khảo); bài viết đăng báo
(viết, trả lời phỏng vấn, phản biện). Các tư liệu chủ yếu bằng tiếng Việt (hoặc đã
được dịch và xuất bản bằng tiếng Việt), tiếng Anh, tiếng Nga.
6
Phương pháp lịch sử: được sử dụng để làm rõ sự hình thành và phát triển của
biện pháp ngăn chặn trong lịch sử tố tụng Việt Nam. Biện pháp ngăn chặn là thiết chế
phản ánh rõ nét văn hóa, xã hội, kinh tế, lịch sử và thực tiễn chính trị của mỗi quốc
gia, khu vực trên thế giới. Do đó, quá trình nghiên cứu cũng cần đặt trong bối cảnh
lịch sử cụ thể tránh đi vào sự quy chiếu võ đoán. Các lý giải và giải pháp sẽ cần được
cân nhắc dựa vào các bối cảnh kinh tế - chính trị - xã hội cụ thể.
Phương pháp so sánh: các tài liệu trong và ngoài nước để làm sáng tỏ tình
hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài này, hệ thống hóa lịch sử và quy định trong
BLTTHS một số quốc gia về nội dung nghiên cứu.
Phương pháp thống kê: để xử lý các tài liệu, số liệu của VKSND Tối cao
nhằm làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng BPNCTG và phân tích các vụ án cụ thể áp dụng
biện pháp ngăn chặn tạm giam trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2018 qua đó,
đánh giá những tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản.
Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: thông qua thảo luận nội dung luận án
cấp bộ môn, luận án đã được chỉnh sửa, hồn thiện theo ý kiến đóng góp q báu
của các nhà khoa học.
5. Những điểm mới của luận án
Kết quả nghiên cứu đề tài luận án thể hiện những điểm mới sau:
Thứ nhất, các nghiên cứu liên quan đến BPNCTG mới chỉ đề cập ở góc độ
chung về biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong TTHS, hoặc ở các nghiên
cứu về luật TTHS, hoặc chỉ là những nghiên cứu đề cập đến một số khía cạnh đơn
lẻ mà chưa có nghiên cứu nào mang tính độc lập, tổng thể đề cập đến tất cả các vấn
đề lý luận và thực tiễn về BPNCTG ở nước ta. Mặt khác, các nghiên cứu trước thời
điểm Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2015 được ban hành dựa trên cách tiếp
cận và quy định của luật TTHS cũ nên không còn phù hợp với xu thế phát triển mới
của khoa học và thực trạng cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp này. Vì vậy, luận
án vừa kế thừa và bổ sung khoảng trống mà các nghiên cứu trước đó để lại, đồng
thời đặt việc nghiên cứu về BPNCTG dưới góc nhìn tiếp cận quyền để có những
nhận xét, đánh giá, kiến nghị phù hợp và đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn đặt ra. Một
cơng trình nghiên cứu độc lập, tổng thể đề cập đến các vấn đề lý luận, thực tiễn liên
quan đến BPNCTG là điểm mới của luận án.
7
Thứ hai, luận án hình thành khung lý thuyết về BPNCTG trên hai khía cạnh:
Pháp luật TTHS về BPNCTG và áp dụng biện pháp ngăn chặn này nhằm bảo đảm
tính thống nhất, tổng thể trong suốt quá trình nghiên cứu luận án về BPNCTG. Do
vậy, kết quả nghiên cứu, các nhận xét, nhận định, đánh giá, kết luận trong luận án
phản ánh quy luật vận động khách quan trong mối quan hệ biện chứng với các hiện
tượng pháp lý khác trong đấu tranh xử lý tội phạm ở thời đại ngày nay.
Thứ ba, luận án chỉ ra kinh nghiệm quốc tế và bài học lịch sử về BPNCTG
thông qua việc nghiên cứu các chuẩn mực quốc tế được quy định trong các cơng
ước về QCN, cơng ước phịng chống tra tấn của Liên hợp quốc cũng như pháp luật
một số quốc gia về BPNCTG và quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về biện
pháp này từ năm 1945 đến nay. Những nhận xét, đánh giá của luận án về kinh
nghiệm quốc tế và bài học lịch sử về BPNCTG là điểm mới so với các cơng trình
nghiên cứu trước đó về biện pháp này ở Việt Nam, là tài liệu tham khảo trong hoạt
động xây dựng, hoàn thiện và áp dụng, thực thi pháp luật về BPNCTG cũng như
trong nghiên cứu, đào tạo.
Thứ tư, những nhận xét, đánh giá về thực tiễn áp dụng, thực thi BPNCTG
được phân tích, nghiên cứu thông qua các số liệu, tài liệu cập nhật, với thời lượng
bảo đảm tính quy luật của các kết luận trong luận án. Đồng thời, khi thu thập, phân
loại, tổng hợp, phân tích số liệu, tài liệu tác giả sử dụng các phương pháp nghiên
cứu hiện đại, trong đó đặc biệt chú ý đến phương pháp thống kê đã làm cho kết quả
nghiên cứu của luận án có độ tin cậy cao, phản ánh được bức tranh sinh động, đa
chiều về thực trạng và thực tiễn của BPNCTG.
Thứ năm, các nghiên cứu về BPNCTG thường sử dụng phương pháp tiếp
cận truyền thống và còn nhận thức khi xem BPNCTG trong TTHS như là “công cụ”
của CQ/NCTQTHTT khi giải quyết vụ án hình sự mà ít sử dụng phương pháp tiếp
cận quyền trong việc phân tích, xem xét, đánh giá. Do đó, kết quả nghiên cứu cịn
phiến diện, chưa bảo đảm tính khoa học, tính thống nhất, trọn vẹn của cơng trình
nghiên cứu về BPNCTG. Khắc phục hạn chế này, luận án sử dụng phương pháp tiếp
cận quyền khi nghiên cứu các vấn đề liên quan đến BPNCTG nên kết quả luận án
bảo đảm được tính khách quan, trung thực phản ánh được quy luật vận động, phát
8
triển của BPNCTG tiệm cận chân lý của nhận thức khoa học trong quá trình nghiên
cứu về biện pháp này trong TTHS.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa khoa học của luận án thể hiện qua hai khía cạnh sau đây: (i) Luận án
hệ thống hóa một số lý thuyết, quan điểm về pháp luật và áp dụng pháp luật về
BPNCTG theo cách tiếp cận quyền; (ii) Luận án tiếp cận BPNCTG với một phương
pháp mới. Qua đó xây dựng hệ thống lý luận về biện pháp này từ góc nhìn: Lấy
quyền của người bị cáo buộc phạm tội bị áp dụng BPNCTG để đánh giá pháp luật và
hành vi của cơ quan/người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Ý nghĩa thực tiễn của luận án thể hiện : (i) Kết quả nghiên cứu của luận án có
thể được sử dụng làm cơ sở lý luận để tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS Việt
Nam về BPNCTG của các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình xây dựng pháp
luật TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, đồng thời cũng là cơ sở hình thành
những giải pháp bảo đảm áp dụng biện pháp cưỡng chế này, qua đó nâng cao hiệu
quả cơng tác đấu tranh, xử lý tội phạm, bảo vệ các quyền và tự do của con người,
cũng như phòng, chống oan, sai và vi phạm pháp luật trong thực tiễn giải quyết vụ
án; (ii) Kết quả luận án bổ sung tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, đào tạo trong
các cơ sở nghiên cứu và đào tạo luật, đặc biệt trong chuyên ngành Tư pháp hình sự.
7. Kết cấu của luận án
Luận án bao gồm phần Mở đầu, Kết luận và bốn Chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài của luận án;
Chương 2: Những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố
tụng hình sự;
Chương 3: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn
tạm giam trong luật tố tụng hình sự ở Việt Nam;
Chương 4: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
9
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngồi nước
1.1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu về biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
trong tố tụng hình sự
Các cơng trình nghiên cứu ở ngoài nước về biện pháp ngăn chặn thể hiện sự
phong phú, đa dạng và độ sâu rộng khác nhau thơng qua đó phản ánh cách tiếp cận,
góc nhìn cũng như thái độ của mỗi tác giả khi nghiên cứu biện pháp này của TTHS.
Mặc dù vậy, dưới góc độ ngôn ngữ, các tác nghiên cứu đều sử dụng phổ biến thuật
ngữ “preventive measures” (tiếng Anh) và “превентивные меры” (tiếng Nga) với
nghĩa là “các biện pháp phòng ngừa”, với nội hàm tương đồng với khái niệm “biện
pháp ngăn chặn” trong tiếng Việt. Nhìn chung, các cơng trình đề cập đến đặc điểm,
bản chất của biện pháp ngăn chặn và mối quan hệ của BPNCTG với các biện pháp
ngăn chặn khác, cụ thể:
Thời kỳ Liên Xô (cũ), các tác giả đã tập trung nghiên cứu làm rõ đặc điểm,
bản chất của các biện pháp ngăn chặn và cơ sở của BPNCTG. Chẳng hạn, tác giả
ZD. Enhikeev nhấn mạnh đến bản chất phòng ngừa của các biện pháp ngăn chặn
khi cho rằng: “Các biện pháp ngăn chặn là một phạm trù đặc biệt, có ý nghĩa phịng
ngừa” [50]. Tương tự, tác giả M.S. Strogovich xác định: “Các biện pháp ngăn chặn
là những biện pháp cưỡng chế sự tự do của bị cáo với mục đích ngăn ngừa sự trốn
tránh điều tra, xét xử” [50]. Như vậy, biện pháp ngăn chặn theo quan điểm truyền
thống của các luật gia Soviet đề cập đến hai đặc trưng: (i) Tính chất phịng ngừa,
ngăn chặn của các biện pháp này; (ii) Đối tượng tác động của các biện pháp này khi
áp dụng là bị can, bị cáo. Đây được coi là nền tảng lý luận cơ bản được nhiều các
tác giả khác triển khai nghiên cứu về BPNCTG với mức độ và phạm vi ngày càng
rộng mở.
Một số các tác giả khác tập trung vào tính mục đích của biện pháp ngăn
chặn, đó là ngăn chặn sự bỏ trốn, gây cản trở điều tra, truy tố, xét xử. Chẳng hạn,
10
tác giả Andreea Simona cho rằng: “Các biện pháp ngăn chặn là các biện pháp
cưỡng chế để các cơ quan Tư pháp hình sự áp dụng đảm bảo hoạt động tố tụng
hình sự, để ngăn chặn bị can, bị cáo trốn tránh sự truy tố, xét xử hoặc để ngăn cản
việc tiếp tục thực hiện tội phạm” [84]. Tương tự, tác giả Marin Alin đưa ra khái
niệm: “Các biện pháp phòng ngừa là thủ tục của pháp luật tố tụng hình sự, có tính
chất cưỡng chế và ngăn cản bị can, bị cáo đã hoặc sẽ (có mục tiêu) thực hiện một
số hoạt động nhất định mà hoạt động này có tác động tiêu cực đến thủ tục tố tụng
hình sự” [97]. Đồng thời, các tác giả đã chỉ ra những nội dung cơ bản nhất của biện
pháp ngăn chặn, bao gồm: (i) Bản chất pháp lý của biện pháp ngăn chặn là hạn chế
quyền tự do của người bị cáo buộc phạm tội; (ii) Đối tượng áp dụng BPNCTG là
người bị cáo buộc phạm tội.
BPNCTG trong mối quan hệ với các biện pháp ngăn chặn khác được đề cập
trên các phương diện như: tính nghiêm khắc đặc biệt so với các biện pháp ngăn
chặn khác, tính dễ bị tổn thương cho người bị cáo buộc phạm tội, và do đó, thường
là biện pháp áp dụng sau cùng khi các biện pháp ngăn chặn khác không tỏ ra hiệu
quả, việc áp dụng phải tuân theo quy trình, thủ tục chặt chẽ và hợp pháp. Theo đó,
tính nghiêm khắc đặc biệt thể hiện qua “sự hạn chế quyền tự do (in costudy)” đối
với bị can, bị cáo khi bị giam giữ. Tác giả Grigore Theodoru chỉ ra các dấu hiệu để
có thể áp dụng BPNCTG, đó là: “Bỏ trốn; khơng xuất hiện trước TA; huỷ những
chứng cứ quan trọng; thực hiện một tội phạm khác” [90]. Cũng theo tác giả, “khi áp
dụng các biện pháp ngăn chặn, ít nhất một trong bốn căn cứ trên phải đang tồn tại.
Hơn nữa, những căn cứ trên phải tồn tại một cách hợp lý và bắt buộc phải có các
biểu hiện thực tế hoặc thông tin để chứng minh” [90]. Kết luận này của G.
Theodoru thể hiện rằng việc áp dụng BPNCTG đúng căn cứ là rất quan trọng và
phải dựa trên sự thật khách quan mà khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người
áp dụng. Tương tự, tác giả Anita H. Kocsis cho rằng: “Căn cứ áp dụng BPNCTG là
khi có nghi ngờ rằng bị can, bị cáo sẽ không xuất hiện trước tòa; sẽ tiêu hủy vật
chứng; sẽ tiếp tục thực hiện thêm hành vi phạm tội khác” [85]. Nghiên cứu này của
tác giả chủ yếu dựa trên những khảo sát luật thực định của các quốc gia trên thế giới và
11
nhằm mục đích đưa ra các căn cứ chuẩn mực để áp dụng BPNCTG. Qua nghiên cứu
cũng cho thấy, mỗi quốc gia có thể đặt ra thêm những căn cứ áp dụng BPNCTG khác
ngoài những căn cứ nêu trên. Đây là các kết quả nghiên cứu có giá trị tham khảo lớn
đối với đề tài luận án của nghiên cứu sinh.
1.1.1.2. Các nghiên cứu liên quan trực tiếp đến biện pháp ngăn chặn tạm giam
Về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
Tại những quốc gia như Nga và Ukraine, các tác giả có xu hướng cho rằng
việc áp dụng BPNCTG cần căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội. Chẳng hạn như tác giả Victor V. Filippov cho rằng: “BPNCTG có thể
được áp dụng đối với bị can, bị cáo nếu hành vi phạm tội mà họ thực hiện có mức
hình phạt tước tự do có thời hạn từ một năm trở lên. Trong một số trường hợp
ngoại lệ, BPNCTG có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo mà hành vi phạm tội
do họ thực hiện có mức hình phạt tước tự do dưới một năm” [116]. Quan điểm này
được củng cố trong một số báo cáo của các tổ chức phi chính phủ khi nghiên cứu
vấn đề tội phạm và hình phạt tại một số quốc gia cũng chỉ ra rằng: “Căn cứ vào mức
độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà bị can, bị cáo thực hiện thơng qua mức
hình phạt tước tự do có thể được áp dụng đối với tội phạm đó hiện đang được nhiều
quốc gia áp dụng như một căn cứ quan trọng nhất” [103].
Ngược lại, thận trọng hơn, dù thừa nhận mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội là một yếu tố quan trọng để áp dụng BPNCTG, nhưng khơng đủ.
Nhóm các tác giả Rusudan Mchedlishvili, Anna Tvaradze, Sopo Verdzeuli, Giorgi
Turazashvilli, Nino Elbakidze đã nêu ra quan điểm như sau: “Biện pháp ngăn chặn
tạm giam là một trong những loại biện pháp ngăn chặn và chỉ được áp dụng khi đã
cân nhắc đến các lợi ích liên quan đến quyền tự do của con người” [104]. Khẳng
định này là cách gián tiếp để các tác giả chỉ ra rằng BPNCTG là biện pháp có tác
động lớn đến quyền tự do của con người, do đó chỉ được áp dụng khi đã cân nhắc
nhiều yếu tố. Từ lý luận nền tảng trên, các tác giả đưa ra bốn căn cứ áp dụng
BPNCTG bao gồm: (i) Có đe dọa cho rằng người phạm tội sẽ trốn; (ii) Có đe dọa
cho rằng người phạm tội sẽ khơng xuất hiện trước tịa; (iii) Có đe dọa cho rằng
chứng cứ của vụ án sẽ bị hủy hoại; (iv) Ngăn chặn một tội phạm mới sẽ được
12
thực hiện. Các tác giả cũng nhấn mạnh “việc áp dụng các căn cứ trên phải dựa
trên các tình tiết được đánh giá khách quan và những thông tin xác thực cao
nhất” [104].
Như vậy, trên thế giới đang tồn tại hai luồng quan điểm về việc có nên coi
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là một căn cứ để áp dụng
BPNCTG không? Các tranh luận thường tập trung vào trả lời các câu hỏi: Căn cứ
này có thể hiện bản chất của BPNCTG khơng? Căn cứ này có đang gây nhầm lẫn
giữa biện pháp ngăn chặn trong TTHS với hình phạt - biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc nhất của nhà nước trong hình sự hay khơng? Đây cũng chính là những vấn đề
nghiên cứu sinh kế thừa và tiếp tục nghiên cứu, làm rõ trong luận án.
Về việc bảo vệ quyền con người khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
Qua khảo sát các cơng trình liên quan cho thấy, xem xét BPNCTG dưới góc
nhìn tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm QCN của người bị cáo buộc phạm tội là xu hướng
tất yếu trên thế giới, thể hiện qua: sự chuyển hướng của chính sách TTHS; đặt lại
tính mục đích của BPNCTG; những thực tế đáng quan ngại trong quá trình giam giữ
người bị cáo buộc phạm tội. Cụ thể là:
(i) Sự chuyển hướng của chính sách TTHS
Về khía cạnh bảo vệ QCN trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói
chung, BPNCTG nói riêng, một số cơng trình của các tác giả nước ngồi khơng đề cập
cụ thể vào các biện pháp này mà được thể hiện chung thơng qua chính sách TTHS,
trình tự, thủ tục áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng tại quốc gia được nghiên
cứu. Có thể kể đến các cơng trình như: Sách chun khảo “La procedure penale et le
role du ministere public dans le processus penal” (TTHS và vai trị của Viện cơng tố
trong TTHS) đã đưa ra nhiều nội dung liên quan đến các quy định của TTHS của Cộng
hoà Pháp, trong đó có các quy định về q trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn.
Đồng thời, các tác giả cũng đưa ra những phân tích có liên quan đến nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện công tố Pháp trong TTHS Pháp nói chung, trong áp dụng, thay đổi, huỷ
bỏ các biện pháp ngăn chặn nói riêng [49].
Sách chuyên khảo “French Criminal Justice - A Comparative Account of the
Investigation and Prosecution of Crime in France” (Tư pháp hình sự của Pháp - So
13
sánh về điều tra và truy tố tội phạm tại Pháp) của tác giả Jacqueline Hodgsom. Dựa
trên các phân tích và nghiên cứu thực tế từ giai đoạn đầu của tố tụng của Pháp, cuốn
sách này đã đưa ra một nền tảng mới trong lĩnh vực tội phạm học so sánh. Cuốn
sách cũng giúp người nghiên cứu hiểu rõ hơn về cách tiến hành một quá trình TTHS
bắt nguồn từ cơ chế hoạt động và các yếu tố ảnh hưởng, hạn chế tới sự hoạt động
của TTHS. Tác giả đặt ra phân tích hệ thống tư pháp hình sự của Pháp trong một
bối cảnh rộng lớn: văn hố chính trị, nghề nghiệp và luật pháp. Một trong những nội
dung nổi bật của cuốn sách là xác định các quyền cá nhân của bị can, bị cáo được
bảo vệ trong TTHS [95].
Những ấn phẩm trên đại diện cho khuynh hướng chính sách TTHS tại các
quốc gia, đặc biệt là những quốc gia Châu Âu. Nghiên cứu so sánh pháp luật hình
sự của Cộng hòa Liên bang Đức và Cộng hòa Séc là khá tương đồng trong việc cho
phép thẩm phán đưa ra quyết định có giam giữ hay khơng giam giữ bị cáo đang chờ
xét xử, và yêu cầu phải cân nhắc đến một loạt các yếu tố bao gồm: (i) Bị cáo sẽ bỏ
trốn hoặc trốn, để tránh bị truy tố hoặc trừng phạt hình sự (đặc biệt là nếu khó xác
định ngay danh tính khi khơng có hộ khẩu thường trú, hoặc đang phải đối mặt với
một hình phạt nghiêm khắc); (ii) Bị cáo sẽ gây ảnh hưởng đến các nhân chứng hoặc
đồng phạm mà chưa đưa ra lời khai của họ hoặc làm nản lòng việc điều tra các sự
kiện liên quan đến việc truy tố hình sự; (iii) Bị cáo sẽ lặp lại hoạt động tội phạm mà
anh ta đang bị truy tố, hoặc hoàn thành hành vi phạm tội mà anh ta đã cố gắng, hoặc
phạm tội hình sự mà anh ta đã lên kế hoạch.
Tại Cộng hòa Pháp, việc giam giữ trước khi xét xử chỉ có thể được áp dụng
nếu bị cáo bị truy tố về một tội phạm có thể bị phạt tù tối thiểu ba năm và nếu các
biện pháp giám sát thay thế không đủ để thực hiện các mục tiêu sau: (i) Lưu giữ bằng
chứng; (ii) Ngăn chặn sự can thiệp với nạn nhân hoặc nhân chứng; (iii) Ngăn chặn sự
tiếp xúc giữa NBBT và đồng phạm; (iv) Bảo vệ NBBT; đảm bảo rằng NBBT vẫn còn
tại tòa án; (v) Chấm dứt hành vi phạm tội hoặc ngăn chặn tái phạm; (vi) Chấm dứt sự
gián đoạn đặc biệt của phong tục Publique phạm lỗi vì sự nghiêm trọng của các hành
vi phạm tội và thiệt hại gây ra.
Pháp luật TTHS một số quốc gia như Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc cũng quy
định chỉ có Tịa án mới có quyền áp dụng BPNCTG với một thủ tục giản lược do
một Thẩm phán chủ tọa [109].
14
(ii) Xem xét lại tính mục đích của biện pháp ngăn chặn tạm giam
Bàn về vấn đề thủ tục TTHS nói chung và việc áp dụng các biện pháp cưỡng
chế nói riêng, trong đó có việc áp dụng BPNCTG, có nhiều cơng trình nghiên cứu
khẳng định rằng cần cân nhắc mục đích của BPNCTG. Trong khi coi BPNCTG là
biện pháp bảo vệ trật tự xã hội và QCN nói chung, lại vơ tình xâm phạm đến quyền
của những người, mà theo ngun tắc suy đốn vơ tội chưa bị coi là tội phạm. Các
nội dung này được thể hiện qua các cơng trình nghiên cứu “Các biện pháp cưỡng
chế trong tố tụng hình sự” do I.L.Trunov và L.K.Trunova thuộc Trung tâm pháp
luật hợp tác về lý thuyết và thực tiễn của luật hình sự và TTHS Nga thực hiện năm
2003 và sách chuyên khảo “The Japanese way of justice- Prosecuting crime in
Japan” (Thủ tục tư pháp của Nhật Bản - Truy tố tội phạm tại Nhật Bản) của tác giả
David T. Johnson. Trong đó, khi quan niệm về bản chất và sự ảnh hưởng của việc
áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong đó chủ yếu là biện pháp tạm giữ và
BPNCTG, tác giả I.L.Trunov và L.K.Trunova khẳng định: việc áp dụng biện pháp
cưỡng chế này hạn chế đáng kể các quyền hiến pháp quy định của NBBT (nghi
phạm) đối với tự do, quyền bất khả xâm phạm cá nhân và các quyền và tự do khác.
Quyền tự do và quyền bất khả xâm phạm và quyền tự quyết cá nhân của mỗi người
được đảm bảo bởi một hệ thống bảo đảm về thủ tục tố tụng pháp lý và hình sự. Vì
vậy, căn cứ để lựa chọn biện pháp cưỡng chế cần phải được kiểm tra cẩn thận trong
phiên tịa, tính đến danh tính, nghề nghiệp, nơi thường trú, tuổi tác, tình trạng sức
khỏe, tình trạng hơn nhân, người phụ thuộc, trẻ vị thành niên và hoàn cảnh liên
quan khác. Trong quyết định về việc hối thúc yêu cầu lựa chọn biện pháp cưỡng chế
giam giữ phải ghi rõ căn cứ và động cơ cần phải giam giữ nghi phạm hoặc NBBT,
cũng như vạch ra các tình huống qua đó cho thấy khơng thể lựa chọn một biện pháp
nhẹ hơn [92].
Trong luật TTHS Liên bang Nga, khi quy định về mục đích, điều kiện để áp
dụng các biện pháp cưỡng chế liên quan đến giữ, giam NBBT, luôn chú ý đến vấn
đề ban hành các quy định này cũng như việc thi hành các quy định đó trên thực tế
phải luôn thực sự chú ý đến yếu tố bảo vệ quyền lợi của NBBT. Chẳng hạn, trong
“Giáo trình Tố tụng hình sự” của Đại học tổng hợp quốc gia Mát-xcơ-va, quan niệm
15
việc “Giam giữ (bắt giữ) bị can hoặc nghi phạm là thực thi hơn cả, so với tất cả các
biện pháp cưỡng chế khác, hạn chế quyền hiến định và tự do của con người mà cho
đến thời điểm bị buộc tội khi giả định về sự vô tội vẫn được coi là vơ tội. Vì vậy, để
áp dụng biện pháp này cần bảo đảm đáng tin cậy đặc biệt chống lại các sai sót có
thể có và sự lạm dụng” [117]. Chính vì thế, nhà lập pháp Nga đã thiết lập hệ thống
các quy định trong Hiến pháp và luật TTHS nhằm hạn chế thấp nhất sự ảnh hưởng
đến quyền lợi của bị can, bị cáo khi áp dụng tạm giam. Theo Hiến pháp Liên bang
Nga việc bắt giữ, tạm giam và giam giữ chỉ được phép thực hiện theo quyết định
của Tịa án. Bên cạnh đó, vấn đề bảo đảm các quyền lợi, nghĩa vụ khác của bị can,
bị cáo khi bị áp dụng các biện pháp tạm giữ hoặc tạm giam cũng được quan tâm,
điều này thể hiện qua quy định tại Điều 98 BLTTHS: Các cơ quan mà trong quá
giải quyết vụ án hình sự và ra bản án có hiệu lực pháp luật, chịu trách nhiệm áp
dụng các biện pháp nuôi dưỡng trẻ em và việc bảo vệ tài sản của người bị bắt giam,
cũng như thông báo về việc này cho người kế nhiệm.
(iii) Những thực tế đáng quan ngại trong quá trình giam giữ người bị cáo
buộc phạm tội
Sách chuyên khảo “Ensure the right of the accused under Article 6 of the
European Convention on Human Rights” (Đảm bảo quyền cho người bị buộc tội
theo Điều 6 Công ước châu Âu về nhân quyền) của tác giả Stephanos Stavros [106].
Cơng trình đã bình luận nội dung Điều 6 về Công ước Châu Âu về nhân quyền.
Trong Công ước này một số quyền của bị cáo phải được Tịa án cơng nhận là quyền
được xét xử cơng bằng, kịp thời, cơng khai bằng một Tịa án độc lập. Tác giả phân
tích các quyền của bị cáo được tơn trọng, bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, quyền
được tiếp cận với pháp luật, quyền được cung cấp những điều kiện cần thiết để
chuẩn bị đối phó với những cáo buộc đến từ Viện Công tố. Tương tự như vậy, tác
giả David T. Johnson trong cơng trình nghiên cứu của mình cũng khẳng định: Thủ
tục TTHS có sự tác động trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm
của con người. Ở Nhật Bản, các cơng tố viên có quyền kiểm sốt lớn nhất trong việc
bảo đảm các giá trị này. Trong cuốn sách này, tác giả David T. Johnson mô tả hoạt
động của các công tố viên Nhật Bản trong các bối cảnh xã hội, chính trị, và pháp lý
16
cho phép và hạn chế hành động của họ. Từ đó, tác giả nhấn mạnh các hoạt động
nhằm hài hồ giữa lợi ích của nhà nước với các lợi ích của cá nhân trong TTHS
Nhật Bản [89].
Bài viết “Human rights in the criminal justice system” (Quyền con người
trong hệ thống tư pháp hình sự) trong kỷ yếu Hội thảo QCN tại diễn đàn ASEM.
Các tác giả cho rằng quyền được bảo vệ về thân thể, quyền được thông báo về
nguyên nhân bị giam giữ, quyền suy đốn vơ tội là những quyền quan trọng trong tư
pháp hình sự. Để bảo đảm quyền này các tác giả đề xuất nhiều giải pháp trong đó
giải pháp đáng chú ý là bảo đảm sự độc lập và vô tư của các Điều tra viên, Kiểm sát
viên khi họ thực hiện nhiệm vụ [88].
Một khía cạnh khác mà các nhà nghiên cứu và giới lập pháp thường bỏ qua,
đó là những tác động tiêu cực của công việc giam giữ đối các giám thị trại giam.
Cuốn sách chuyên khảo: “The use of force by detention officers” (Sự sử dụng vũ lực
của các nhân viên giam giữ) của tác giả Marie. L. Griffin đã đi sâu chứng minh giả
thuyết của việc các nhân viên giam giữ bị ảnh hưởng bởi mơi trường làm việc, trình
độ nhận thức nên có thái độ tương tác đối với các đối tượng bị giam giữ khác nhau.
Kết quả nghiên cứu của cuốn sách không trực tiếp chỉ ra những nội dung liên quan
đến các BPNCTG nhưng là một khía cạnh đáng lưu tâm để bảo đảm tốt hơn QCN
trong TTHS [96].
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
BPNCTG là một trong những chế định quan trọng của pháp luật TTHS nên
được nhiều tác giả trong nước quan tâm nghiên cứu trong những năm vừa qua. Đặc
biệt, trong khoảng thời gian diễn ra hoạt động sửa đổi, bổ sung BLTTHS 2003.
Theo đó, việc sửa đổi, bổ sung chế định BPNCTG đã thu hút sự tham gia của nhiều
học giả với các cơng trình đa dạng cả về nội dung và hình thức. Các tác giả thường
lựa chọn nghiên cứu một hoặc nhiều nhóm vấn đề trong chế định những biện pháp
ngăn chặn nói chung và BPNCTG nói riêng. Các cơng trình này về cơ bản cũng đã
thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Giới hạn trong phạm vi nghiên cứu đề tài của
luận án, nghiên cứu sinh tập trung khảo sát các cơng trình trong nước theo hướng:
Các cơng trình nghiên cứu về đặc điểm, bản chất của biện pháp ngăn chặn và mối
17