Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

PHẢN ỨNG MÀNG XƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.73 MB, 27 trang )

PHẢN ỨNG MÀNG XƯƠNG
Phản ứng màng xương xảy ra khi vỏ xương phản ứng với một trong nhiều tổn thương. U, nhiễm
trùng, chấn thương, một số thuốc và một số bệnh khớp có thể nâng cao màng xương từ vỏ xương
và hình thành các dạng phản ứng màng xương khác nhau (hình 1A, 1B, 1C, 1D, 1E, 1F, 1G, 1H,
1I). Hình thái phản ứng màng xương được xác định bởi cường độ, tính xâm lấn và thời gian của
tổn thương bên dưới. Hơn nữa, màngxương ở trẻ em thường hoạt tính hơn và ít dính với vỏ
xương hơn so với người lớn. Vì vậy, phản ứng màng xương có thể xảy ra sớm hơn và có tính
xâm nhập hơn ở người lớn.

Hình 1A. Các phân nhóm khác nhau của phản ứng màng xương xâm lấn và không xâm lấn. Các
sơ đồ chỉ ra phản ứng màng xương mỏng (A), đặc (B)


Hình 1C. Các phân nhóm khác nhau của phản ứng màng xương xâm lấn và không xâm lấn. Các
sơ đồ chỉ ra phản ứng màng xương: dày không đều (C), có vách (D)

Hình 1E. Các phân nhóm khác nhau của phản ứng màng xương xâm lấn và không xâm lấn. Các
sơ đồ chỉ ra phản ứng màng xương lá (vỏ hành) (E), vng góc/tóc dựng ngược (hair-on-end)
(F)


Hình 1G. Các phân nhóm khác nhau của phản ứng màng xương xâm lấn và không xâm lấn. Các
sơ đồ chỉ ra phản ứng màng xương: ánh mặt trời (sunburst) (G), mất tổ chức (H).


Hình 1I. Các phân nhóm khác nhau của phản ứng màng xương xâm lấn và không xâm lấn. Các
sơ đồ chỉ ra phản ứng màng xương: tam giác Codman (I).

Hình 2A. Phản ứng màng xương đặc (u xương dạng xương-osteoid osteoma). Hình X quang
nghiêng thấy phản ứng màng xương trơn láng, dày ở vỏ xương phía trước phần dưới xương đùi
(mũi tên).




Hình 2B. Phản ứng màng xương đặc (u xương dạng xương-osteoid osteoma). Hình CT axial thấy
ổ nidus thấu quang trung tâm (mũi tên) và phản ứng màng xương dày (đầu mũi tên).
CÁC KIỂU PHẢN ỨNG MÀNG XƯƠNG
Có sự chồng lấp nhầm lẫn về thuật ngữ mô tả phản ứng màng xương trong y văn. Người ta đã
phân loại về thuật ngữ các dạng liên tục so với gián đoạn, một lớp với nhiều lớp, các phân nhóm
xâm nhập và khơng xâm nhập. Trong việc đánh giá phản ứng màng xương, mục tiêu chính là
nhận ra sự hiện diện hơn là phân nhóm đặc hiệu vì có sự chồng lấp đáng kể trong các nhóm bệnh
dẫn đến hai dạng chính của phản ứng màng xương: xâm nhập và không xâm nhập. Trong nhiều
trường hợp, không thể xác định trên X quang qui ước là bệnh lý lành hay ác. Quá trình bệnh lý
gây tích tụ nhanh của xương bị kết lại sau một thời gian ngắn có thể tạo ra phản ứng màng xương
xâm nhập, trong khi q trình bệnh ít mạnh và tiến triển châm hơn tạo ra hình ảnh khơng xâm lấn
(bảng 1 và các hình 1A, 1B, 1C, 1D, 1E, 1F, 1G, 1H, 1I ).
BẢNG 1: Các kiểu phản ứng màng xương
Khơng xâm lấn


Mỏng



Đặc



Dày khơng đều




Có vách

Xâm lấn


Tạo lá (vỏ hành)



Có gai

Vng góc/Tóc dựng ngược
Ánh mặt trời


Mất tổ chức



Tam giác Codman

Mặc dù có sự chồng lắp đáng kể, đơi khi các phân nhóm phản ứng màng xương có thể gợi ý một
số bệnh. Ví dụ, phản ứng màng xương đặc là một dạng không xâm nhập chủ yếu gặp trong các
q trình bệnh diễn tiến chậm, lành tính. Gãy xương đã lành, u xương dạng xương và viêm
xương tủy xương có thể tất cả đều có phản ứng màng xương đặc và có dạng phiến dày hoặc
mỏng (hình 2A, 2B).
Trong phân nhóm phản ứng màng xương dạng lá, hình thành nhiều lá xương mới xung quanh vỏ
xương, tạo ra hình ảnh dạng lá hoặc vỏ hành (hình 3). Người ta cho rằng các chu kỳ luân phiên
nhau của tổn thương xương nhanh và chậm dẫn đến hình thành các lá đồng tâm. Tuy nhiên, các
nghiên cứu gần đây đã gợi ý rằng nhiều lá hình thành do sự điều biến của các lá nguyên bào sợi ở



mô mềm kế cận, phát sinh khả năng tạo xương và cho ra các lá xương mới. Cơ chế được đề nghị
khác là các lá xương mới bong ra khỏi vỏ xương, lá thượng tầng bên trong bị kích thích để hình
thành lá xương mới ở bên dưới. Hình ảnh dạng lá nhìn thấy ở nhiều tổn thương gồm sarcoma,
viêm xương tủy xương và u nguyên bào sụn (chondroblastoma).

Hình 3. Phản ứng màng xương dạng bong vỏ hành (viêm xương tủy xương)Hình X quang thẳng
cho thấy phản ứng màng xương dạng lá (mũi tên) dọc theo vỏ xương đùi.


Hình 4. Phản ứng màng xương kiểu tóc dựng ngược (hair-on-end) (sarcoma Ewing). Hình X
quang nghiêng cẳng chân thấy các tua gai xương tỏa ra vng góc với vỏ xương (mũi tên).

Hình 5. Phản ứng màng xương kiểu tóc dựng ngược (hair-on-end) (Viêm xương mạn). Hình
axial CT xương bả vai cho thấy các tua gai (mũi tên) xuất phát dọc theo vỏ xương bả vai phía
sau.


(Nguồn: Katz L, New Haven, CT).
Dạng tua gai là dạng phản ứng màng xương xâm nhập gồm hai phân nhóm tóc dựng ngược và
ánh mặt trời. Các gai của xương hình thành vng góc với bề mặt màng xương trong phân nhóm
tóc dựng ngược (hình 4 và 5), gợi ý nhiều đến sarcoma Ewing. Các gai dạng dường của xương
mới hình thành dọc theo các kênh mạch mới và các dải xơ (các sợi Sharpey). Trong phản ứng
màng xương thuộc phân nhóm ánh mặt trời, các gai xương mới tỏa ra theo kiểu phân ly thay vì
vng góc với vỏ xương (hình 6A, 6B, 6C) một hình ảnh thường liên quan với sarcoma xương
thơng thường.

Hình 6A. Phản ứng màng xương ánh mặt trời (sunburst) (sarcoma tạo xương biến chứng bệnh
Paget lâu ngày). X quang thế đùi ếch của xương đùi cho thấy phản ứng màng xương dạng ánh



mặt trời và xâm nhập mất tổ chức (mũi tên).

Hình 6B. Phản ứng màng xương ánh mặt trời (sunburst) (sarcoma tạo xương biến chứng bệnh
Paget lâu ngày). Hình axial T2W MRI (B) và axial CT (C) cho thấy dày vỏ xương lan rộng (đầu
mũi tên) và khối mô mềm lớn (mũi tên) xuang quang thân xương đùi.


Hình 6C. Phản ứng màng xương ánh mặt trời (sunburst) (sarcoma tạo xương biến chứng bệnh
Paget lâu ngày). Hình axial T2W MRI (B) và axial CT (C) cho thấy dày vỏ xương lan rộng (đầu
mũi tên) và khối mô mềm lớn (mũi tên) xung quanh thân xương đùi.
Tam giác Codman tạo ra khi một phần màng xương bong khỏi vỏ xương do u, mủ hoặc xuất
huyết ở một bờ (hình 7). Dạng phản ứng màng xương xâm nhập này thường thấy trong sarcoma
xương và đôi khi gặp trong nhiễm trùng và di căn.

Hình 7. Tam giác Codman (ung thư tiền liệt tuyến). X quang thẳng phần xa xương đùi cho thấy
bờ màng xương (mũi tên mỏng) bong ra khỏi vỏ xương (đầu mũi tên) ở vị trí di căn đặc xương
(mũi tên dày). (Nguồn: Katz L, New Haven, CT).
CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT PHẢN ỨNG MÀNG XƯƠNG
Đại cương về chẩn đoán phân biệt phản ứng màng xương được trình bày ở bảng 2.
BẢNG 2: Chẩn đoán phân biệt phản ứng màng xương
Viêm khớp


Viêm khớp vảy nến



Viêm khớp phản ứng


Chuyển hóa


Bệnh xương khớp phổi phì đại



Bệnh đầu chi tuyến giáp (thyroid acropathy)


Bẩm sinh


Chứng dày da viêm màng xương

(pachydermoperiostosis)


Phản ứng màng xương sơ sinh

Chấn thương


Gãy stress



Gãy xương


Thuốc


Chứng nhiễm fluor (fluorosis)



Bệnh thừa vitamin A



Prostaglandin

U


Sarcoma xương



Sarcoma Ewing



U nguyên bào sụn



U hạt bạch cầu ưa acid




U xương dạng xương



Leukemia và lymphoma

Nhiễm trùng
Di truyền


Bệnh Caffey

Mạch máu


Ứ trệ tĩnh mạch

Viêm khớp vảy nến
Viêm khớp vảy nến là bệnh lý khớp cột sống huyết thanh âm tính với các biến đổi viêm liên
quan đến da và khớp. Tăng sinh xương là một đặc điểm quan trọng của viêm khớp vảy nến, và
viêm màng xương xảy ra dọc theo thân xương ngón tay. Ban đầu phản ứng màng xương phong


phú và mịn. Sau đó nó trở nên trưởng thành vào xương mới đặc, gây ra hình ảnh rộng thân
xương (hình 8). Dấu hiệu X quang phụ gồm lỗng xương quanh khớp, sưng mơ mềm, mất sụn và
mịn bờ xương.

Hình 8. Viêm khớp vảy nến. Hình X quang bàn tay thẳng thấy phản ứng màng xương dày, đặc

dọc theo đốt gần ngón tay giữa (mũi tên). Mịn bề mặt xương thấy ở đầu của đốt ngón giữa và xa
(đầu mũi tên).
Viêm khớp phản ứng
Viêm khớp phản ứng là một bệnh khớp cột sống huyết thanh âm tính khác, có thể xảy ra sau
nhiễm trùng sinh dục (Chlamydia trachomatis, Neisseria gonorrheae) hoặc nhiễm trùng đường
tiêu hóa (các chủng Salmonella, Shigella, hoặc Campylobacter). Phản ứngh màng xương khu trú
tạo ra, khó phân biệt với viêm khớp vảy nến, nhưng thường ảnh hưởng đến chi dưới (như xương
gót và xương bàn chân). Phản ứng màng xương có thể dẫn đến hình thành xương mịn dọc theo
thân và hành xương.
Chứng dày da viêm màng xương
Chứng dày da viêm màng xương là một rối loạn di truyền nhiễm sắc thể thường trội có đặc điểm
là dày rõ rệt da của các chi mặt và sọ. Nó cịn được gọi là bệnh khớp xương phì đại ngun
phátvì khơng do ngun nhân thứ phát như bệnh phổi. Chứng dày da viêm màng xương là một
bệnh tự giới hạn thường ảnh hưởng đến trẻ vị thành niên và tiến triển một vài năm trước khi ổn
định. Phản ứng màng xương đối xứng và tồn thể hóa trong chứng dày da viêm màng xương có
xu hướng pha trộn với vỏ xương và liên quan chủ yếu đến đầu xa của xương quay, trụ, xương
chày và xương mác.


Phản ứng màng xương sinh lý ở trẻ sơ sinh
Phản ứng màng xương sinh lý ở trẻ sơ sinh thường đối xứng và xảy ra ở trẻ nhỏ dưới 6 tháng và
thường ở khoảng giữa 1 đến 4 tháng tuổi. Sự phát triển nhanh của trẻ nhỏ và màng xương ít dính
chặt có thể gây ra dấu hiện này. Hình ảnh thông thương là phản ứng màng xương mỏng, một lớp
(<2mm) liên quan đến một phía của xương dài, đặc biệt là xương đùi và xương chày (hình 9).

Hình 9. phản ứng màng xương sinh lý. Hình X quang thẳng của hai xương đùi thấy phản ứng
màng xương một lớp, trơn láng ở mặt ngoài hai thân xương đùi (mũi tên). (Nguồn: Kotecha M,
Philadelphia, PA).
Chứng nhiễm fluor (fluorosis)
Chứng nhiễm fluor được biết là do kích thích tạo cốt bào và có thể gây phản ứng màng xương

đặc, hầu hết thường ở xương ống phân bố đối xứng, đặc biệt ở vị trí chỗ bám cơ và dây chằng.
Các dấu hiệu kèm theo là đóng vơi gân và dây chằng (dọc sau, lưng -chậu, ụ cùng và gai cùng)
và xơ đặc xương (hầu như nổi bật ở đốt sống và xương chậu).
Chứng thừa vitamin A
Retinoids thường được dùng để điều trị cho trẻ em và trẻ vị thành niên bị mụn trứng cá nặng, vảy
nến và bỏng. Lạm dụng có thể dẫn đến chứng thừa vitamin A, gây ra phản ứng màng xương đặc
dọc theo xương dài, chậm phát triển và dính sớm sụn tiếp hợp. Phản ứng màng xương xảy ra lớn
nhất là gần trung tâm của thân xương và giảm dần về phía đầu xương. Khơng giống như bệnh
Caffey, phản ứng màng xương hiếm khi liên quan đến xươngha2m dưới. Xương trụ, chi dưới,
xương bàn tay và xương đòn là vị trí thường gặp nhất.


Prostaglandins
Prostaglandins có thể dùng để sửa chữa cịn ống động mạch ở trẻ nhỏ bị tim bẩm sinh và sinh lý
phụ thuộc ống. Chúng ược nghĩ là giảm tiêu xương tạo cốt bào, dẫn đến phản ứng màng xương
kèm đau chi và sưng chi đáng kể. Tất cả dấu hiệu này đều được cải thiện sau khi ngừng thuốc.
Nhiễm trùng
Viêm xương tuỷ xương có thể gây phản ứng màng xương khu trú bất kỳ nơi đâu nhưng chủ yếu
gây ra hình ảnh này ở xương dài. Viêm lan dưới màng xương gây nâng cao màng xương và kích
thích sự đặt xuống các lớp xương mới song song với thân xương. Cuối cùng, một lượng xương
mới bao quanh vỏ xương thành ột là xương dày khơng đều (bao xương) (hình 10). Sự gián đoạn
cung cấp máu vỏ xương dẫn đến hoại tử xương với sự để lại các mảnh đặc xương chết vơ mạch
(xương tù). Trong số nhiều phân nhóm phản ứng màng xương có thể xảy ra trong nhiễm trùng là
các dạng mất tổ chức, mỏng, tạo lá và tua gai. Cũng có thể tạo ra tam giác Codman thường có
huỷ xương ở trong giai đoạn cấp.

Hình 10. Viêm xương tuỷ xương mạn tính. X quang nghiêng phần duơi1 xương đùi thấy phản
ứng màng xương dày, đặc (bao xương, mũi tên thẳng) bao quanh xương chết (mảnh xương tù,
đầu mũi tên).
Bệnh caffey

Bệnh Caffey còn được gọi là tăng sinh xương vỏ xương trẻ nhỏ, là một bệnh viêm tự giới hạn
hiếm gặpcu3a trẻ nhỏ, có đặc điểm là tăng kích thích, sưng mơ mềm, tăng sinh vỏ xương và ặc
biệt thường liên quan đến xương hàm dưới và xương mặt. Bệhn được cho là di truyền nhiểm sắc


thể thường, trội, liên quan với đột biến collagen type 1. Bệnh Caffey hầu như luôn xảy ra trước 6
tháng và có đặc điểm là phản ứng màng xương dạng lá, ảnh hưởng đến xương hàm dưới, xương
bả vai, xương địn và xương trụ, xương sườn ít gặp hơn (hình 11).

Hình 11. Bệnh Caffey. X quang nghiêng ở bé gai 2 tháng tuổi đau chi ưới trái cho thấy phản ứng
màng xương dày, lan rộng dọc theo xương chày và xương mác (mũi tên).
Bệnh xương khớp phổi phì đại
Bệnh xương khớp phổi phì đại là nguyên nhân thường gặp của phản ứng màng xương ở người
lớn liên quan với nhiều bệnh lý ác tính hoặc mạn tính. Nó hầu như thường gặp ở bệnh nhân có u
trong lồng ngực nguyên phát, đặc biệt là ung thư phổi tế bào nhỏ. Các nguyên nhân thường gặp
khác gồm u màng phổi và trung thất, tổn thương phổi nung mủ mạn tính (abscess phổi, dãn phế
quản và tụ mủ), bệnh xơ nang, và di căn phổi ở trẻ em và trẻ nhỏ. Đôi khi xảy ra liên quan với u


ngồi ngực và bệnh đường tiêu hố (xơ gan do mật, viêm đại tràng loét, bệnh Crohn).

Hình 12A. Bệnh xương khớp phì đại thứ phát. Thế thẳng hai bên ở phần dưới xương đùi cho thấy
phản ứng màng xương một lớp dày và mỏng (mũi tên) dọc theo thân xương đùi hai bên.

Hình 12B. Bệnh xương khớp phì đại thứ phát. Thế thẳng hai bên ở phần dưới xương đùi cho thấy
phản ứng màng xương một lớp dày và mỏng (mũi tên) dọc theo thân xương đùi hai bên.


Hình 12C. Bệnh xương khớp phì đại thứ phát. X quang phổi thẳng cho thấy khối thuỳ trên phổi
phải do ung thư tế bào nhỏ (mũi tên).

Vì bệnh xương khớp phì đại qua trung gian hệ thống, mặc dù thơng qua một cơ chế khơng rõ, nó
thường gây ra phản ứng màng xương phân bố rộng và đối xứng (hình 12A, 12B, 12C và 13A,
13B, 13C). Nó thường liên quan đến thân xương dài, chừa lại đầu xương. Có thể có liên quan


đến

ngón

tay

dùi

trống



thường

lớn

các

chi



sưng

các


khớp.

Hình 13A. Bệnh xương khớp phổi phì đại. X quang hai bàn tay thẳng cho thấy phản ứng màng
xương đối xứng, mịn, dày dọc theo thân xương một số bàn tay và ngón tay (mũi tên).

Hình 13B. Bệnh xương khớp phổi phì đại. X quang hai bàn tay thẳng cho thấy phản ứng màng
xương đối xứng, mịn, dày dọc theo thân xương một số bàn tay và ngón tay (mũi tên).


Hình 13C. Bệnh xương khớp phổi phì đại. Xạ hình xương cho thấy tăng hấp thu phóng xạ hai
bên ở vị trí phản ứng màng xương.
Bệnh đầu chi do tuyến giáp
Bệnh đầu chi do tuyến giáp là một biến chứng hiếm của bệnh tuyến giáp tự miễn, có đặc điểm lồi
mắt tiến triển, sưng bàn tay và bàn chân tương đối đối xứng, ngón tay dùi trống và phù niêm
trước xương chày. Nó có thể phát sinh ra sau cắt tuyến giáp hoặc điều trị iode phóng xạ của
cường tuyến giáp nguyên phát, với hầu hết các bệnh nhân trở nên bình giáp hoặc nhược giáp khi
triệu chứng phát triển. Bệnh đầu chi tuyến giáp tạo ra phản ứng màng xương dạng gai đối xứng
và tồn thể hố, chủ yếu liên quan đến phần giữa thân xương ống của bàn tay và bàn chân.
Gãy stress
Gãy stress có thể thấy phản ứng màng xương đặc kín đáo ở vùng đau hoặc chấn thương. Bất
thường nhìn thấy ớm trên MRI hơn X quang thường với phù tuỷ xương và tăng tín hiệu cơ và
màng xương trên T2W. Vị trí thường gặp của gãy stress gổm xương chày, xương bàn tay, xương
dài, xương chậu và xương gót.
Gãy xương
Phản ứng màng xương liên quan đến gãy xương có thể cho thấy hình ảnh đặc, khơng xâm nhập
hoặc hình ảnh xâm nhập mất tổ chức hơn (hình 14A, 14B). Gãy xảy ra ở vị trí liên quan đến mức
độ vận động lớn hơn có thể gây ra phản ứng màng xương dạng mất tổ chức hoá hơn. Phản ứng
màng xương do chấn thương và gãy bệnh lý có thể có hình ảnh tương tự nhau. Ngồi ra, có thể



liên quan với khối mô mềm trên X quang thường, ần được theo dõi để khẳng định máu tụ thuyên
giảm.

Hình 14A. Gãy xương. X quang thẳng chụp 7 ngày sau chấn thương cho thấy phản ứng màng
xương xâm nhập mất tổ chức hố ở vị trí gãy (mũi tên) liên quan đến cổ đốt bàn chân III.


Hình 14B. Gãy xương. X quang thẳng chụp lại 4 tuần sau chấn thương cho thấy phản ứng màng
không xương xâm nhập mỏng ở cùng vị trí (mũi tên) phù hợp với gãy xương đã liền.
Sarcoma xương
Sarcoma xương thông thường là u trong tuỷ xương độ ác cao thường gặp, tạo ra chất căn bản
dạng xương. Phần lớn các tổn thương xảy ra ở các bệnh nhân dưới 25 tuổi, xương đùi, xương
chày và xương mác là vị trí thường gặp nhất. Thường thấy các phân nhóm phản ứng màng xương
kiều ánh mặt trời, tóc dựng ngược hoặc tam giác Codman (hình 15). Tuy nhiên, cũng có thể thấy
các dạng phản ứng màng xương dạng lá, đặc, mỏng hoặc mất tổ chứ. Một vùng chuyển tiếp rộng,
phá vỡ vỏ xương và khối mô mềm là tất cả các đặc điểm dè dặt, cần phải đánh giá thêm.

Hình 15. Sarcoma tạo xương. Hình X quang nghiêng của phẩn giữa xương đùi thấy phản ứng
màng xương dạng ánh mặt trời với sự hình thành xương mới kiểu phân ly (mũi tên). (Nguồn:
Haims A, New Haven, CT).
Sarcoma Ewing
Sarcoma Ewing bắt nguồn từ các tế bào trung mơ khơng biệt hố của tuỷ xương hoặc các tế bào
ngoại bì thần kinh nguyên thuỷ và chiếm 6-8% các u xương ác tính nguyên phát. Mặc dù vị trí
đặc trưng là trong tuỷ, trên X quang chỉ các thay đổi vỏ xương là rõ rệt với thành phần tiêu
xương dạng thấm hoặc mọt gặp. Có thể thấy khối mô mềm lớn. Dạng phản ứng màng xương
thường xâm nhập, với phân nhóm tóc dựng ngược khá đặc trưng cho sarcoma Ewing.
U nguyên bào sụn
U nguyên bào sụn là tổn thương tạo sụn lành tính thường xảy ở đầu xương ở các bệnh nhân chưa
trưởng thành xương trục. Tổn thương thường tiêu xương và có thể có bờ xơ xương. Phản ứng



màng xương do u nguyên bào sụn thờng xảy ra nhiều nhất ở các tổn thương lớn trong xương dẹt
hoặc xương ống nhỏ. Phản ứng màng xương có thể dày, đặc hoặc dạng lá (hình 16)

Hình 16. U nguyên bào sụn. Hình X quang thấy phản ứng màng xương dạng lá (mũi tên) và mất
ổ chức dọc theo phần gần xương cánh tay.
U hạt bạch cầu ưa acid
U hạt bạch cầu ưa acid là dạng lành tính trong ba biến thể lâm sàng của bệnh mô bào Langerhans
(các bệnh khác là Letterer-Siwe và Hand-Schüller- Christian ). Tăng sinh u của tế bào
Langerhans biểu hiện nổi bật là tổn thương huỷ xương. Tuy nhiên có thể có các vùng xơ xương
với phản ứng màng xương dạng dày hoặc dạng lá, đặc biệt trong giai đoạn liền xương. Hình ảnh
này có thể nhầm với viêm xương tuỷ xương.
U xương dạng xương
U xương dạng xương là một u tạo xương lành tính ảnh hưởng đến trẻ em và người trẻ, hầu hết
thường xảy ra ở xương đùi, xương chày, xương mác hoặc xương cánh tay. Phản ứng màng
xương đặc và dày phát sinh như là đáp ứng của u. Ổ nidus thấu quang trung tâm có thể khó nhìn
thấy trên X quang qui ước và CT có thể giúp trong các trường hợp này (hình 17A, 17B, 17C). U
xương dạng xương dưới màng xương có thể tạo ra phản ứng màng xương xâm nhập lan rộng,
trong khi tổn thương trong khớp thờng gây hình thành xương mới tương đối ít.


Hình 17A. U xương dạng xương. X quang thẳng phần gần xương chày thấy phản ứng màng
xương dày, trơn láng dọc theo vỏ xương chày phía trong (mũi tên)

.
Hình 17B. U xương dạng xương. Hình tái tạo coronal (A) và hình axial CT (B) thấy ổ nidus
trung tâm thấu quang (mũi tên) bao quanh bởi phản ứng màng xương (đầu mũi tên).



Hình 17C. U xương dạng xương. Hình tái tạo coronal (A) và hình axial CT (B) thấy ổ nidus
trung tâm thấu quang (mũi tên) bao quanh bởi phản ứng màng xương (đầu mũi tên).
Leukemia và Lymphoma
Cả leukemia và lymphoma đều có thể liên quan với phản ứng màng xương dạng xâm nhập. Ở trẻ
em, leukemia có lẽ ảnh hưởng đến xương dài nhiều hơn, trong khi ở người lớn xương trục
thường bị ảnh hưởng nhiều hơn. Thường gặp phản ứng màng xương dạng lá hoặc mỏng (hình
18) với hình ảnh tóc dựng ngược ít hơn. Lymphoma có thể gây ra phản ứng màng xương xâm


nhập và mất tổ chức, và có thể liên quan với khối mơ mềm lớn hơn vùng huỷ xương.

Hình 18. X quang thẳng xương đùi cho thấy phản ứng màng xương dày đặc dọc theo thân xương
đùi hai bên.
Ứ trệ tĩnh mạch
Ứ trệ tĩnh mạch, đặc biệt là ở chi dưới, có thể dẫn đến phản ứng màng xương đặc lượn sóng tồn
thể, ban đầu có thể tách khỏi vỏ xương (hình 19). Tăng áp lực dịch mơ kẽ trung bình trong ứ trệ
tĩnh mạch có thể gây đè ép vào màng xương, dẫn đến hình thành màng xương mới phản ứng.
Mặc dù không phải luôn hiện diện, các manh mối để chẩn đoán gồm phù dưới da lan rộng ngấm
vôi (phlebolith) trong các tĩnh mạch dãn.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×