BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
------------------ĐÀO VŨ PHƯƠNG LINH
NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TRONG
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-------------------
ĐÀO VŨ PHƯƠNG LINH
NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TRONG
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Chuyên ngành : Kinh tế Phát triển
Mã số
: 9310105
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1.
TS. PHẠM KHÁNH NAM
2.
TS. LÊ VĂN CHƠN
TP. Hồ Chí Minh- Năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ kinh tế “Năng suất lao động trong doanh
nghiệp Việt Nam” là nghiên cứu riêng của tôi.
Các kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng được cơng
bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Nghiên cứu sinh
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ĐỒ THỊ
TÓM TẮT
5
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU
1.1 Bối cảnh và khoảng trống nghiên cứu
1.1.1 Bối cảnh thực tiễn
Vào những năm 1990 của thế kỷ 20, nền kinh tế Việt Nam đã có bước tăng
trưởng vượt bậc chủ yếu đến từ tăng năng suất suất lao động (NSLĐ) trong nơng
nghiệp. Điều này chính là kết quả của quá trình giải tán hợp tác xã (HTX) và giao
quyền sử dụng đất cho tư nhân. Trong những năm kế tiếp, sự tăng trưởng kinh tế
Việt Nam dựa vào sự phát triển vượt bậc của hệ thống các doanh nghiệp tư nhân
(Bodewig và Magnusson, 2014). Việc làm được tạo ra cho hàng triệu người lao
động nhờ vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang các ngành dịch vụ,
sản xuất và chế biến hướng đến xuất khẩu.
Mặc dù có những tiến bộ rõ ràng và ổn định hơn một số quốc gia khác, hiện nay
Việt Nam đang tiếp tục đối mặt với những thách thức mới. Tốc độ tăng trưởng kinh
tế và việc chuyển đổi từ khu vực nông nghiệp sang các ngành khác có dấu hiệu
chậm lại, thu nhập bình qn đầu người ở mức thấp (Vũ Minh Khương, 2016).
Tăng trưởng năng suất từng là nhân tố chính cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam
trong những năm đầu đổi mới đã giảm dần trong thập kỷ vừa qua, tốc độ tăng
NSLĐ đi xuống (Nguyễn Đức Thành và Ohno Kenichi, 2018). Thay vì cải thiện
NSLĐ để tiếp tục đạt được thành tựu, đầu tư vốn trở thành nguồn tăng trưởng kinh
tế chính trong giai đoạn kế tiếp này. Nhưng theo Bodewig và Magnusson (2014),
đây khơng phải là mơ hình bền vững, thích hợp đối với Việt Nam để đảm bảo duy
trì mức độ tăng trưởng cao.
Thêm vào đó, dân số lao động Việt Nam vẫn tiếp tục tăng lên nhưng quy mô lao
động trẻ lại có xu hướng giảm. Điều này có nghĩa Việt Nam không thể tiếp tục dựa
vào quy mô lao động để thành công như ở giai đoạn trước đây mà thay vào đó, Việt
Nam cần tập trung vào việc làm cho lực lượng lao động của mình trở nên năng suất
hơn (Bodewig và Magnusson, 2014, ILO, 2015).
Những năm qua Việt Nam được hưởng lợi từ “lợi tức nhân khẩu học”(1), nhưng hiện
nay xu hướng dân số đang ngày càng già đi làm cho chúng ta giảm cơ hội này. Bên
6
cạnh đó, tốc độ tăng lực lượng lao động hằng năm có xu hướng giảm dần (tốc độ
tăng lực lượng lao động thấp hơn tốc độ tăng dân số). Lực lượng lao động hiện nay
khoảng 54,5 triệu người nhưng chỉ có khoảng 23,67% có bằng cấp chứng chỉ (ILO,
2018). Do đó, để tránh tình trạng “già trước khi giàu”, Việt Nam cần tập trung cải
thiện năng suất lao động cho lực lượng lao động (ILO, 2018).
Lao động (trục trái – triệu người)
Tăng trưởng lao động (trục phải - %)
Hình 1.1 Lao động trong doanh nghiệp giai đoạn 2007-2015
Nguồn: Báo cáo thường niên DNVN 2016
Năng suất lao động là chỉ tiêu quan trọng và phổ biến để phản ánh hiệu quả phát
triển kinh tế cũng như chất lượng của lực lượng lao động. Theo báo cáo kinh tế
thường niên của VEPR (2018), NSLĐ của Việt Nam tăng từ 38,64 triệu VNĐ/người
lao động năm 2006 đến 60,73 triệu VNĐ/ người lao động năm 2017 và phân thành 2
giai đoạn tăng trưởng khác nhau. Nếu giai đoạn 2006-2012, tốc độ tăng trưởng của
NSLĐ Việt Nam có xu hướng giảm (từ 4,05% năm 2006 giảm cịn 3,06% năm
2012) thì giai đoạn 2012-2017 NSLĐ bình quân tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ
5,3%/năm.
Mặc dù được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng NSLĐ tốt
nhất khu vực nhưng khi so sánh quốc tế theo báo cáo của Tổ chức lao động quốc tế
(ILO, 2015) và ADB về NSLĐ của ASEAN 2014 vào ngày 19/08/2014 năng suất
lao động của Việt Nam chỉ bằng 1/4 của Thái Lan, 1/5 của Malaysia, 1/10 của Hàn
Quốc và 1/15 của Singapore. Khi so sánh NSLĐ của 9 nhóm ngành, NSLĐ của Việt
7
Nam đều ở mức gần hoặc thấp nhất so với các nước Đông Bắc Á (Nhật Bản, Hàn
Quốc, Trung Quốc) và ngay cả với các nước trong ASEAN như Singapore, Thái
Lan, hay thậm chí là Indonesia, Philippines, Campuchia và Malaysia (VEPR, 2018).
Hình 1.2: Năng suất lao động của Việt Nam trong bối cảnh các nhóm nước
năm 1991-2022
Nguồn: VEPR, 2018 trích từ ILO ước tính cho giai đoạn 1991-2016 và dự báo giai
đoạn 2017-2022
Khi nghiên cứu về nguồn gốc tăng trưởng của NSLĐ Việt Nam theo phương pháp
hạch toán tăng trưởng NSLĐ thành tăng trưởng mật độ vốn và tăng năng suất nhân
tố tổng hợp (TFP), nhóm nghiên cứu của VEPR (2018) cho rằng TFP đóng vai trị
ngày càng quan trọng trong tăng trưởng NSLĐ bình quân của Việt Nam. Sự sụt
giảm trong tốc độ tăng trưởng TFP kéo theo sự sụt giảm trong tốc độ tăng trưởng
NSLĐ giai đoạn 2008-2009. Sự đóng góp của TFP vào NSLĐ bình qn của Việt
Nam tăng từ 37,05% ở giai đoạn 2006-2012 lên đến 58,59%/năm giai đoạn 20122017 đã làm cho NSLĐ bình quân của giai đoạn này tăng lên mạnh mẽ. Điều này
phản ánh vai trò ngày càng quan trọng của TFP đối với tăng trưởng NSLĐ bình qn
Việt Nam. Hay nói cách khác, muốn gia tăng NSLD Việt Nam cần quan tâm đến các
yếu tố đóng góp vào TFP.
Những phương thức giúp gia tăng năng suất lao động hiện nay được Việt Nam sử
dụng phổ biến đó là gia tăng cơng nghệ thông qua việc mở cửa nền kinh tế cụ thể là
tăng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, khuyến khích các doanh nghiệp trong nước
8
xuất khẩu hay gia tăng năng suất lao động thông qua chính sách tăng lương cơ bản.
Tuy nhiên, thành tựu đạt được vẫn chưa được như mong đợi bằng chứng là những
kết quả về năng suất lao động đã nêu ở trên. Do đó, xem xét rõ hơn về các cách thức
tác động của các chính sách này rất hữu ích vì (1) nó có thể giúp các nhà hoạch định
chính sách định hướng chiến lược, đưa ra các biện pháp can thiệp để có thể cải thiện
năng suất lao động quốc gia từ đó tăng trưởng kinh tế; (2) nó hữu ích cho các nhà
quản trị doanh nghiệp trong thiết kế chính lược phù hợp với doanh nghiệp của mình,
giảm thiểu chi phí và đạt lợi nhuận và cơ hội đầu tư.
Để lực lượng lao động trở nên năng suất hơn đầu tiên cần xem xét đến lực lượng lao
động trong hệ thống các doanh nghiệp vì đây là nơi nắm giữ phần lớn lực lượng lao
động của cả nước. Hệ thống doanh nghiệp và khu vực tư nhân là một phần vô cùng
quan trọng và là động lực chính của tăng trưởng kinh tế Việt Nam (WB, 2014).
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và đầu tư (2019) về năng suất và khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, năng suất lao động hiện nay của Việt Nam
trong giai đoạn gần đây được đóng góp phần lớn từ “hiệu ứng nội ngành” (2). Chính
vì vậy việc phân tích các yếu tố quyết định năng suất lao động ở góc độ doanh
nghiệp, với giả định là thành phần chính của “hiệu ứng nội ngành” trong NSLĐ
tăng là rất quan trọng.
Chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc hay dịch bệnh Covid 19 ảnh hưởng
sâu rộng đến nền kinh tế thế giới, đặc biệt là các quốc gia có độ mở kinh tế cao. Đây
cũng là bối cảnh thực tiễn quan trọng đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Để
thích ứng với bối cảnh mới, các doanh nghiệp cần phát huy “nội lực” (2) đủ mạnh để
tham gia vào thị trường thế giới, qua đó chuyển hóa thách thức thành những lợi ích
mới. Điều kiện đầu tiên để phát huy nội lực chính là nâng cao NSLĐ của doanh
nghiệp.
Kể từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu mở cửa nền kinh tế đã thu hút được một lượng
lớn dòng vốn FDI cũng như đạt được những thành tựu trong xuất khẩu. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài và xuất khẩu được xem là những kênh quan trọng giúp gia tăng
năng suất lao động của các doanh nghiệp trong nước từ chế độ tồn cầu hóa thơng
9
qua việc giới thiệu vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý và hiệu ứng lan tỏa công nghệ
(Liu và cộng sự, 20001; Haidar, 2012; Newman và cộng sự, 2014, Tomiura, 2007).
Ở các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam, FDI được coi là phương tiện
kinh tế quan trọng vì lợi thế tài nguyên giá rẻ và chi phí lao động thấp. Tuy nhiên,
khơng phải quốc gia nào cũng nhận được những lợi ích tích cực từ thu hút FDI
mang lại. Theo Haque và Thaku (2013), thông thường các doanh nghiệp FDI đến từ
các quốc gia tương đối dư thừa vốn mang theo tài sản vơ hình như tiến bộ công
nghệ hay kỹ năng quản lý, thông tin của các thị trường mới. Đây là những tài sản
tương đối hiếm có ở các quốc gia đang phát triển, nhưng ngược lại các quốc gia
đang phát triển lại tương đối dư thừa yếu tố lao động. Do đó Mottaleb và Kalirajan
(2013) tổng hợp, nhiều nghiên cứu trước đây cho rằng các nước đang phát triển nên
tập trung vào việc thúc đẩy các ngành công nghiệp thâm dụng lao động và xuất
khẩu chúng trước tiên do nguồn vốn thấp và lực lượng lao động tương đối dồi dào.
Tuy nhiên cả Mottaleb và Kalirajan (2013) và Haque và Thaku (2013) đều đồng ý
rằng không phải tất cả các nước đang phát triển đều gặt hái được lợi ích từ việc thu
hút FDI cũng như thúc đẩy xuẩt khẩu các ngành công nghiệp thâm dụng lao động.
Bằng chứng tiêu biểu trong nghiên cứu của Haque và Thaku (2013) là Trung Quốc
và Ấn Độ. Cả hai quốc gia đều là quốc gia tương đối dư thừa lao động nhưng có sự
thành cơng khác nhau trong việc thu hút FDI cũng như xuất khẩu đối với ngành
thâm dụng lao động.
Theo một số nghiên cứu như (Dollar và cộng sự, 2005; Mottaleb và Kalirajan,
2013) bên cạnh yếu tố lao động và vốn, việc xuất khẩu các sản phẩm thâm dụng lao
động còn phụ thuộc vào các yếu tố khác. Do đó, mặc dù các doanh nghiệp thuộc
ngành thâm dụng lao động là những ngành có lợi thế tương đối hơn đối với các
quốc gia đang phát triển như Việt Nam, tuy nhiên chỉ tập trung thu hút FDI cũng
như xuất khẩu vào các doanh nghiệp ở các ngành thâm dụng lao động hay tất cả các
doanh nghiệp đều tập trung thu hút FDI và xuất khẩu như hiện nay Việt Nam đang
thực hiện có thể không mang lại được hiệu quả như mong đợi.
10
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam trong đó có ngành da giày, dệt may, thép cho rằng
Nhà nước không nên thu hút vốn FDI vào những công đoạn mà họ đã có thể sản
xuất và đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường. Tập trung thu hút FDI vào những doanh
nghiệp thâm dụng lao động để rồi lao động Việt Nam chỉ nhận được một phần rất
nhỏ từ lương của người lao động trong khi đó ngân sách nhà nước phải bỏ ra số tiền
rất lớn để đầu tư cho cơ sở hạ tầng và cắt giảm thuế (Tạp chí tài chính, 2019).
Các ngành thâm dụng lao động trong đó có dệt may và da giày vốn dĩ có vị thế lớn
trong kim ngạch xuất khẩu nhiều năm liền của Việt Nam cũng đang đứng trước
nhiều sức ép cạnh tranh từ các quốc gia có nguồn lao động dồi dào khác như
Banglades hoặc Myanmar và đang cho thấy dấu hiệu bất ổn.
Theo VCCI và PWC (2019), hiện nay chính phủ Việt Nam đang đổi mới chiến lược
thu hút FDI theo hướng thu hút vào những ngành mà đất nước có lợi thế mạnh
nhưng đồng thời cũng là nơi các nhà đầu tư nước ngồi có thể cung cấp hàng hóa và
dịch vụ có cơng nghệ, giá trị gia tăng cao mà các cơng ty Việt Nam khơng có. Các
lĩnh vựcbao gồm công nghệ cao CNTT, chế biến và sản xuất, công nghiệp hỗ trợ, du
lịch, dịch vụ và nông nghiệp công nghệ cao. Báo cáo này cũng nói rằng, mặc dù
chiến lược này vẫn cịn trong dự thảo, Chính phủ đã liên tục khuyến khích các cơng
ty nước ngồi đầu tư vào các lĩnh vực này.
Việc cung cấp các bằng chứng thực nghiệm cụ thể về sự tác động khác nhau của
FDI và xuất khẩu đến NSLĐ của các doanh nghiệp thuộc các ngành nghề có đặc
điểm về mức thâm dụng vốn khác nhau là cần thiết lúc này đối với Việt Nam cả cho
những nhà hoạch định chính sách cũng như những nhà đầu tư có định hướng đầu tư
vào Việt Nam.
Ngoài việc mở cửa nền kinh tế, thúc đẩy thu hút FDI và xuất khẩu. Những năm gần
đây, một trong những chính sách được Việt Nam sử dụng nhằm tăng NSLĐ đó là sự
gia tăng nhanh chóng mức lương tối thiểu (VEPR, 2018). Tuy nhiên chính sách này
phải đối diện với các vấn đề tranh luận khác nhau.
11
Việc tăng lương tối thiểu có thể gây ra việc mất việc làm đặc biệt với những người
lao động có tay nghề thấp (Neumark và Wascher, 2007; Neumark và Wascher, 2015)
vì lúc này chi phí lao động gia tăng làm tăng giá và giảm cầu lao động.
Mức lương tối thiểu có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến lương trung bình
của cả nền kinh tế (VEPR, 2018). Việc mức lương tối thiểu, mức lương trung bình
tăng cao dẫn đến áp lực đến chi phí lao động của doanh nghiệp cũng góp phần giảm
khả năng cạnh tranh và lợi nhuận của doanh nghiệp (Belman và Wolfson, 2016).
Mặc dù có thể dẫn đến những tác động khác khó kiểm sốt nhưng hiệu quả của
chính sách tăng lương tối thiểu đến NSLĐ có thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
như mức lương trung bình, việc làm, lãi suất, điều kiện thị trường của nền kinh tế.
Theo (Card và Krueger, 1993; Lemos, 2009; Bhorat và cộng sự, 2013) một mức
lương tối thiểu có thể tạo ra tác động lớn khi đặt ở mức cao nhưng mức lương tối
thiểu cao không nhất thiết dẫn đến hiệu quả làm việc lớn nếu nó không được thực
thi hiệu quả.
Theo báo cáo của VEPR (2018), tăng trưởng tiền lương ở Việt Nam tăng vượt quá
mức tăng trưởng NSLĐ từ sau năm 2009. Cũng theo ghi nhận của báo cáo này, việc
tăng lương tối thiểu tại Việt Nam những năm qua dẫn đến sự tăng lương trung bình,
giảm việc làm và giảm tỷ lệ lợi nhuận. Việc báo cáo này lo ngại nhất chính là lương
tối thiểu tiếp tục tăng cao hơn so với NSLĐ trong những năm gần đây sẽ làm cho
các doanh nghiệp Việt Nam chậm tích lũy vốn, suy giảm khả năng cạnh tranh hơn.
Bên cạnh lương thì chính sách phúc lợi ngồi lương cũng có thể là một giải pháp thay
thế tốt khi các cơng ty thực thi các chính sách phúc lợi có xu hướng làm việc hiệu quả
hơn (OECD, 2018; Millea; 2002; Mathis và Johnson, 2003; Tsai và Yu; 2005) tuy
nhiên chúng chưa được quan tâm nhiều ở Việt Nam. Cụ thể chưa có nhiều nghiên cứu
chính thức nghiên cứu tác động của chính sách phúc lợi ngồi lương đến NSLĐ tại
Việt Nam. Người lao động thường bị thu hút vào các tổ chức hoặc các doanh nghiệp
khơng chỉ vì các gói thanh tốn trực tiếp (lương) mà cịn vì các lợi ích kèm theo
(Mikovich và Newman, 2004). Bên cạnh đó, chính sách phúc lợi giúp giữ chân người
12
lao động và do đó giảm thiểu chi phí cơ hội của mức độ thay đổi lao động, góp phần
làm gia tăng lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp (Hom và cộng sự, 1992).
Bảo hiểm xã hội (BHXH) nói riêng và các chính sách phúc lợi ngồi lương nói
chung là những khái niệm tương đối mới ở Việt Nam. Trước khi đất nước bắt đầu
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường năm 1986, chỉ có người lao động khu vực
cơng nhận được thu nhập hưu trí. Người lao động ở khu vực tư doanh được tham
gia vào cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam (VSI) bắt buộc vào năm 1995. Từ năm
2008, nông dân và khu vực phi chính thức khác mới có thể đóng góp tự nguyện vào
VSI để nhận trợ cấp tuổi già (Castel và Pick, 2018).
Hiện nay chính phủ Việt Nam đang tìm cách mở rộng BHXH và đặc biệt là bảo
hiểm hệ thống lương hưu cơng cộng vì suy giảm số lượng hộ gia đình nhiều thế hệ
cũng như chuyển đổi nhân khẩu học nhanh chóng. Nghị quyết số 15-NQ/TW năm
2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đặt mục tiêu tăng BHXH lên 50% cho
lực lượng lao động vào năm 2020. Sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội được thực hiện
năm 2014 cho phép nhà nước trợ cấp tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội tự
nguyện và đưa ra các quy tắc để tăng cường tuân thủ trong hệ thống bắt buộc.
Các DNNVV chiếm hơn 95% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam, tạo ra 40% tổng
sản phẩm quốc nội và sử dụng khoảng 50% tổng lực lượng lao động (WB, 2018),
phần lớn họ chưa đăng kí VSI. Tăng BHXH nói riêng hay mở rộng các chính sách
phúc lợi ngồi lương nói chung theo mục tiêu chính phủ đề ra sẽ đòi hỏi mức độ tự
nguyện thực hiện của doanh nghiệp cao hơn rất nhiều so với việc đưa ra các chính
sách bắt buộc như hiện nay do phần lớn trong số đó hiện khơng đăng ký với VSI
(Castel và Pick, 2018).
Bước đầu tiên quan trọng để DNNVV tự nguyện thực hiện các chính sách phúc lợi
này là cần cho họ thấy được những lợi ích mà các chính sách này mang lại cho
doanh nghiệp. Do đó, nghiên cứu về sự tác động của chính sách phúc lợi đến NSLĐ
ở Việt Nam là cần thiết cho cả chính phủ Việt Nam và các doanh nghiệp trong vấn
đề đưa ra các chính sách phù hợp với mục tiêu lúc này khi chính sách tăng lương tối
13
thiểu tỏ ra thiếu hiệu quả trong những năm gần đây và tỷ lệ thực thi các chính sách
phúc lợi của DNNVV chiếm tỷ lệ tương đối thấp.
Như vậy đối với quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp như Việt Nam, để đảm
bảo tăng trưởng bao trùm và bền vững cần nhìn thấy rõ hơn nữa vai trị của tăng năng
suất lao động, đặc biệt là năng suất của khu vực tư nhân doanh nghiệp (Bộ kế hoạch
đầu tư, 2019). Mặc dù đã, đang xây dựng và thực hiện hàng loạt các chính sách và
chương trình hỗ trợ gia tăng năng suất doanh nghiệp nhưng các cải thiện về năng suất
vẫn chưa đưa đến được kết quả như mong đợi. Do đó, luận án muốn tập trung nghiên
cứu các yếu tố tác động đến năng suất lao động của doanh nghiệp Việt Nam.
1.1.2 Bối cảnh lý thuyết
Tăng trưởng năng suất lao động đóng vai trị quan trọng đối với sự tồn tại, tăng
trưởng và phát triển doanh nghiệp và ảnh hưởng quyết định đến tăng trưởng kinh tế
(Breu và cộng sự, 2012). Do đó, trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu cả lý thuyết
và thực nghiệm dưới nhiều góc độ cả vi mơ và vĩ mơ để nghiên cứu các yếu tố ảnh
hưởng đến năng suất lao động. Vì muốn tập trung cải thiện năng suất lao động cho
khu vực tư nhân, doanh nghiệp nên trong bối cảnh lý thuyết, luận án chỉ trình bày
những nghiên cứu về các yếu tố tác động đến năng suất lao động dưới gốc độ vi mô.
Đối với mối quan hệ giữa FDI, xuất khẩu đến năng suất lao động ở góc độ doanh
nghiệp có thể kể đến những nghiên cứu đầu tiên như của Vernon (1966), Caves
(1974), Findlay (1978), Dunning (1979) sau đó có Blomstrom (1986), (Griffith và
cộng sự, 2002), Vadlamannati (2011), Georgescu (2012), Bernard và Jensen (1999),
Blalock (2004), Wagner (2007), Haidar (2012), De Loecker (2013).
Những mơ hình lý thuyết cổ điển như của Swan (1956); Solow (1957) đơn thuần
coi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là kênh cung cấp vốn quan trọng đối với
nền kinh tế thì những nghiên cứu thực nghiệm sau này khi nghiên cứu dưới góc độ
vi mơ cịn cho thấy dịng vốn FDI chảy vào nội địa một quốc gia sẽ dẫn đến chuyển
giao cộng nghệ, gia tăng năng suất đối với các cơng ty nội địa của nước đó (Aitken
và Harrison, 1999; Griffith, 2002; Ng, 2007).
14
Các cơng ty có vốn FDI, đặc biệt các cơng ty đa quốc gia là công cụ quan trọng
trong việc áp dụng cơng nghệ vì họ mang đến những ưu thế vượt trội về trình độ
cơng nghệ. Ngồi những tác động trực tiếp đến nền kinh tế, các doanh nghiệp FDI
cịn có thể gián tiếp tạo ra các tác động lâu dài đến nội ngành sản xuất ở quốc gia
tiếp nhận đầu tư. Mơ hình Caves (1974) ghi nhận tác động của hiệu ứng lan tỏa
trong nội bộ ngành của FDI vào sản xuất của nhiều quốc gia. Thông qua khả năng
phát tán, rị rỉ hay chia sẻ thơng tin mang tính chủ động cũng như thụ động khiến
FDI có thể gián tiếp nâng cao năng suất của doanh nghiệp, từ đó nâng cao NSLĐ
của người lao động.
Tuy nhiên, các cơng ty đa quốc gia cũng có thể làm giảm NSLĐ của nước sở tại
(Rodriguez-Clare, 1996). Dẫn chứng của những nghiên cứu này đó là do các cơng
ty đa quốc gia ảnh hưởng đến nước chủ nhà thông qua các liên kết ngược và xuôi và
các hiệu ứng khác. Tác động ròng của FDI lên nước chủ nhà phụ thuộc vào các mối
liên kết mà họ tạo ra so với các mối liên kết sẽ được tạo ra bởi các công ty trong
nước mà họ thay thế. Trong trường hợp các cơng ty đa quốc gia tạo ra ít mối liên kết
hơn các công ty trong nước cho thị trường nước chủ nhà thì việc tăng FDI có thể
làm giảm NSLĐ của các công ty trong nước.
Một kênh áp dụng cơng nghệ khác cũng tác động đến NSLĐ đó là thông qua thương
mại quốc tế, đặc biệt là xuất khẩu. Hầu hết các lý thuyết và các nghiên cứu thực
nghiệm hiện nay đều cho rằng xuất khẩu tác động dương đến NSLĐ (Metliz 2003;
Bernard và cộng sự 2003). Tuy nhiên, một số nghiên cứu như Young (1991) cho
thấy một chế độ giao dịch tự do hơn làm chậm quá trình tăng trưởng NSLĐ của các
quốc gia đang phát triển do khơng có lợi thế so sánh bằng quốc tế. Vì vậy, ảnh
hưởng của xuất khẩu đến NSLĐ của các quốc gia đang phát triển có thể khác nhau.
Tại Việt Nam, những nghiên cứu thực nghiệm cho thấy sự ảnh hưởng của việc áp
dụng công nghệ (được phản ánh thông qua FDI và xuất khẩu) là nguồn gốc của sự
tăng trưởng sản lượng và góp phần gia tăng NSLĐ. Ngơ Hồng Thảo Trang (2017)
khi nghiên cứu các hoạt động xuất khẩu, hoạt động đổi mới và môi trường kinh
doanh đến năng suất của DNNVV Việt Nam cho thấy các doanh nghiệp áp dụng các
15
hoạt động đổi mới có tác động tốt đến NSLĐ hay nghiên cứu của Pham (2018)
nghiên cứu về mối quan hệ của sự lan tỏa FDI đối với NSLĐ và các nghiên cứu khác.
Do đó, có rất ít nghi ngờ về sự tác động của FDI và xuất khẩu đối với NSLĐ. Một
vấn đề cần được quan tâm hơn đó là cách thức áp dụng nào thì phù hợp, vì FDI và
xuất khẩu có sự tác động đến NSLĐ khác nhau và một trong số chúng có tác động
hiệu quả hay phù hợp hơn các kênh khác trong các điều kiện áp dụng khác nhau.
Mặc dù cả FDI và xuất khẩu có thể ảnh hưởng đến lan tỏa cơng nghệ từ đó làm tăng
NSLĐ, nhưng hầu hết những nghiên cứu tại Việt Nam (Nguyen, 2019; Pham, 2008;
Le, 2007, Newman và cộng sự, 2017) ghi nhận sự lan tỏa công nghệ của FDI hay
xuất khẩu đến NSLĐ như hai kênh riêng lẻ mà không xem xét sự tác động của
chúng đến NSLĐ của doanh nghiệp như 2 kênh lan tỏa công nghệ quốc tế cạnh
tranh nhau (trong trường hợp các doanh nghiệp vì một số hạn chế nhất định chỉ có
thể lựa chọn 1 trong 2 phương thức là nhận vốn FDI hoặc tham gia xuất khẩu) và sự
khác biệt của chúng đến doanh nghiệp có đặc điểm khác nhau. Việc xem xét cả hai
kênh áp dụng công nghệ thông qua FDI hay xuất khẩu rất quan trọng vì chúng vẫn
đang được xem là chìa khóa mang lại thành cơng cho các nước đang phát triển, đặc
biệt là các nền kinh tế mới như khu vực Đông Á (Hsu và Chen, 2001) và Việt Nam
không là ngoại lệ.
Mối liên hệ giữa phúc lợi hay những chính sách đãi ngộ và NSLĐ đã được củng cố
trong lý thuyết kinh tế (lý thuyết nhu cầu (Maslow, 1954); lý thuyết kỳ vọng (Vrom,
1964); lý thuyết hai yếu tố (Herzberg, 1987) và một số các lý thuyết khác).
Khi các yếu tố khác không thay đổi, sản lượng bình quân mỗi lao động tăng lên sẽ
làm tăng cầu lao động, và như vậy sẽ dẫn đến tăng thu nhập bình quân. Một số doanh
nghiệp sẽ tăng thu nhập cho người lao động thông qua lương thưởng trực tiếp bằng
tiền mặt, một số khác làm tăng thu nhập bằng các chính sách phúc lợi khơng bằng
tiền mặt.
Theo mơ hình tổng phần thưởng Towers Perrin (Armstrong, 2010), những phần
thưởng thuần túy tài chính như tiền mặt dễ dàng bắt chước trong cộng động các
doanh nghiệp nhưng những phần thưởng vơ hình hoặc mang tính phi tài chính như
16
các chính sách phúc lợi khơng thể hoặc khơng dễ để bắt chước, sao chép và do đó
tạo ra lợi thế về nguồn lực con người cho tổ chức.
Nhiều kết quả nghiên cứu (Dreher và cộng sự, 1988; Micelli và Lane, 1991; Millea,
2002; Tsai và Yu, 2005; Singh, 2009; Anand và cộng sự, 2010) chứng minh được rằng
những khoản phúc lợi ngồi lương này đóng góp tích cực vào NSLĐ của người lao
động và sức khỏe của người lao động lại ảnh hưởng tích cực đến NSLĐ và sức khỏe
của nền kinh tế quốc gia. Những phúc lợi này ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành vi của
người lao động, là lý do thuyết phục giúp họ tiếp tục làm việc cho chủ doanh nghiệp
cũng như họ buộc phải cạnh tranh lẫn nhau và điều này dẫn đến NSLĐ của doanh
nghiệp sẽ tăng lên.
Khơng đồng tình với quan điểm trên, một số nghiên cứu cho rằng các chế độ phúc
lợi chỉ được xem như một yếu tố điều chỉnh và cung cấp tài trợ cho nhân viên vì là
thành viên của tổ chức chứ không tạo động lực hay liên quan đến NSLĐ
(Rosenbloom và Hallman, 1981; Hills, 1987; Adigun và Stephenson, 1992; Mondy
và cộng sự, 2002).
Hennessey và cộng sự (1992), có những ý kiến trái chiều là do kết quả của nhận
thức về chế độ phúc lợi của người lao động vì nếu họ hồn tồn khơng biết về
những chế độ phúc lợi mà họ được hưởng, họ không mang lại động lực cho năng
suất của tổ chức.
Một số bằng chứng cho thấy nhiều công ty ở các nước đang phát triển được quản lý
kém và có thể hưởng lợi từ việc áp dụng quản lý nguồn nhân lực (HRM) và các
khoản đãi ngộ để nâng cao năng suất. Tuy nhiên, chỉ có một vài nghiên cứu thực
nghiệm đã kiểm tra tác động của các chính sách bồi thường HRM hoặc tiền thưởng
đối với hoạt động của công ty ở quốc gia đang phát triển (Bloom và cộng sự, 2012).
1.1.3 Khoảng trống nghiên cứu
Nghiên cứu về năng suất lao động có ý nghĩa quan trọng đối với cả chính sách cơng
và các quyết định đối với khu vực tư nhân (Sauermann, 2016) vì đây là chỉ tiêu quan
trọng phản ánh hiệu quả phát triển kinh tế của quốc gia, doanh nghiệp và chất lượng
người lao động. Đặc biệt hơn đối với bối cảnh của Việt Nam khi hai thập kỷ qua dù
17
cho năng suất lao động Việt Nam tăng nhanh nhưng vẫn nằm ở mức cận đáy của
ASEAN, nếu vẫn giữ nguyên mức tăng này Việt Nam phải tốn từ 10 đến 50 năm mới
đuổi kịp các quốc gia trong khu vực (ILO, 2015). Thêm vào đó với sự già đi nhanh
chóng của dân số, việc hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế, thúc đẩy tăng
năng suất lao động là cách duy nhất và phù hợp nhất giúp Việt Nam vượt qua được
thách thức và đón đầu cơ hội mới (ILO, 2015, 2018; Bodewig và Magnusson, 2014).
Thúc đẩy năng suất lao động của nền kinh tế đầu tiên cần thúc đẩy năng suất lao
động của doanh nghiệp. Có ba nhóm yếu tố chính giúp xác định năng suất lao động
bao gồm: vốn con người, tiến bộ công nghệ và quy mô kinh tế (Greelaw và cộng sự,
2018). Hiểu tốt hơn về cách thức những yếu tố này tác động đến năng suất lao động
giúp doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận lớn hơn, tăng năng suất, thêm cơ hội đầu tư và
giảm chi phí (ILO, 2015). Trong luận án này đặc biệt quan tâm đến 2 kênh tác động
đến năng suất lao động đó là tiến bộ cơng nghệ thông qua hội nhập kinh tế, vốn con
người thông qua phúc lợi cho nhân viên.
Tự do hóa thương mại tác động đến năng suất lao động thông qua các kênh khác
nhau bao gồm độ mở thương mại, tiếp xúc với nguồn vốn và cơng nghệ mới qua
FDI, học hỏi tích lũy kinh nghiệm từ xuất khẩu (Rahmah Ismail và cộng sự, 2011).
Việt Nam đang hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, do đó đã có nhiều các nghiên
cứu trong nước về sự ảnh hưởng của các kênh áp dụng cơng nghệ từ nước ngồi
thơng qua FDI và xuất khẩu đến năng suất (Xuan, N.T & Xing, 2008; Nguyễn Khắc
Minh & Nguyễn Việt Hùng, 2012; Ngơ Hồng Thảo Trang, 2017; Phạm Thế Anh,
2018; Hoang và Pham, 2010; Nguyen, K. M. và Nguyen V. H., 2012). Việc áp dụng
công nghệ của các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam thơng qua các chế độ
tồn cầu hóa đã được chứng minh từ mơ hình lý thuyết (Findlay, 1978; Romer,
1994; Chen và Shimomura, 1998) cho đến những nghiên cứu thực nghiệm ở Việt
Nam kể trên. Do đó, có ít nghi ngờ về vai trị của việc áp dụng cơng nghệ đối với
nền kinh tế đang phát triển. Một vấn đề liên quan hơn là việc lựa chọn cách thức áp
dụng công nghệ phù hợp với đặc điểm doanh nghiệp để phát huy hiệu quả. Đối với
các doanh nghiệp thường gặp hạn chế về nguồn lực như các doanh nghiệp Việt
18
Nam, trong một số trường hợp họ không thể cùng lúc theo đuổi cả chiến lược thu
hút FDI và mở rộng xuất khẩu, việc lựa chọn chiến lược nào phù hợp hơn là vấn đề
cần được trả lời.
Các doanh nghiệp có mức độ thâm dụng vốn khác nhau sẽ có những chiến lược theo
đuổi khác nhau khi muốn gia nhập vào cơ chế tồn cầu hóa. Việc lựa chọn tham gia
bằng chiến lược nào để thu được lợi ích tốt nhất cũng là vấn đề của các DNVN
trong giai đoạn tồn cầu hóa hiện nay. Một trong những khoảng trống nghiên cứu
mà luận án này muốn lấp đầy đó là cung cấp bằng chứng thực nghiệm về sự khác
biệt của hai kênh áp dụng công nghệ là FDI và xuất khẩu khi tác động đến năng suất
lao động trong các DNVN với mức độ thâm dụng vốn khác nhau.
Kênh thứ hai tác động đến năng suất lao động mà luận án quan tâm ở đây là vốn
nhân lực thông qua chính sách phúc lợi cho nhân viên. Chính sách đãi ngộ được
nghiên cứu chủ yếu ở Việt Nam vẫn là vấn đề tiền lương và tỏ ra không hiệu quả
những năm gần đây, trong khi các chính sách đãi ngộ liên quan đến những phần
thưởng vơ hình hoặc mang tính phi tài chính thì khơng thể hoặc khơng dễ để bắt
chước, sao chép tạo ra lợi thế riêng về nguồn lực con người cho tổ chức lại chưa
được quan tâm đúng mức. Chưa có nhiều nghiên cứu xem xét mức độ tác động của
những phúc lợi này đến NSLĐ của các doanh nghiệp Việt Nam như thế nào, đặc
biệt đối với DNNVV, loại hình doanh nghiệp chiếm hơn 90% trong tổng số doanh
nghiệp ở Việt Nam.
Điểm mới của nghiên cứu này so với các nghiên cứu trước đó là cung cấp thông tin
dành cho các doanh nghiệp đánh giá việc thực thi các chính sách phúc lợi của mình
ảnh hưởng đến NSLĐ của doanh nghiệp như thế nào cũng như mức độ tác động của
chúng, những chế độ nào thật sự có ảnh hưởng đối với thị trường lao động Việt
Nam. Đồng thời, cung cấp cho chính phủ cũng như những nhà hoạch định chính
sách thơng tin về một kênh giúp gia tăng năng suất lao động bên cạnh việc tăng
lương tối thiểu.
19
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Từ bối cảnh thực tiễn và lý thuyết cho thấy hiểu và gia tăng năng suất lao động là
vấn đề quan trọng trong giai đoạn này của Việt Nam. Do đó, mục tiêu nghiên cứu
tổng quát của luận án là phân tích sự tác động đến năng suất lao động của các doanh
nghiệp Việt Nam thông qua đầu tư trực tiếp, xuất khẩu và chính sách phúc lợi ngồi
lương. Luận án có 2 mục tiêu nghiên cứu cụ thể:
Mục tiêu 1: Phân tích tác động của 2 kênh ứng dụng công nghệ, đầu tư trực
tiếp nước ngoài và xuất khẩu đến NSLĐ trong các doanh nghiệp có mức độ thâm
dụng vốn khác nhau;
Mục tiêu 2: Đánh giá tác động của các chính sách phúc lợi ngồi lương đến
NSLĐ của các DNNVV Việt Nam.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Các câu hỏi nghiên cứu chính của luận án xoay quanh mối quan hệ giữa năng suất
lao động, kênh áp dụng cơng nghệ FDI, xuất khẩu và chính sách dành cho người lao
động tại doanh nghiệp lớn và các DNNVV tại Việt Nam:
Câu hỏi 1: Với sự khác biệt về mức độ thâm dụng vốn, liệu có sự khác biệt giữa tác
động của FDI và xuất khẩu đến NSLĐ của doanh nghiệp Việt Nam hay khơng?
Câu hỏi 2: Chính sách phúc lợi ngoài lương tác động đến NSLĐ của DNNVV Việt
Nam như thế nào?
1.4 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
1.4.1 Phạm vi nghiên cứu
Tổng thể luận án nghiên cứu các vấn đề xoay quanh năng suất lao động của các
doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn từ năm 2009 đến 2016. Đây là giai đoạn năng
suất lao động của Việt Nam đã có những thay đổi vượt bậc nhưng vẫn chưa thực sự
đạt được kết quả như mong đợi khi NSLĐ của Việt Nam vẫn nằm trong số những
quốc gia có NSLĐ thấp nhất ASEAN.
Phạm vi doanh nghiệp: bao gồm doanh nghiệp lớn và DNNVV đối với mục tiêu số
1 và tập trung ở DNNVV ở mục tiêu số 2.
20
Phạm vi khu vực/ngành của doanh nghiệp: Doanh nghiệp với các loại hình sở hữu
khác nhau thuộc ngành chế biến chế tạo.
1.4.2 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án gồm năng suất lao động của doanh nghiệp
trong các mối quan hệ với đầu tư FDI, xuất khẩu trong điều kiện đặc điểm mức độ
thâm dụng vốn của ngành khác nhau; năng suất lao động của doanh nghiệp trong
mối quan hệ với các chính sách phúc lợi ngoài lương cho nhân viên.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết 2 mục tiêu, luận án sử dụng mơ hình tác động cố định FEM và mơ
hình tác động ngẫu nhiên REM để xử lý dữ liệu bảng ước tính mơ hình nghiên cứu.
Các phương pháp này cho phép kiểm sốt các tác động cố định khơng quan sát được
của công ty (Wooldridge, 2002).
Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu số 1, luận án sử dụng bộ số liệu được tổng hợp từ
2 bộ dữ liệu Tổng điều tra doanh nghiệp Việt Nam (VES) năm 2015 và 2016. Đây là
bộ dữ liệu được Tổng cục thống kê thực hiện hàng năm nhằm thu thập một số thông
tin cơ bản và cần thiết của toàn bộ các doanh nghiệp và hợp tác xã trên phạm vi cả
nước thuộc các hầu hết ngành trên cả nước (trừ các doanh nghiệp do Bộ Quốc phịng,
Bộ Cơng an quản lý). Đây là bộ dữ liệu phù hợp với mục tiêu nghiên cứu số 1 vì đây
là bộ dữ liệu cung cấp đầy đủ thơng tin của toàn bộ doanh nghiệp ở các ngành chế
biến chế tạo với các tiểu ngành có đặc điểm thâm dụng vốn khác nhau.
Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu số 2, luận án sử dụng bộ dữ liệu được tổng hợp
từ 3 bộ Điều tra các Doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) năm 2011, 2013 và 2015.
Đây là bộ dữ liệu được Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) phối hợp với
Viện Khoa học Lao động và Xã hội (ILSSA) và Khoa Kinh tế (DoE) của Trường
Đại học Copenhagen, cùng với Đại sứ quán Đan Mạch tại Việt Nam thiết kế và thu
thập. Bộ dữ liệu chú trọng đặc biệt đến việc thu thập số liệu của cả DNNVV chính
thức và phi chính thức ở Việt Nam. Bộ dữ liệu này là bộ dữ liệu duy nhất hiện nay
chứa đựng thơng tin về việc thực thi các chính sách phúc lợi tại doanh nghiệp Việt
21
Nam. Đồng thời DNNVV cũng là nhóm doanh nghiệp có tỷ lệ thực hiện chính sách
phúc lợi ngồi lương thấp nhất hiện nay.
Lý giải ngun nhân vì sao khơng lựa chọn các bộ dữ liệu thống nhất trong cùng
giai đoạn nghiên cứu cho cả hai mục tiêu nghiên cứu của luận án đó là do sự khơng
đồng nhất trong bảng hỏi của bộ số liệu Tổng điều tra doanh nghiệp Việt Nam
(VES) ở các năm. Do đó, luận án gặp khó khăn trong việc sử dụng thơng tin cần
thiết phục vụ có mục tiêu nghiên cứu nếu sử dụng bộ dữ liệu nhiều năm.
1.6 Ý nghĩa của luận án
Mục tiêu 1 phân tích sự tác động khác nhau giữa FDI và xuất khẩu đến NSLĐ của
các doanh nghiệp thuộc các ngành có đặc điểm thâm dụng vốn khác nhau. Kết quả
của luận án giúp các doanh nghiệp cũng như chính phủ có thể định hướng rõ hơn
nên gia nhập vào chế độ tồn cầu hóa thơng qua FDI hay xuất khẩu dựa vào đặc
điểm thâm dụng vốn của ngành để mang lại nhiều lợi ích tốt nhất. Từ đó giúp các
doanh nghiệp, chính phủ đưa ra các chính sách, định hướng đầu tư phù hợp hơn.
Ở mục tiêu số 2, nghiên cứu về sự tác động của các chính sách phúc lợi đến năng
suất lao động của các DNNVV, do đó ý nghĩa đầu tiên của luận án là đóng góp bằng
chứng thực nghiệm về mối quan hệ này tại Việt Nam khi có khá ít các nghiên cứu
dành cho chính sách phúc lợi. Hầu hết các nghiên cứu trước đây về chế độ đãi ngộ
hay chính sách phúc lợi thường xem các chương trình này như yếu tố bơi trơn giúp
giữ chân nhân viên chứ không phải là yếu tố tác động đến năng suất doanh nghiệp
(Rosenbloom và Hallman, 1981; Hills, 1987; Milkovich và Newman, 1990). Đồng
thời, các dữ liệu trước đây khi sử dụng để nghiên cứu chủ đề này thường là dữ liệu
cá nhân dựa trên các câu hỏi đóng đối với người lao động. Điều này có thể dẫn đến
dữ liệu khơng khách quan (ảnh hưởng bởi nhận thức của người lao động) (trường
hợp nghiên cứu của Hennessey và cộng sự, 1992). Đồng thời vì là dữ liệu cá nhân
nên khơng có sự kết nối trực tiếp giữa lợi ích mà người lao động nhận được và lợi
ích mà doanh nghiệp nhận được khi cung cấp các chính sách này. Do đó, luận án đặt
mối quan hệ của chính sách phúc lợi và năng suất lao động của doanh nghiệp được
nghiên cứu ở cấp độ doanh nghiệp sẽ dẫn đến tính liên kết giữa lợi ích của người
22
lao động và năng suất (lợi ích) của doanh nghiệp. Hay nói cách khác nó phản ánh
được lợi ích của bên cung cấp các chính sách này.
Bên cạnh đó, kết quả của nghiên cứu cũng góp phần cung cấp thêm bằng chứng cho
các nhà hoạch định chính sách có tư liệu để phần nào trả lời vấn đề gây tranh cãi ở
Việt Nam hiện nay đó là liệu rằng có nên xem xét thay thế việc tăng lương tối thiểu
bằng việc thực thi các chính sách phúc lợi ngồi lương nhằm cải thiện NSLĐ của
doanh nghiệp. Đồng thời các DNNVV có thêm bằng chứng về mức độ tác động của
chính sách phúc lợi ngồi lương đến NSLĐ để từ đó đưa ra chính sách có nên thực
thi chính sách phúc lợi tại doanh nghiệp hay không.
1.7 Cấu trúc của luận án
Kết cấu nội dung nghiên cứu của luận án được thiết kế thành 5 chương.
Chương 1: Giới thiệu chung. Nội dung chương này trình bày bối cảnh thực tiễn và
bối cảnh lý thuyết để từ đó xác định được khoảng trống của nghiên cứu và lý do để
lựa chọn vấn đề nghiên cứu của luận án.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu. Nội dung chương này sẽ trình
bày tổng quan cơ sở lý thuyết và những nghiên cứu liên quan đến năng suất lao
động đã được thực hiện trong nước và trên thế giới tập trung ở 2 vấn đề chính mà
luận án quan tâm đó là FDI, xuất khẩu và chính sách phúc lợi ảnh hưởng đến năng
suất lao động. Khung phân tích sẽ được rút ra ở cuối chương.
Chương 3: Tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài và xuất khẩu đến NSLĐ của các
doanh nghiệp có mức độ thâm dụng vốn khác nhau. Nội dung của chương 3 nhằm
trình bày, lý giải dữ liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu được lựa chọn, các
giả thuyết nghiên cứu được đưa ra và kết quả nghiên cứu để trả lời cho câu hỏi
nghiên cứu liệu có sự khác biệt của FDI, xuất khẩu đến năng suất lao động của
doanh nghiệp có mức độ thâm dụng vốn khác nhau hay không?
Chương 4: Mức độ tác động của các chế độ phúc lợi ngoài lương đến NSLĐ. Tương
tự với nội dung của chương 3, chương 4 sẽ cố gắng giải thích sự lựa chọn dữ liệu
nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu và kết quả nghiên
23
cứu cho mục tiêu lý giải sự tác động của các chính sách phúc lợi ngồi lương đến
năng suất lao động của các DNNVV.
Chương 5 là chương cuối cùng. Phần đầu chương này trình bày tóm tắt 2 kết quả
nghiên cứu rút ra được từ 2 mơ hình nghiên cứu được xây dựng ở chương 3 và 4.
Trên cơ sở đó, một số gợi ý chính sách từ luận án được đề xuất. Cuối chương là
những đóng góp và hạn chế của luận án cũng như gợi ý hướng nghiên cứu tiếp theo
được trình bày.
24
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1 Giới thiệu
Chương 2 của luận án trình bày cơ sở lý thuyết và lược khảo những nghiên cứu liên
quan đến mục tiêu nghiên cứu đã được thực hiện trong nước và trên thế giới. Đầu
tiên, chương sẽ trình bày các khái niệm về năng suất lao động, cũng như phương
pháp đo lường năng suất lao động. Tiếp theo, chương trình bày phần lược khảo lý
thuyết và những nghiên cứu có liên quan về những nhân tố tác động đến năng suất
lao động và mối quan hệ giữa NSLĐ và các khái niệm được quan tâm là FDI, xuất
khẩu và các chính sách phúc lợi.
2.2 Khái niệm và đo lường năng suất lao động
Năng suất là một thước đo quan trọng phản ánh hiệu quả của nền kinh tế. Năng suất
có thể được đo lường ở các cấp độ khác nhau: cấp độ cả nền kinh tế, cấp độ ngành,
cấp độ tổ chức, doanh nghiệp hay cho từng cá nhân riêng biệt.
Syverson (2010) năng suất là hiệu quả trong sản xuất thể hiện qua có bao nhiêu sản
lượng thu được từ một loại đầu vào nhất định. Do đó, nó thường được biểu thị dưới
dạng tỷ lệ đầu vào của đầu ra. Có nhiều phương pháp đo lường năng suất, trong đó
NSLĐ là một trong những tiêu chí được sử dụng nhiều nhất. Theo đó, năng suất lao
động khai thác mức độ mà vốn nhân lực mang lại giá trị cho nền kinh tế hay doanh
nghiệp (Koch và McGrath, 1996).
Ngoài chỉ tiêu NSLĐ thì năng suất cịn được đo lường thông qua năng suất vốn và
năng suất tổng hợp (TFP). Tùy vào từng trường hợp và điều kiện dữ liệu, việc lựa
chọn sử dụng chỉ tiêu năng suất sẽ khác nhau. Sargent và Rodriguer (2001) cho rằng
chỉ tiêu năng suất tổng hợp TFP thích hợp để xem xét năng suất trong xu hướng dài
hạn của nền kinh tế. Ngược lại, theo Nguyễn và Kenichi (2018), khi xem xét trong
trung và ngắn hạn, đặc biệt khi có sự nghi ngờ về quá trình tăng trưởng hoặc dữ liệu
về trữ lượng vốn khơng đáng tin cậy thì NSLĐ là một chỉ tiêu thích hợp để sử dụng.
Theo Greenlaw và cộng sự (2018), năng suất lao động là giá trị mà mỗi người lao
động tạo ra trên mỗi đơn vị đầu vào của mình. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO,
25
2015), định nghĩa NSLĐ là tổng số lượng đầu ra sản xuất được trên một đơn vị đầu
vào lao động (đo bằng tổng số lao động) trong một thời gian tham chiếu nhất định.
Mặc dù năng suất được cho là tương đối đơn giản trong khái niệm, tuy nhiên vẫn có
một số tranh cãi về việc đo lường đầu vào và đầu ra phát sinh khi tính tốn năng
suất từ dữ liệu thực tế (Syverson, 2010).
Hai thước đo cơ bản để đo lường đầu ra đó là tổng sản lượng và giá trị gia tăng
(Cobbold, 2003). Nếu như đối với dữ liệu ở cấp độ quốc gia việc sử dụng 2 thước
đo này để đại diện cho mức độ đầu ra khơng có sự khác biệt rõ rệt thì đối với cấp độ
vi mơ sự khác biệt tăng lên vì xu hướng sử dụng đầu vào trung gian tăng lên
(Cobbold, 2003). Theo OECD (2001) thì việc lựa chọn phương pháp đo lường đầu
ra nào phụ thuộc vào mục đích sử dụng năng suất.
Mặc dù được nhiều nhà kinh tế ưa thích sử dụng trong các nghiên cứu về sản xuất
trong các ngành công nghiệp và sản lượng trên mỗi lao động vì phản ánh được đầu
vào cả sơ cấp và thứ cấp nhưng chỉ tiêu tổng sản lượng đầu ra đòi hỏi yêu cầu đáng
kể về sự khả dụng của dữ liệu (Cobbold, 2003). Theo Syverson (2010), việc đo
lường đầu ra cần thống nhất ở tất cả các đầu ra về cùng đơn vị tính trong khi đó ở
cấp độ vi mô đa số các doanh nghiệp sản xuất nhiều hơn một đầu ra và do đó chúng
nên được tổng hợp thành thước đo duy nhất. Tuy vậy các dữ liệu vi mô chi tiết và
các doanh nghiệp sản xuất thường không chứa đựng đầy đủ số liệu đầu ra cũng như
cách thức quy ước để đưa về cùng một loại đầu ra. Doanh thu được xem như là một
biện pháp thay thế hữu hiệu trong trường hợp này (Syverson, 2010). Mặc dù điều
này có thể được chấp nhận và thậm chí là phương án tốt nhất thì trong trường hợp
mà dù sự khác biệt về chất lượng sản phẩm đã được phản ánh đầy đủ trong giá cả,
thì việc sử dụng doanh thu vẫn có thể gây ra vấn đề bất cứ khi nào có sự thay đổi
giá do sự khác biệt về sức mạnh thị trường giữa các nhà sản xuất (Syverson, 2010).
Đầu ra được tính bằng giá trị gia tăng sẽ ít bị ảnh hưởng trong việc tính tốn thực
nghiệm hơn so với sử dụng doanh thu hay tổng sản lượng trong trường hợp doanh
nghiệp có thuê gia cơng bên ngồi hoặc xuất khẩu (Tomiura, 2007; Cobbold, 2003;
OECD, 2001). Nếu chỉ tiêu NSLĐ phụ thuộc vào tổng doanh số trên mỗi lao động,