Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.71 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Đề bài: Phân tích tác phẩm Tư duy hệ thống - Nguồn sức sống mới của đổi</b>
<b>mới tư duy (Trích Một góc nhìn của tri thức) của Phan Đình Diệu</b>
<b>Bài làm</b>
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng phong trào Đổi mới (1986) đến
nay, trong đời sống xã hội cũng như trong các sinh hoạt học thuật, người ta rất
hay nói đến cụm từ đổi mới tư duy. Thế nào là đổi mới tư duy ? Tại sao phải
đổi mới tư duy ? Tư duy cũ cần đổi mới là tư duy gì ? Và tư duy mới mà ta
phải hướng đến có tên gọi ra sao, có những ưu điểm lớn nào? Đó là những câu
hỏi hệ trọng cần phải được giải đáp nhằm làm rõ bản chất, sự thiết yếu cùng
những đòi hỏi của cái gọi là đổi mới tư duy đó. Với sự nhạy cảm cao của một
nhà khoa học và nhà hoạt động chính trị - xã hội, Phan Đình Diệu đã viết bài
Tư duy hệ thống, - nguồn sức sống mới của đổi mới tư duy dường như để làm
sáng tỏ các vấn đề này. Bài viết thực chất là bản rút gọn (do chính tác giả thực
hiện) của tiểu luận Tư duy hệ thống và đổi mới tư duy, in trong cuốn Một góc
nhìn của trí thức.
Nhìn tổng thể, đây là bài viết có tầm bao qt rộng, súc tích, giàu thơng tin,
giàu tính gợi mở và tràn đầy cảm hứng xây dựng, vun đắp cho một tương lai
sáng sủa của khoa học và xã hội. Như nhan đề cho thấy, bài viết có chủ đề
khẳng định ưu thế của tư duy hệ thống trong việc tạo ra động lực mới cho công
cuộc đổi mới tư duy hiện nay.
Phần đầu của bài viết mang tính chất đặt vấn đề, gián tiếp nêu lên tính bức thiết
của đổi mới tư duy và hướng lựa chọn nhằm vào tư duy hệ thống. Không thể
không đối mới tư duy một khi thời đại giục giã, mà sự giục giã đó của thời đại
lại xuất phát từ những bước tiến khổng lồ của loài người trong các thế kỉ qua,
đặc biệt là thế kỷ XX, trên mọi lĩnh vực, từ khoa học tới kinh tế, xã hội. Dĩ
nhiên, khơng phải ai khác ngồi chính con người đã tạo nên những thành tựu to
lớn mà ta đã thấy. Nhưng đến lượt chúng, những thành tựu kia lại đặt con
thuộc hữu cơ với nhau của cái toàn thể". Để cho người đọc lĩnh hội đúng về
khái niệm tồn thể, tác giả đã đối lập nó với khái niệm tổng gộp. Tổng gộp chỉ
là kết quả của con số cộng đơn giản, nhỏ hơn toàn thể, hiểu theo nghĩa là khơng
có những thuộc tính hợp trội như toàn thể. Tác giả viết: "Cho nên người ta nói:
hai cái một riêng lẻ đứng cạnh nhau chưa phải là cái hai, cái toàn thể bao giờ
cũng lớn hơn tổng gộp của các thành phần". Theo tinh thần của lời giải thích
đó, có thể hiểu sự tồn tại của tổng gộp mang tính chất cụ thể, hoặc cụ thể tương
đối, cịn sự tồn tại của tồn thể thì ln trừu tượng. Chính vì tồn thể có hình
thức "tồn tại" như thế nên muốn nắm bắt nó, ta phải "sử dụng" tư duy hệ thống.
Để giúp độc giả thấy rõ sự cần thiết phải có của kiểu tư duy hệ thống trong việc
nắm bắt những phẩm chất hợp trội của tồn thể, tác giả đưa ra hai ví dụ:
1. "độc lập, thống nhất,... là những thuộc tính hợp trội của một đất nước trong
tồn thể, chứ khơng thể là của một bộ phận nào trong đất nước đó";
2. "dân chủ, bình đẳng,... là thuộc tính của một xã hội, chứ khơng phải là thuộc
tính của từng con người riêng lẻ trong xã hội đó".
Tiếp ý tác giả, ta có thể nêu những ví dụ khác, gần gũi hơn với "mơi trường"
- Từng chiếm vị trí gần như tuyệt đối trong nhiều thế kỉ trước khi có tư duy hệ
thống.
- Các phương pháp mà tư duy cơ giới sử dụng đã giúp khoa học và công nghệ
đạt được nhiều thành tựu to lớn.
trụ từ đâu ra, sự sống từ đâu đến, con người với trí tuệ, tâm linh xuất phát từ
đâu,...
- Tư duy cơ giới dường như đã đến giai đoạn "cáo chung" từ vài ba thập niên
gần đây.
Tác giả đã có một cái nhìn hết sức biện chứng về cái gọi là sự "cáo chung" của
tư duy cơ giới. Theo ơng, nói tư duy cơ giới "cáo chung" khơng có nghĩa là cho
rằng nó đã chết hay đã bị đào thải, vứt bỏ. "Cáo chung" ở đây là mất vị thế độc
tôn, vị thế thống trị toàn diện, để trở về với khu vực thích hợp của mình trong
lãnh địa khoa học rộng lớn. Tác giả có chủ kiến rất rõ ràng: "tư duy mới là cần
thiết, và đòi hỏi từ bỏ là từ bỏ cái địa vị độc tôn duy nhất của tư duy cơ giới
chứ khơng phải gạt bỏ hồn tồn khả năng sử dụng cách tư duy đó trong những
phạm vi mà nó cịn được chứng tỏ là thích hợp và cần thiết". Trong tiểu luận
Tư duy hệ thống và đổi mới tư duy đã nêu trên (có thể xem nó là bản gốc, bản
đầy đủ của bài viết này), chính tác giả đã trình bày cụ thể như sau: "Tư duy hệ
thống sẽ càng sắc bén thêm, sâu sắc thêm, nếu khoa học hệ thống được phát
triển mạnh mẽ, cung cấp thêm nhiều căn cứ xác đáng. Mà khoa học hệ thống,
thì dù có được phát triển trong cách nhìn hệ thống, có sử dụng nhiều loại mơ
hình khác nhau khơng nhất thiết là tốn học, có vận dụng kết hợp các tính tốn
định lượng với các lập luận định tính,... cũng vẫn phải dùng các mơ hình quy
giản, các phương pháp phân tích và các lập luận logic nhị nguyên, dựa vào các
"quy luật" tất định, ngay cả khi nghiên cứu cái bất định cũng thực chất là
nghiên cứu các quy luật tất định về các hiện tượng bất định đó. Chỉ có điều là
khi vận dụng các khái niệm, mơ hình và phương pháp đó, ta phải ln nhớ rằng
đó chỉ là những sản phẩm giản lược của nhận thức, những cái xấp xỉ, gần đúng
của thực tế, có thể là thích hợp cho việc nhận thức một số đối tượng và quá
trình tương đối đơn giản nào đó, ở một số thành phần và về một số mặt nhất
định, khó có thể giúp ta nhận thức được thực tế trong cái toàn thể phức tạp của
nó".
Điều thú vị là những phân tích của tác giả ở phần 3 bài viết đã giúp người đọc
hiểu rõ hơn về hiện tượng các cụm từ như "máy móc", "hiểu máy móc", "tư
duy máy móc",... được dùng phổ biến trong đời sống, khi người ta tỏ ý không
thoả mãn với một hành động hoặc một lập luận nào đó chịu sự chi phối của lối
tư duy cứng nhắc. Rõ ràng, bằng cảm tính, nhiều người đã nhận ra những hạn
loại trừ trực cảm, tưởng tượng và mơ mộng, thậm chí cịn thâu nạp chúng, biến
chúng thành những yếu tố cấu trúc vô cùng quan trọng của mình.
Giữa tri thức và tưởng tượng có mối quan hệ chặt chẽ, chúng bổ sung cho nhau,
nâng cao năng lực của nhau. Tác giả viết: "càng nhiều tri thức thì càng có thêm
trí tưởng tượng, và ngược lại, càng giàu tưởng tượng thơ mộng thì sẽ nảy sinh
nhiều ý tưởng bất ngờ cho sáng tạo khoa học". Có thể dẫn ra thật nhiều ví dụ để
minh hoạ cho luận điểm này: Định luật Ác-si-mét được khám phá cùng với
giây phút lóe sáng của liên tưởng khi nhà bác học Ác-si-mét (Archimedes)
đang nằm trong bồn tắm, thấy nước nâng mình lên; cũng bằng liên tưởng, I.
Niu-tơn (I. Newton) phát hiện ra định luật vạn vật hấp dẫn khi bất chợt bị một
quả táo trên cây rụng xuống trúng đầu; s. Moóc-xơ (S. Morse), cha đẻ của máy
điện báo và bộ mã Mc-xơ tìm ra phương pháp gửi tín hiệu đường dài từ
những liên tưởng xuất thần lúc chứng kiến cảnh đổi ngựa ở một trạm bưu
điện;... Về vấn đề đang bàn, nhà bác học A. Anhxtanh (A. Einstein) cũng đã
từng viết: "Cảm xúc đẹp nhất và sâu xa nhất của con người là cảm xúc trước sự
huyền bí. Chính cảm xúc này đã khiến cho khoa học chân chính nảy nở. Những
ai khơng cịn có những cảm xúc đó, khơng cịn biết ngạc nhiên mà chỉ biết ngẩn
người ra vì sợ hãi thì sống cũng như chết. Cảm thấy điều huyền bí mà con
người chưa thể giải thích nổi là vì khả năng ít ỏi đáng buồn của chúng ta mới
chỉ làm lộ được một phần nhỏ bé và thấp kém của cái quy luật cao siêu và lộng
lẫy của tự nhiên...".