Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

KHUYNH HƯỚNG TƯỢNG TRƯNG SIÊU THỰC TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.42 KB, 34 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
Văn học nghệ thuật là một phạm trù thuộc ý thức xã hội, là sự đánh giá
chủ quan về thế giới khách quan. Vì vậy, yêu cầu đặt ra cho văn học là phải phản
ánh chân thực những bước vận động của cuộc sống. Sau năm 1986, đất nước ta
bước vào cơng cuộc đổi mới trên mọi bình diện của xã hội. Hiện thực đời sống
thay đổi cùng sự chuyển biến vể nhu cầu của bạn đọc khiến văn học tất yếu phải
đổi mới. Nhà văn Nguyên Ngọc đã từng thừa nhận rằng rằng càng viết, tay nghề
càng cao, nhưng những trang văn của ơng thì hình như càng ngày càng mất dần
độc giả. Nhà văn buộc phải đổi mới quan niệm và cách viết của mình để phù
hợp với thời đại và thị hiếu công chúng. Thơ Việt Nam từ sau 1975 cũng khơng
nằm ngồi quỹ đạo ấy.
Hạt nhân quan trọng trong công cuộc đổi mới văn học chính là sự thay đổi
quan niệm về hiện thực: từ hiện thực chiến trận, sử thi sang hiện thực thế sự, cá
nhân. Đây là tư tưởng chủ đạo chi phối mọi sự thay đổi khác như quan niệm con
người, quan niệm nghệ thuật, về đề tài, chủ đề, về kiểu nhân vật…
Trong văn học 1945 – 1975, với quan niệm về hiện thực chiến trận, thơ
nói riêng và văn học nói chung đóng vai trị quan trọng là vũ khí đấu tranh, là
tấm gương chỉ đạo tư tưởng trong cuộc chiến đấu để bảo vệ dân tộc. Bởi thế, hầu
hết mọi người quan niệm hoạt động văn học chỉ diễn ra từ một phía là tác giả.
Trong đó, tác giả đóng vai trị là nhà phán truyền chân lý, là người biết tuốt, tác
giả được quyền chi phối tư tưởng của người đọc. Nhưng trong văn học Đổi mới
với quan niệm về hiện thực thế sự, quan tâm nhiều hơn đến con người xã hội thì
vai trị của bạn đọc được coi trọng hơn. Hoạt động văn học là hoạt động về cả
hai phía và tác phẩm văn học khơng chỉ thuộc về tác giả, nó là sản phẩm của
người đọc dựa trên văn bản văn học của người nghệ sĩ. Điều này tạo ra sự dân
chủ trong cách tiếp nhận văn học, người đọc được quyền đồng sáng tạo với nhà
văn.



2

Song song với đổi mới quan niệm nghệ thuật là đổi mới cảm hứng thơ.
Các nhà thơ không chỉ viết với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn,
ngợi ca như văn học 1945 – 1975 mà đi sâu vào nhận thức lại lịch sử, xã hội từ
góc nhìn phi sử thi, phản lãng mạn; hướng ngòi bút đi sâu vào cái tôi cá nhân, cá
thể đặc biệt là đi sâu khai thác thế giới tâm linh, vô thức- một mảnh đất còn quá
lạ lẫm với văn học trước 1975. Thơ phát triển nhiều xu hướng, khuynh hướng
khác nhau trong đó khơng ít nhà thơ thử sức với khuynh hướng đi sâu vào vùng
mờ tâm linh, đậm chất tượng trưng, siêu thực.


3

CHƯƠNG 1:
THƠ VIỆT NAM TỪ SAU NĂM 1975 ĐẾN NAY –
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN
VÀ NHỮNG KHUYNH HƯỚNG CHÍNH
1.1. Những chặng đường phát triển
1.1.1. Giai đoạn 1975 - 1985 và những chuyển đổi về tư duy nghệ thuật
trong thơ
Cuộc sống thời hậu chiến có quá nhiều điểm khác biệt so với cuộc sống
thời chiến tranh. Điều đó địi hỏi nghệ sĩ phải xác lập vị thế của mình sao cho
thích hợp với hoàn cảnh lịch sử mới. Từ chỗ là những ca sĩ ngợi ca đất nước và
nhân dân bằng cái nhìn sử thi và cảm hứng lãng mạn, giờ đây các nhà thơ chuyển
từ “bè cao” sang “giọng trầm”. Cái nhìn sử thi đã dần phai nhạt và thay vào đó là
cái nhìn phi sử thi. Đây là yếu tố hết sức quan trọng khiến cho nghệ thuật giai
đoạn này thể hiện tinh thần dân chủ hóa sâu sắc. Cảm hứng nhân bản và sự thức
tỉnh ý thức cá nhân đã trở thành nền tảng và cảm hứng chủ đạo của văn học và
thơ ca sau 1975. Nhà thơ khơng cịn bị vướng bận với những kiểu hiện thực chủ

yếu và hiện thực thứ yếu, khơng bị bó buộc trong những khung tư tưởng định sẵn
mà cố gắng thể hiện tính đa chiều của hiện thực. Nói đúng hơn, hiện thực trong
văn học phải là thứ hiện thực của suy tư. Chỉ một khi nhà thơ nhìn cuộc sống
bằng đơi mắt cá nhân, nói lên tiếng nói cá nhân, lúc đó mới hi vọng anh ta tạo
nên giọng điệu và tư tưởng nghệ thuật riêng. Tuy nhiên, trong những năm đầu sau
khi chiến tranh kết thúc, cần chú ý đến hai mạch chính trong sự vận động của tư
duy thơ. Thứ nhất, cảm hứng sử thi vẫn được tiếp nối như một qn tính nghệ
thuật. Khơng phải ngẫu nhiên mà giai đoạn này xuất hiện hàng loạt trường ca có
ý nghĩa như những bức tranh hồnh tráng tổng kết cuộc kháng chiến vĩ đại của
dân tộc. Sự thay đổi trong cái nhìn nghệ thuật trong các trường ca này so với thơ
ca thời chống Mỹ là ở chỗ, tuy vẫn mang chủ âm hào hùng, nhưng các nhà thơ đã
bắt đầu chú ý nhiều hơn đến bi kịch của con người. Nói khác đi, trong khi cố


4

gắng miêu tả sự lớn lao, kỳ vĩ của Tổ quốc, các nhà thơ đã quan tâm trực diện
đến số phận của cá nhân, thậm chí nhiều khi số phận của đất nước được đo ướm
bằng nỗi đau của cá nhân: Một mình một mâm cơm/ Ngồi bên nào cũng lệch/ Chị
chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền (Hữu Thỉnh - Đường tới thành phố).
Trong những trường ca này, mặc dù cái bi chỉ là yếu tố để làm nổi bật cái tráng
nhưng rõ ràng, cái nhìn về chiến tranh đã sâu hơn, gắn nhiều hơn với những suy
tư cá nhân về số phận dân tộc và số phận con người. Thứ hai, trong những năm
cuối thập kỷ 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX, “thơ đời thường” xuất hiện
nhiều. Chưa bao giờ các nhà thơ thấy nhiều bi kịch đến thế. Thậm chí, cảm giác
bế tắc và chán nản là cảm giác khá nổi bật trong tâm trạng nhiều người: thời tơi
sống có bao nhiêu câu hỏi/ câu trả lời thật chẳng dễ dàng chi (Nguyễn Trọng Tạo
- Tản mạn thời tôi sống). “Từ xa” nhìn về Tổ Quốc, Nguyễn Duy đã thật lịng nói
lên nỗi cay đắng của mình khi nhìn thấy sự khổ nghèo và bất hạnh của con người
trong cuộc sống đầy khốn khó. Lưu Quang Vũ cũng cay đắng nghẹn ngào khi

nghĩ về Tổ quốc. Các hình tượng nghệ thuật mang tính huyền thoại hóa về một
hiện thực kỳ vĩ và cảm hứng sử thi khơng cịn xuất hiện như là hiện tượng nổi bật
của thơ ca giai đoạn này. Trái lại, bằng cái nhìn tỉnh táo và giàu màu sắc chiêm
nghiệm, nhiều thi phẩm sau chiến tranh đã thể hiện một cách khá riết róng những
mặt trái của đời sống, những thay đổi các thang bậc giá trị và không né tránh việc
nói đến những bất cơng xã hội. Đây là những cảm hứng hiếm khi xuất hiện trong
thơ 1945- 1975, khi mà số phận dân tộc và số phận cá nhân hịa làm một, cái tơi
và cái ta hồn tồn thống nhất. Cái nhìn nghệ thuật trong thơ sau 1975 là cái nhìn
suồng sã, đối tượng hiện lên như một sự thật khơng mang màu lý tưởng hóa.
Theo đó, thể tài thế sự, đời tư trở nên nổi bật và gắn liền với nó là chất giọng “tự
thú” và chất giọng giễu nhại. Ở đây chất giọng giễu nhại mang trong mình nó ít
nhất hai chức năng nghệ thuật cơ bản: làm cho thơ bớt đi sự nghiêm trang thái
quá, ngôn ngữ thơ bớt đi sự “trong suốt” mà tăng thêm phù sa của “cây đời”; cho
phép người đọc hình dung cuộc sống như một thực thể đa trị, bên cạnh cái trong
veo, thuần khiết là những thứ “tèm nhem tâm hồn”. Cả hai đều tồn tại bình đẳng


5

trong một thế giới không phải lúc nào cũng được cắt nghĩa theo logic nhân quả.
Bởi thế, gắn liền với giọng điệu thự thú là cảm hứng phờ phỏn và chất giọng hồi
nghi. Chỉ có điều cái nhìn hồi nghi cần được nhìn nhận trong mối quan hệ biện
chứng, khi ta hồi nghi một giá trị có nghĩa là bắt đầu ta đã nghiêng về một giá trị
khác (hoặc ít nhất ta khơng cịn ràng buộc mình trong giá trị cũ). Đó là lý do ta
hiểu vì sao cái tơi trong thơ sau 1975 là cái tôi đa diện, nhiều bất an, giằng xé,
hướng nội.
1.1.2. Giai đoạn sau 1986 và ý thức “cởi trói” để xác lập một quan niệm
mới về nghệ thuật
Công cuộc đổi mới được khởi xướng vào năm 1986 là một sự kiện trọng
đại làm thay đổi cuộc sống nước ta vốn đã có lúc rơi vào khủng hoảng sâu sắc.

Văn nghệ, trong tình hình mới đã dám “nói thẳng”, “nói thật” về nhiều vấn đề
khúc mắc, nhiều sự thật đau lịng. Theo đó, cá tính sáng tạo của nhà thơ cũng
được giải phóng triệt để hơn. Cuộc gặp gỡ giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và
giới văn nghệ sĩ cả nước vào tháng 10 năm 1987 có tác động rất lớn đến tinh thần
của những người cầm bút, nhất là ý thức tự cởi trói trong lĩnh vực sáng tạo.
Không thể phủ nhận một thực tế là cơ chế kinh tế thị trường đã làm cho cuộc
sống khởi sắc hơn, nhưng mặt khác, con người dường như sống với nhau lạnh
lùng hơn, mối quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội lỏng lẻo hơn. Bối cảnh lịch
sử và văn hóa mới, cả mặt phải và mặt trái của nó khiến các nhà thơ khơng thể
nhìn cuộc sống như trước đây mà buộc họ phải thích ứng với những thay đổi
nhiều khi chóng mặt của cuộc sống. Điều đó dẫn tới sự thay đổi sâu sắc về tư duy
nghệ thuật thơ giai đoạn này qua ba điểm đáng chú ý sau đây:
Ý thức nhìn cuộc đời bằng cái nhìn tỉnh táo và thơ ca hiện ra như một hình
thức tra vấn khơng ngừng về đời sống. Khát vọng đổi mới ấy trong nghệ thuật đã
được tiếp sức bởi công cuộc đổi mới của đất nước. Màu sắc duy lí “tỉnh táo, tỉnh
bơ” khá đậm trong thơ cho thấy ý thức tạo dựng nhãn quan nghệ thuật mới của
nhiều nghệ sĩ. ý thức ấy bộc lộ qua hai dấu hiệu cơ bản: thứ nhất, thơ ca đã bắt
đầu bứt thốt khỏi những trận mưa trữ tình và sự ngọt ngào thường thấy trong thơ


6

1945-1975 để tiến đến sự đa dạng với những câu thơ trúc trắc, mang tính đối
thoại cao, giọng điệu thơ gần gũi với đời sống thường ngày; thứ hai, cái nhìn tỉnh
táo của nhà thơ thực ra là cái nhìn giàu chất suy tư, là bề ngoài của một nỗi đam
mê lớn bên trong. Gắn liền với những thay đổi ấy trong cấu trúc tư duy nghệ
thuật là vị thế của nhà thơ trong hồn cảnh mới. Nhà thơ khơng phải là những
người rao giảng đạo đức hay minh họa cho một tư tưởng sẵn có mà anh ta phải
góp phần đánh thức những khát khao, những niềm trắc ẩn của con người trên cơ
sở trình bày cảm nhận của mình về các giá trị.

Nỗ lực khám phá sự phong phú của “cái tôi ẩn giấu”, dám phơi bày những
bi kịch nhân sinh, hoài nghi những giá trị vốn đã quá ổn định để đi tìm những giá
trị mới. Đây là lý do nhiều tác phẩm xuất hiện cảm hứng “giải thiêng” và khát
vọng muốn tìm đến những hình thức tổ chức ngôn từ mới lạ (1). Trong nghệ
thuật, không phải mọi nhận thức chung về tư tưởng xã hội đều đồng nhất với
những suy nghĩ cá nhân và văn bản văn học không phải là những văn bản tuyên
huấn có tính hình ảnh. Với tư cách là một nghệ sĩ, cái quan trọng nhất là nhà thơ
phải tạo ra được quan niệm riêng về đời sống. Quan niệm ấy không hiện lên qua
những lời thuyết lý khô khan mà phải hố thân vào chữ nghĩa và hình tượng. Đó
là lý do khiến các nhà thơ sau 1986 chú ý nhiều hơn đến tính đa nghĩa của ngơn
ngữ thơ ca. Bên cạnh xu hướng đưa thơ gần với đời sống là một cực khác: ý thức
tạo ra tính nhịe mờ trong ngôn ngữ và biểu tượng. Xu hướng này muốn gia tăng
chất ảo trong thơ, buộc người đọc phải giải mã các sinh thể nghệ thuật qua nhiều
chiều liên tưởng văn hóa khác nhau.
Thơ như một ngơn ngữ. Cơng cuộc đổi mới đã mở rộng cánh cửa giao lưu,
hội nhập với thế giới, và thơ ca, trước vận hội này, khơng thể nằm n trong mơ
hình nghệ thuật cũ. Bắt đầu xuất hiện những giọng thơ lạ, đậm chất “Tây”. Điều
đó đã dẫn tới những cuộc trạnh luận về “ta” và “tây” trong thơ kéo dài đến mấy
năm sau sự kiện “sự mất ngủ của lửa” (Nguyễn Quang Thiều) và thơ của một số
nhà thơ khác như Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng. Các cây bút này có ý
thức phá vỡ các chiều tuyến tính, tạo nên những dịng chảy đứt nối và gia tăng


7

tính đồng hiện của các hình ảnh thơ hoặc cố gắng tỉnh lược các mối quan hệ bề
nổi, đặt những hiện tượng khác nhau bên cạnh nhau và buộc người đọc tự xác lập
mối lên hệ giữa chúng.
1.2. Các khuynh hướng nổi bật
Sự phong phú của một nền thơ có thể được thể hiện ở nhiều phương diện

khác nhau nhưng trước hết, đó phải là nền thơ cho phép sự tồn tại của nhiều
khuynh hướng nghệ thuật. Không chỉ thế, từ phương diện chủ thể sáng tạo, một
tác giả cũng có thể thử sức trên nhiều khuynh hướng nghệ thuật khác nhau. Điều
này khơng chỉ góp phần tạo nên tính đa dạng của đời sống thơ nói chung mà cịn
làm nên tính đa dạng ngay trong bút pháp nghệ thuật của mỗi một cá nhân. Đó là
chưa nói đến những sáng tác của các nhà thơ người Việt sống ở nước ngoài và
các phong trào đang được một số cây bút nêu lên như hậu hiện đại hay Tân hình
thức gần đây. Khi mà internet trở thành phương tiện thông tin phổ biến, bên cạnh
những tác phẩm được in ấn có giấy phép, người ta vẫn quan tâm đến hai hình
thức khác là truyền khẩu (hoặc photocopy để đọc) và văn học mạng. Như vậy, sự
đa dạng cùng lúc được thể hiện trên cả ba “cơng đoạn” của “quy trình” văn học:
sáng tác - văn bản - người đọc. Trong giới hạn của một tiểu luận, chúng tôi chỉ
nêu một số khuynh hướng nổi bật của thơ ca Việt Nam đang diễn ra ở trong nước
và trên báo chí quốc nội.
1.2.1. Xu hướng viết về chiến tranh qua những khúc ca bi tráng về số
phận của dân tộc
Mặc dù chiến tranh trơi qua chưa lâu nhưng nếu đặt nó trong tương quan
với lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc dễ nhận thấy một thực tế: các nhà văn đã
có một độ lùi cần thiết để nhìn về cuộc chiến bằng cái nhìn tồn diện, sâu sắc
hơn. Trước đây, hiện thực hiện lên trong tác phẩm thường là hiện thực “nhìn
thấy” thì trong thơ sau 1975, chiến tranh chủ yếu hiện lên trong ký ức. Tơi gọi đó
là thứ hiện thực tự cảm thấy. Với một khoảng cách thẩm mỹ như thế, chiến tranh
khơng chỉ được nhìn từ mặt trước mà cịn được nhìn từ phía sau với bao nỗi đau
trĩu nặng, bao nhức nhối khó lành. Chất giọng xót xa, nỗi buồn được nói nhiều


8

trong thơ. Đáng chú ý là trong khoảng gần ba mươi năm qua xuất hiện hai đợt
sóng trường ca. Đợt thứ nhất xuất hiện vào những năm cuối thập kỷ 70 đầu thập

kỷ 80 và đợt thứ hai xuất hiện vào những năm cuối thế kỷ XX. Sự xuất hiện của
các tập trường ca cho thấy nhu cầu tổng kết về chiến tranh và lịch sử trong thơ là
một nhu cầu có thật. Từ điểm nhìn hiện tại, các nhà thơ phóng chiếu cái nhìn sâu,
xa về lịch sử đất nước - một lịch sử oai hùng nhưng cũng không ít đau thương và
bất hạnh. ý thức nói nhiều hơn về bi kịch khiến cho các tập thơ này không rơi vào
giọng điệu tụng ca dễ dãi mà thể hiện chiều sâu ngẫm ngợi của nhà thơ về thế
thái nhân tình trong sự chuyển động khơng ngừng của lịch sử. Bên cạnh những
cây bút thành danh ở thể loại trường ca như Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn
Đức Mậu …là sự xuất hiện của Trần Anh Thái với Đổ bóng xuống mặt trời,
Hồng Trần Cương với Trầm tích… Sự vạm vỡ, tính trường sức của thể loại được
gắn kết với những trải nghiệm cá nhân và những suy tư mang tính khái quát cao
đã khiến cho thơ ca giai đoạn này có được những khúc ca giàu tính nghệ thuật về
số phận đất nước, nhân dân.
1.2.2. Xu hướng trở về với cái tôi cá nhân, những âu lo của đời sống
thường nhật
Đây là xu hướng nổi bật nhất trong thơ sau 1975. Những năm đầu thập kỷ
80 thơ ở giai đoạn chuyển giọng: nhà thơ nói nhiều hơn về nỗi buồn nhân sinh, về
những cảm nhận của cái tôi trước một thực tại khắc nghiệt. Nếu như trước đây,
các nhà thơ dường như e ngại nói về nỗi buồn thì trong thơ sau 1975, nhiều nhà
thơ công khai bày tỏ nỗi buồn. Đó khơng hẳn là nỗi buồn kiểu thơ mới mà là nỗi
buồn gắn chặt với một thực tại mới, một cảm quan nghệ thuật mới. Có nỗi buồn
về thần tượng bị gẫy đổ, ảo tưởng bị tan vỡ khi nhận ra “Chúa chỉ bằng đất đá”
(Nguyễn Trọng Tạo), có nỗi buồn vì cuộc sống mưu sinh làm cho con người chỉ
chú ý chuyện tồn tại mà “xa dần truyện bớt dần thơ” (Nguyễn Duy) và có những
trắc ẩn về riêng tư, đôi lứa: Em chết trong nỗi buồn - Chết như từng giọt sương Rơi không thành tiếng (Lâm Thị Mỹ Dạ). Chất giọng tự thú, tự bạch trở thành
gam giọng phổ biến. Cắt nghĩa về thực trạng này có thể nhìn từ hai phía: thứ


9


nhất, đó là nỗi buồn xuất phát từ thời thế, sự khủng hoảng về niềm tin, sự bất an
trước thời cuộc; thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, quan hệ người trở nên lỏng
lẻo, con người sống trong nhiều mối quan hệ hơn nhưng cũng cô đơn hơn. Câu
hỏi Người sống với nhau thế nào thể hiện rất rõ tâm trạng của một thời đoạn lịch
sử cụ thể. Nét nổi bật của xu hướng này là các nhà thơ rung động trước những
biến thái tâm lý tinh tế, sâu kín, nhiều khi ngỡ như thật mong manh. Tuy nhiên
cũng xuất hiện khơng ít nỗi đau giả, những tiếng khóc vờ vì cảm xúc hời hợt và
thói triết lý vặt trong thơ. Thậm chí, việc nói q nhiều đến nỗi buồn, kể lể dài
dịng về chúng một cách nơng cạn đã khiến cho khơng ít tác phẩm rơi vào tình
trạng phản cảm. Ta biết rằng, buồn, cô đơn là một phạm trù thẩm mĩ và cũng là
một đề tài nổi bật của thơ ca. Không hẳn nỗi buồn nào cũng nhất thiết phải có
nguyên cớ. Tuy nhiên, điều quan trọng là nhà thơ phải thể hiện được những nỗi
buồn sâu sắc và thấm đầy chất nhân bản. Đó phải là những giọt nước mắt có giá
trị thanh lọc cảm xúc, khiến con người phải biết sống cao đẹp hơn, “Người” hơn.
Thơ ca sau 1975 tuy viết nhiều về nỗi buồn nhưng dường như vẫn còn hiếm
những nỗi buồn cao cả được thể hiện một cách sâu sắc và ám ảnh.
1.2.3. Xu hướng đi sâu vào những vùng mờ tâm linh đậm chất tượng
trưng siêu thực
Về thực chất, đây là sự phát triển sâu hơn của khuynh hướng thứ hai. Nhân
thân tiểu vũ trụ, đi sâu vào vũ trụ người, khám phá chiều sâu khơng cùng của nó
bao giờ cũng là một thách thức đối với nghệ sĩ. Nỗ lực đào sâu vào cái tôi ẩn
giấu, cố gắng phát hiện chiều sâu tâm linh của con người là nét nổi bật của xu
hướng này. Sự khác biệt giữa khuynh hướng này và khuynh hướng thứ hai chủ
yếu nằm ở cấp độ và cách khai thác sự đa chiều của cái tôi. Nếu như xu hướng
thứ hai chủ yếu tìm hiểu bản thể cái tôi trong các quan hệ đời sống, sự tương tác
giữa cá nhân với hồn cảnh thì ở xu hướng thứ ba này, các nhà thơ tập trung tìm
hiểu cấu trúc cái tơi trong quan hệ với chính nó. Tại đây, tính “tự động tâm lý”
đậm màu siêu thực và sự “ú ớ” trong cảm thức nghệ thuật được đề cao. Muốn thế,
nhà thơ, theo cách nói của Đặng Đình Hưng, phải “nhập - thấy”. Trong trường



10

hợp ấy, thơ là hình ảnh nội tâm về thế giới nội tâm, là ý thức chống lại các quy
tắc có sẵn trong thơ, là sự khước từ sự có mặt của tư duy duy lý trong nghệ thuật.
Về thực chất, các cây bút đi theo hướng này muốn trình lồi người hình ảnh về
con người tâm linh. Đây là một đoạn thơ của Đặng Đình Hưng trong Ơ mai:
Cơn thể niệm đầy triển vọng hồn thành, thì một hơm (có lẽ tại thời tiết, jở
jời) bỗng phát sinh một số biến chứng, biến chứng từ trong ra. Hôm ấy trời se se mùa chuyển, anh lại thấy người gai gai khó nói - như man mác - như mây trôi lại như trống trải cô li - như tiếng gọi mùa:
xn hạ thu đơng
đi jiữa mùa em jó lộng
thu cùng
đi jiữa mùa xuân
jó lạnh xuân mùa
thay áo
mùa sương em
sương ngượng
ngỡ ngàng
ngấp nghé
Đoạn thơ trên đây không tuân thủ cấu trúc cú pháp thông thường, sự thay
đổi tâm trạng được hình dung như một biến chứng bất thường, kiểu ký tự của tác
giả cũng khác so với từ ngữ quen dùng (jiữa, jó…)… Xu hướng này có thể tìm
thấy trong thơ “vụt hiện” của Hoàng Hưng, một số thi phẩm của Hồng Cầm, Lê
Đạt, Dương Tường… Tất nhiên khơng phải nhà thơ nào chủ trương phải đi sâu
vào con người tâm linh và đề cao lối viết tự động, tìm mọi cách đưa ngôn ngữ thơ
ca khỏi phạm trù tiêu dùng cũng đều đều “ú ớ” và tắc tị như có người lên tiếng
phủ nhận. Một số câu thơ của họ khá hay nhưng nếu đẩy quỏ xa, xu hướng này
rất dễ rơi vào bế tắc như trước đây Xuân thu nhã tập từng một lần thất bại. Tất
nhiên, trên quan điểm lịch sử, đây là những cách tân cần được tơn trọng vì có



11

những thứ cực đoan cịn có ý nghĩa hơn rất nhiều những cái “đung đúng”, chừng
mực đúng nhưng vô hồn và nhàm chán.
1.2.4. Xu hướng hiện đại (và hậu hiện đại)
Xu hướng này thể hiện rõ nhất trong sáng tác của nhiều cây bút trẻ trưởng
thành sau 1975 như Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phan Huyền
Thư, Vi Thùy Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh…Một số cây bút vốn trước đây cịn
ít nhiều nặng tình nặng nghĩa với cảm hứng lãng mạn hoặc đổi mới một cách rụt
rè cũng bắt đầu nhập vào dịng thơ hiện đại. Từ cái nhìn hiện đại, thơ Việt trở dạ
và đặt các nhà thơ trước một thực tế: nếu quay lại với cách cảm cũ, cách nói cũ
thì có nghĩa là anh ta đã chấp nhận hậu quả “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Tuy
nhiên, trong khi quá mải mê chạy theo hướng hiện đại, một số cây bút rơi vào
nhầm tưởng hết sức tai hại. Họ cứ ngỡ đổi mới thơ theo hướng hiện đại là phải
dùng những từ ngữ tục tĩu hoặc dùng những từ ngữ thời thượng của thời đại
thông tin, chua thêm Anh ngữ, Pháp ngữ, lên dịng, xuống dịng… chóng mặt. Về
bản chất, các cây bút này muốn tạo nên màu sắc nổi loạn, thủ tiêu mối nhân quả
vẫn thường thấy trong thơ ca truyền thống, sử dụng những liên tưởng trái chiều
và nhiều kênh ngôn ngữ khác lạ để tạo nên cái mới trong thơ. Đó là thái độ gây
hấn về tư duy nghệ thuật nhằm chống lại tính hàn lâm trong nghệ thuật và nhấn
mạnh sự tự do trong ý thức tạo dựng một động hình ngơn ngữ mang tính ấn
tượng cao. Song, theo quan niệm của tơi, tính hiện đại của thơ ca cần phải được
quan niệm một cách sâu sắc hơn. Những tác phẩm mang tính hiện đại và hậu hiện
đại vẫn phải là những tác phẩm thể hiện được chân dung tinh thần của thời đại
hậu công nghiệp cũng như tâm thức của con người trong xã hội hiện nay. Chính
điều đó mới là nhân tố quyết định, nó địi hỏi phải có một hình thức tổ chức diễn
ngôn mới, cách tạo âm và tạo nghĩa mới. Đến lượt mình, cách tổ chức diễn ngơn
ấy chính là những tín hiệu cho phép người đọc nhận thấy một trật tự tinh thần
mới nằm sâu trong hệ thống ký hiệu được gọi là văn bản ngơn từ. Vì thế, việc

thúc đẩy tính hiện đại trong thơ khơng phải là chạy theo những thời thượng nghệ
thuật mà quan trọng hơn, nhà thơ phải thể hiện được tinh thần hiện đại trong tác


12

phẩm của mình. Trong nghệ thuật hiện đại (và nhất là hậu hiện đại), con người có
ý thức nêu lên quan điểm cá nhân và chống lại những quan điểm mang tính tồn
trị. Nhưng dù đổi mới thế nào đi chăng nữa, dù sáng tác theo isme nào đi chăng
nữa thì thơ ca vẫn phải là tiếng nói hồn nhiên nhất, nguyên sơ nhất và giàu tính
nhân bản nhất của con người về cuộc sống, vì sự cao đẹp của con người.


13

CHƯƠNG 2:
THƠ ĐI SÂU VÀO NHỮNG VÙNG MỜ TÂM LINH
ĐẬM CHẤT TƯỢNG TRƯNG SIÊU THỰC - KHUYNH HƯỚNG
TIÊU BIỂU CỦA THƠ VIỆT NAM TỪ SAU NĂM 1975 ĐẾN NAY
2.1. Đề cao tiềm thức, vô thức, linh giác, trực giác và bản năng tự
nhiên của con người
Khuynh hướng đi về sâu vào những vùng mờ tâm linh mang đậm chất
tượng trưng, siêu thực trong thơ khơng cịn là cái hồn tồn mới đối với thơ
đương đại. Bởi để có được một hướng đi như ngày hơm nay, thì trước đó đã có sự
manh nha và trải nghiệm của nhiều nhà thơ ưu tú. Họ là những người đi tiên
phong và chấp nhận như những cánh chim lạc để tìm đến những chân trời mới.
Tuy nhiên, ở mỗi thời kì lại có một cái hay riêng khó mà đối sánh rõ ràng.
Nhưng dường như trong thơ đương đại thì vấn đề này đã trở thành một xu hướng
mang nhiều giá trị với rất nhiều tác phẩm độc đáo đã định hình.
Ngay từ lúc cái tơi được giải phóng một cách mạnh mẽ thì nhiều tác giả

của phong trào “Thơ mới” đã đi những bước đầu tìm về với vùng sâu thẩm của
tâm hồn. Tiêu biểu hơn hết được nhắc tới có thể kể đến Hàn Mặc Tử. Thi sĩ
không dừng lại ở sáng tác mà còn nêu lên quan điểm sáng tác của bản thân lúc
bấy giờ. Đây cũng có thể xem như là một tuyên ngôn mới về sáng tác đối với thơ
ca: “Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi yếu đuối q, tơi phản lại tất cả những gì máu tơi,
hồn tơi đều hết sức giữ bí mật. Và cũng có nghĩa là tơi mất trí, tơi phát điên”.
A ha! Ta đuổi theo trăng
Ta đuổi theo trăng
Trăng bay lả tả ngã lên cành vàng
Tới đây là nơi tôi gặp được nàng
Rủ rê, rủ rê hai đứa vào rừng hoang
Tôi lượm lá trăng làm chiếu trải
Chúng tôi kề đầu lên khối sao băng.


14

Chúng tơi nói chuyện bằng hơi thở
Dần dần hoa cỏ biến ra thơ…
Chúng tôi lại là người của ước mơ
Không xác thịt, chỉ có linh hồn đang mộng.
Chao ơi! Chúng tơi rú lên vì kinh động
Vì trăng ghen, trăng ngã, trăng rụng xuống mình hai tơi!
(Rượt trăng - Hàn Mặc Tử)
Khơng dừng lại ở đó, nếu Hàn Mặc Tử cho là như thế, thì trong lời mở đầu
của tập “Điêu tàn” Chế Lan Viên lại thêm vào: “Hàn Mặc Tử nói: Làm thơ tức
là điên. Tơi thêm: làm thơ là sự phi thường, thi sĩ khơng phải là người. Nó là
người mơ, người say, người điên. Nó là tiên, là ma, là quỷ, là tinh, là yêu”.
Từ hai quan điểm trên, tác giả Nguyễn Mai Hương Trà đã rút ra một nhận
định và khẳng định ln đây chính là những bước đầu manh nha đáng phấn khởi

để yếu tố tâm linh trong thơ phát triển hơn nữa về sau (tức là hình thành nên một
xu hướng định hình mang giá trị). “Thơ là tư tưởng nảy sinh trong trạng thái
siêu thăng của cảm giác. Đó là lúc cảm hứng đến như một “cơn sốc”, ý thức tỉnh
táo mờ đi, lùi lại phía sau nhường phần lớn quyền điều hành cho tiềm thức, vơ
thức. Những ý kiến trên, dù đó là quan niệm riêng của cá nhân các nhà thơ
nhưng lại rất gần với quan niệm của “Chủ nghĩa hiện đại” và tương đồng với
chiều hướng vận động đi tới các phi lí tính trong văn học thế giới”..
Bên cạnh những tác giả của phong trào “Thơ mới”, được xem là dịng văn
học “chính thống” lúc bấy giờ, thì cịn có những nhóm tác giả cách tân quyết liệt
hơn cịn mang nhiều luồng phán xét cũng đã đi vào thế giới tâm linh qua thơ.
Như tác giả Nguyễn Mai Hương Trà tiếp tục nhận định: “Sau thời kỳ lãng mạn
thuần khiết, một số tác giả của Trường thơ Loạn, nhóm Xuân Thu nhã tập, nhóm
Dạ đài tiến thêm một bước mới, đi vào tìm hiểu, khám phá những bí ẩn nằm
trong chiều sâu tâm linh huyền bí với những chiều kích khác nhau của thế giới và
con người. Từ quỹ đạo lãng mạn họ đã bước đầu dịch chuyển sang địa hạt tượng
trưng và thậm chí đã có dấu hiệu của Chủ nghĩa siêu thực”.


15

Trên “Tạp chí sơng Hương - Số 207” tác giả Trần Huyền Sâm cũng đưa ra
nhiều minh chứng: “Hầu hết, các sáng tác của “Xuân Thu nhã tập” đã vượt lên
tính xúc cảm, tính chất giãi bày cái tơi cá nhân của “Thơ mới”. Xuân Thu đã tiến
đến chủ nghĩa tượng trưng ở tính ám gợi, tính biểu tượng, tính mơ hồ, huyền bí.
Hồi Thanh cho bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ là một lối thơ rất
tinh tế và kín đáo, nhưng hình ảnh mờ”.
Màu thời gian khơng xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian khơng nồng
Hương thời gian thanh thanh

(Màu thời gian - Đoàn Phú Tứ)
Cùng chung một cách nhìn về sự vận động trên, tác giả TS. Đặng Thu
Thủy lại cho chúng ta một cái nhìn như khẳng định thêm một lần nữa ở giai đoạn
tiếp theo. Tác giả nhận xét: “Dẫn thơ theo hướng này là các nhà thơ thuộc thế hệ
trước 1975 - các nhà thơ “hiện đại chủ nghĩa” (theo cách gọi quen thuộc của thi
giới): Trần Dần, Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng… (tiếp nối bước chân
của Xuân thu nhã tập, Dạ Đài). Họ có tham vọng khám phá “tâm lý học miền
sâu”, “miền còn hoang dã” của con người. Xuất phát từ quan niệm: thơ chủ yếu
là sự biểu hiện của cái tôi ở phần tiềm thức, vô thức, họ đã đưa thơ vào sâu trong
các địa hạt này, khai thác những giấc mơ, mộng mị, hư ảo..
Tác giả Nguyễn Mai Hương Trà cũng đưa ra nhận định: “Các nhà Hiện
đại chủ nghĩa coi thế giới vô thức của con người là một lĩnh vực vô hạn đối với
sự khám phá sáng tạo nghệ thuật. Chính vì vậy khi sáng tác họ đề cao tính ngẫu
hứng, chú trọng việc ghi chép những cái xuất hiện lướt qua trong đầu, khơng qua
sự kiểm sốt của lý trí. Dựa vào kinh nghiệm của vô thức, tiềm thức, người nghệ
sỹ để cho tác phẩm trôi chảy tự do theo ấn tượng vụt hiện của trực giác hay theo
dòng liên tưởng. Các thao tác của tư duy như quan sát, chọn lọc, sắp xếp, liên
kết… chỉ còn một vai trò thứ yếu, mờ nhạt trong quá trình sáng tạo. Bài thơ là sự
vọt trào, bùng vỡ của ấn tượng, ẩn ức bị dồn nén lại trong tiềm thức, vô thức,


16

gây cảm giác chúng nảy sinh tư nhiên, bất ngờ, không hề được định trước bởi ý
thức của tác giả. Đó là bản chất của “lối viết tự động” mà các nhà siêu thực
phương Tây thường nói đến”.
Con chim mang giấc mơ bay đi
Chú bé ngủ dưới trời sao sáng
Thanh thản
Đêm qua em mơ gì?

Tơi mơ thành chim
(...)
Chú bé là ai
Chú bé là tôi
Con chim là ai
Con chim là tôi
Giấc mơ là ai
Giấc mơ là tôi
Đêm qua
Tôi mơ thành tôi
Tôi mơ thành chim
Tôi mơ thành giấc mơ
(Đề tặng một giấc mơ - Lâm Thị Mỹ Dạ)
2.2. Sự hòa hợp giữa đời sống tâm linh và đời sống trần thế của con
người
Tác giả Nguyễn Văn Ba cũng góp cái nhìn của mình ở sự đi lên trong giai
đoạn tiếp theo. Cái tơi tâm linh đã bắt đầu có một hướng đi. Tác giả chỉ ra rõ là
nhờ “Đổi mới” khách quan và chủ quan từ ý thức tâm linh trong văn học được
các tác giả thể hiện; đặc biệt nhận thấy qua thơ: “Nói tới ý thức tâm linh trong
văn học, chúng tơi hướng tới đối tượng chính là nhà văn - người phản ánh và
sáng tạo hiện thực. Không phải trong hoàn cảnh nào các cây bút của ta cũng ý
thức một cách sâu sắc về bản chất hiện thực, trong đó khơng phải khơng có


17

những ám ảnh của cái gọi là hiện thực chủ nghĩa hay siêu tưởng. Chỉ đến sau
thời kỳ Đổi mới với tinh thần nhận thức lại, nhiều vấn đề hiện thực cuộc sống
cũng như con người được đặt vào những trường nhìn mới, hình thành nên những
quan niệm mới. Cuộc sống trong văn học sau Đổi mới đã hiện lên phong phú và

đa dạng hơn nhiều so với các sáng tác ở thời kỳ trước”[1;33].
Đúng như các tác giả nhìn nhận, chúng ta thấy rằng yếu tố tâm linh trong
thơ ngày được thể hiện rõ hơn khi có nhiều hơn những điều kiện thuận lợi. Vẻ
đẹp ấy cũng được nhiều hơn những chú ý và khám phá. Thực chất bản thân hay
nói cách khác là tự thức ở các chủ thể sáng tạo đã giữ trong mình những yếu tố
thuộc về thiên hướng thẩm mỹ này. Tuy nhiên, mỗi người lại có những tiếng nói
khác nhau. Dù vậy, đến thời điểm hiện nay, họ đã đi chung trên một con đường
khi thiên hướng cá nhân tâm linh đã thành một xu hướng định hình.
Chúng ta khẳng định yếu tố tâm linh trong thơ đương đại đã trở thành một
xu hướng định hình. Bởi lẽ, nhìn lại một chặng đường ta khơng khó để kể đến
những cái tên tiêu biểu; Từ đã thành danh ở chặng đường trước và vẫn phát huy
sáng tạo cho đến hơm nay như: Hồng Cầm, Chế Lan Viên, Phùng Khắc Bắc…
Đến các nhà thơ trẻ thuộc thế hệ 8X (các gọi thông thường chỉ các cây bút trẻ
sinh ra ở thập niện 80 của thế kỉ XX) đang sáng tạo mạnh mẽ như: Phan Huyền
Thư, Vi Thùy Linh, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Vĩnh Tiến, Văn Cầm Hải v.v...
Xu hướng tâm linh ấy được thể hiện trong thơ thông qua nhiều yếu tố biểu
hiện như: vô thức, tiềm thức và tất cả lại được ý thức tâm linh dẫn đường. Tác giả
Hồ Thị Tâm cho rằng: “Nói đến thơ đương đại khơng thể khơng nói đến vai trị
của vơ thức đối với việc sáng tạo. Theo từ điển triết học (M. 1986), vơ thức được
giải thích như sau: “1 - Những hành vi được thực hiện một cách tự động theo
phản xạ, khi nguyên nhân của nó chưa kịp đi vào ý thức, là những ý thức không
hoạt động tự nhiên, say rượu, giấc ngủ; 2 - Những q trình tâm lý tích cực
khơng tham gia trực tiếp vào mối quan hệ chủ thể và hiện thực (tiềm thức); 3 Một lĩnh vực tâm lý đặc biệt tập trung những ý hướng, động cơ, những ham
muốn vĩnh viễn và bất biến do bản năng điều khiển”.


18

Như vậy, vì thơ chính là hoạt động tâm lý của con người. Nó là nguồn
sáng tạo cho những sáng tác mang màu tâm linh cá nhân. Đồng thời cũng phản

ánh hiện thực. Nên những hiện thực ở đây được lý giải bằng chính tiềm
thức. “Thơ đương đại thường có xu hướng quay về những ẩn ức quá khứ,
những ám ảnh tiềm thức như một sự giải mã cho thế giới nội tâm của mình
hoặc một số tác giả lại có xu hướng quay tìm về thế giới tâm linh với những
vùng mờ, độ nhịe khó phân định, đậm chất tượng trưng siêu thực” - (Hồ Thị
Tâm). Thế nhưng, thực chất cả hai xu hướng này chỉ cùng một mục đích và
một biểu hiện là thể hiện cái tơi tâm linh trong thơ.
Hai yếu tố trên có thể được xem là hai mặt của một vấn đề có sự tác động
qua lại và hỗ trợ cho nhau. Tuy nhiên, chúng ta cũng chú ý rằng để có được điều
đó thì bản thân chủ thể sáng tạo phải ý thức được điều đó. Tác giả Hồ Thị Tâm
cũng đi đến kết luận: “Nhà thơ phải ý thức ngay cả vô thức của mình vì vơ thức
là vùng hoạt động chủ yếu của tưởng tượng của tình cảm, thiếu sự kiểm sốt của
lý trí, hình tượng, ý tưởng thường xuất hiện tự do nên khơng thể thiếu vắng vai
trị của ý thức trong tổ chức, kết cấu làm cho tác phẩm hoàn thiện (…). Nó có vai
trị to lớn trong sáng tác thơ vì gần với tính chất hồn nhiên, gắn trực tiếp với thế
giới tinh thần của chủ thể”.
Cùng cách nhìn trên, khi sáng tác, thi sĩ Hoàng Cầm cũng cho rằng: “có ba
cái thức đều phải vận động, phải làm việc cho thơ. Đó là ý thức, tiềm thức và vơ
thức. Cũng đủ cả một cặp trí thức và tâm thức nữa. Ở tơi thì ln ln cái tâm
thức làm việc nhiều hơn trí thức”. Nhà thơ lý giải một cách ngắn gọn nhưng lại
rất cụ thể, thâu tóm tất cả các nội dung mà ta đề cập; thứ tự trước sau. Đặc biết từ
đó nhà thơ cịn chú ý thêm cho ta hai dạng thức nữa mang tính gần gũi với ba
dạng thức trên. Và ông cũng khẳng định mình sáng tạo nhiều hơn bằng tâm thức;
như chứng minh rằng ơng chủ trương chọn cho mình con đường tìm về với tâm
linh của tiềm thức và vô thức, nhưng không quên cả ý thức; ý thức tâm linh (“ý
thức tâm linh” đã được lý giải ở trên).


19


Thi sĩ Hồng Cầm cũng có lần tâm sự về thơ của mình. Thơ ơng ln mang
hịa màu hư - thực; mà cụ thể nói đến là về cảm hướng sáng tác, có lần Hồng
Cầm nói về hồn cảnh ra đời của bài “Lá Diêu bông”: “… Tôi xoay người trong
chăn về phái trái và ghi ngay. Giọng nữ vẫn đọc, không vội vàng mà cũng không
quá chậm, và tôi ghi lia lịa trong bóng tối mờ. Đến lúc giọng nữ im hẳn, lịng tơi
nhẹ bẫng hẳn, một lát sau tơi ngủ thiếp đi. Sớm hơm sau thì có chỗ rõ, đọc được,
nhiều chỗ dòng nọ đè dòng kia, chữ nọ như xóa mất chữ khác. Phải mất gần
tiếng đồng hồ, tôi mới tách ra được theo thứ tự đúng như người nữ nào đó đã
đọc cho tơi viết nửa đêm hôm qua. Bài Lá Diêu bông ra đời như vậy, nói có
người khơng tin, nhưng tơi nghĩ bây giờ khoa tâm thần học, vơ thức luận, tâm
linh học có thể lý giải hiện tượng đó một cách khoa học”.
“Váy Đình Bảng bng chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều,
Cuống rạ.
Chị bảo: Đứa nào tìm được Lá Diêu Bơng
Từ nay ta gọi là chồng.
Hai ngày em đi tìm thấy lá
Chị chau mày:
Đâu phải Lá Diêu Bông.
Mùa Đông sau em tìm thấy lá
Chị lắc đầu,
Trơng nắng vãn bên sơng.
Ngày cưới chị
Em tìm thấy lá
Chị cười xe chỉ cắm trơn kim.
Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xịe tay phủ mặt chị khơng nhìn.



20

Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể.
Gió quê vi vút gọi.
Diêu Bông hời...
ới Diêu Bông!”.
(Lá Diêu bông - Hồng Cầm)
Cịn tác giả Nguyễn Văn Ba cũng đưa thêm một thức mới trên sự kiến giải
tương đồng: “Từ vô thức, ý thức, tiềm thức đến cái siêu thức, đó chính là những
bước phát triển của ý thức tâm linh đỉnh cao của nó là cái siêu thức. Siêu thức ở
đây không phải là cái không nhận thức được mà đó là sự nhận thức thế giới một
cách hiện thực, sâu sắc nhất”. Tác giả cũng lý giải cái siêu thức ấy: “…siêu thức
như một hiện thực, một mạch ngầm ẩn của con người, chứa đựng một phẩm chất
cao siêu của nó, đến việc giải thốt cái tâm linh ra khỏi những rào chắn của tôn
giáo, triết học và các hệ tư tưởng huyền bí khác.
Có thể nói thêm về cặp phạm trù tâm thức và trí thức, thực chất là hệ quả
có được từ biểu hiện trên; là yếu tố cụ thể hóa sau biểu hiện. Thơng qua đó,
chúng ta có thể khám phá được cả tư duy sáng tạo và cảm quan thẩm mỹ của
người viết. Hay cái siêu thức cũng chính là cái giá trị cao cả của tinh thần mà ta
có thể cùng xếp nó vào những yếu tố tâm linh. Hơn thế nữa, từ những biểu hiện
trên của cái tôi tâm linh sẽ lại dẫn đến thêm một hệ quả tất yếu là đưa thơ vào sâu
hơn những vùng mờ, nhòe, lung linh, hư ảo. Cũng chính vì vậy mà thơ vừa xa mà
lại vừa gần nhưng càng hiện thực hơn, mang đậm đặc trưng biểu hiện, màu sắc
đặc trưng, tượng trưng siêu thực.
Xu hướng tìm về tâm linh là sự hình thành dựa trên những yếu tố cơ bản đã
nêu. Thêm vào nữa là thời điểm, hoàn cảnh để cái tâm thức được giãi bày. Từ
việc tổng hòa các “khâu” các “phần” và cả điều kiện thực tại thì vấn đề tâm linh

được tìm đến như một như cầu, một xu hướng tất yếu. Và nó phát triển là nhờ vào
quy luật vận hành ấy.


21

CHƯƠNG 3:
MỘT SỐ NHÀ THƠ TIÊU BIỂU CHO KHUYNH HƯỚNG
THƠ ĐI SÂU VÀO NHỮNG VÙNG MỜ TÂM LINH
ĐẬM CHẤT TƯỢNG TRƯNG SIÊU THỰC
3.1. Khuynh hướng tượng trương siêu thực trong thơ Thanh Thảo
3.1.1. Hành trình đến với thơ tượng trưng, siêu thực
Kế thừa và phát huy những tinh hoa của thơ Việt những giai đoạn trước,
đồng thời tiếp nhận quan điểm thẩm mỹ mới của chủ nghĩa hiện đại phương
Tây, thơ Thanh Thảo ngày càng vận động và nghiêng về khuynh hướng sáng tác
tượng trưng, siêu thực.
Sau năm 1975, hòa cùng xu hướng và hoàn cảnh mới của cả dân tộc,
Thanh Thảo có nhiều điều kiện để tập trung hơn cho cơng việc sáng tác của mình.
Đây là lý do giải thích tại sao ơng lại cho ra đời nhiều tác phẩm có tầm vóc xứng
đáng cả về mặt nghệ thuật và nội dung. Theo dõi tiến trình thơ Thanh Thảo
từ Dấu chân qua trảng cỏ đến Thanh Thảo 70 ta dễ dàng nhận thấy các tác phẩm
có nhiều cách tân hiện đại, đưa thơ ông bắt kịp với quá trình vận động tương đối
nhanh chóng của văn học Việt Nam. Bằng sự nỗ lực sáng tạo trong tiến trình cách
tân thơ, Thanh Thảo trở thành một nhà thơ có vị trí đặc biệt trong văn học sau
1975 với nhiều cống hiến đáng trân trọng.
Với Dấu chân qua trảng cỏ, Thanh Thảo đưa ngịi bút của mình đến với
“xu hướng viết về chiến tranh qua những khúc ca bi tráng về số phận của dân
tộc”. Tập thơ tái hiện lại một cách tương đối toàn diện cả một thời mà máu, lửa
đạn cùng nước mắt đã hoà lẫn với nhau thành màu “cờ đỏ” oanh liệt. Khi bước ra
khỏi cuộc chiến bi hùng ấy, con người trở lại đời sống hằng ngày với nhiều đỗ

vỡ, mất mát và khiếm khuyết về mọi mặt… Dẫu vậy, khơng khí chung của tập
thơ vẫn ngời lên một niềm tin yêu và hi vọng vào một tương lai tươi sáng hơn, tốt
đẹp hơn đang chờ chúng ta ở phía trước.


22

Bước sang Khối vuông rubic, Tàu sắp vào ga, Bạch Đàn gửi Bạch
Dương… Thanh Thảo có nhiều thể nghiệm mới về mặt nghệ thuật. Bằng những
bài thơ văn xuôi và các bài thơ mang âm hưởng trường ca trong Khối vuông
rubic thể hiện một ý thức cách tân về thể loại rõ rệt. Người nghệ sĩ tâm huyết với
nghề, với đời và luôn tự ý thức cao độ về vai trị của cá nhân mình ấy khơng chấp
nhận những cái đã cũ mòn mà phải đổi mới, nhất thiết phải đổi mới. Chỉ có một
người như thế mới có thể khai sinh ra kiểu thơ đa diện, kiểu thơ rubic.
Nhà thơ đặc biệt hướng ngịi bút của mình về phía cuộc sống hiện đại để
phát hiện và thể hiện trong thơ những ngổn ngang những điều mắt khơng muốn
nhìn, tai không muốn nghe và “bụi bặm” ngập đầy trong cuộc sống với xu hướng
trở về cái tôi cá nhân, những âu lo của đời sống thường nhật. Cũng chính trong
những cái ồn ào, bụi bặm ấy thơ ơng có một khả năng đặc biêt, khả năng “chống
lại ngày quên lãng”. Quá khứ không mất đi, không bị lãng quên mà chìm dần, mờ
đi, lan tỏa trong hiện tại với những ranh giới mờ ảo giữa thực và hư, giữa hiện tại
và quá khứ, giữa tâm thức và tiềm thức.
Đến Thanh Thảo 70 và 123 ngịi bút của ơng đã chuyển hẳn sang xu hướng
đi sâu vào những vùng mờ tâm linh đậm chất tượng trưng, siêu thực. Thơ khơng
cịn là những cái rõ ràng như một với một là hai, thơ là sự giao hòa giữa cõi thực
và cõi hư, giữa thế giới siêu hình và hữu hình… Thơ là thế giới của những biểu
tượng, tưởng tượng, giấc mơ, ảo giác, mộng mị… Hai tập thơ tràn ngập những
hình ảnh lạ hóa và siêu thực đến mức khó có thể chấp nhận được ngay. Các hình
ảnh khơng hề có liên quan gì đến nhau, thậm chí là có thể triệt tiêu lẫn nhau lại
được sắp đặt ngay cạnh nhau tạo ra một khoảng trống mênh mông cho những liên

hệ vô thường. Thế giới thơ chìm trong vơ thức theo lối viết “tự động tâm linh”
đẩy cảm xúc vượt ra khỏi tầm kiểm sốt của lý trí. Thơ khơng cịn là nội dung,
ngữ nghĩa, thơ là nhạc điệu, là biểu tượng và sự tương hợp giữa các giác quan.
Hành trình đến với yếu tố tượng trưng, siêu thực của Thanh Thảo là một
quá trình biến đổi tinh vi và lâu dài. Các bài thơ: Thử nói về hạnh phúc, Một
người lính nói về thế hệ mình và Đàn ghi- ta của Lorca cho thấy rõ điều này.


23

Bước vào thế giới thơ Thanh Thảo, người đọc hoàn tồn chống ngợp trước một
lối kiến tạo ngơn ngữ mới lạ và huyền bí. Năng lực thơ của Thanh Thảo trước hết
thể hiện ở chỗ thi nhân đã khai thác triệt để chất liệu ngơn ngữ, tạo cho nó có đời
sống riêng với vai trò chắp cánh cho nghệ thuật. Bằng lối tư duy vệ tinh hiện đại,
Thanh Thảo tạo cho thơ một màu sắc tượng trưng độc đáo đầy chất siêu thực,
nâng cánh cho thơ và người thơ bay thẳng đến với địa hạt của âm thanh, hình ảnh
siêu tượng trưng hòa trong những siêu trường cảm xúc. Thi nhân có ý thức cách
tân một cách tuyệt đối về mặt ngôn ngữ tạo ra hàng loạt từ ngữ và câu thơ mới lạ
có sức gợi cảm mạnh mẽ và luôn trong tư thế tạo nghĩa, phái sinh cảm xúc…
Thanh Thảo khơng sử dụng lại mơ hình cấu trúc câu thơ truyền thống mà kiến tạo
những câu thơ “phóng túng hình hài” với năng lực biểu thị thế giới tâm linh thầm
kín của con người một cách tinh tế. Với năng lực này thơ Thanh Thảo có khả
năng phá vỡ hoàn toàn mọi biên giới để đến với sự tương hợp của mọi giác quan.
3.1.2. Sự đổi mới tư duy thơ
Thanh Thảo là người ý thức sâu sắc về sự đổi mới trong thơ nên thơ ông là
sự đổi mới trên mọi phương diện nhưng trước hết, quan trọng nhất và ấn tượng
nhất là sự đổi mới về mặt tư duy thơ.
Thanh Thảo quan niệm: “Thơ là cái lặng lẽ của con hổ. Ngay con hổ cũng
có lúc giật mình vì một tiếng lá rụng. Thơ đi giữa can trường và hoảng hốt, đi
giữa cái liều và nỗi sợ… Thơ là con dao găm “tôi ném vào khoảng trống” (Văn

Cao) nhưng người bị thương lại chính là tơi”, “Thơ là chữ nghĩa cũng không phải
chữ nghĩa, là ý thức mà không phải ý thức, là vô thức mà không hẳn vô thức. Thơ
đúng nghĩa là sự bộc lộ tận cùng của nhà thơ”.
Từ quan niệm thơ phản ánh hiện thực đến lối tư duy thơ hiện đại và mới
mẻ đầy những khoảng trống, khoảng mờ, khoảng lặng và những đoạn bỏ ngõ
lửng lơ thể hiện quá trình đổi mới này. Hiện thực trong thơ là hiện thực của đời
sống xã hội và hiện thực của tâm hồn con người. Thơ Thanh Thảo phản ánh cuộc
sống như những gì nó vốn có.
“Căn hầm của tơi ngày khơng nắng mặt trời


24

đêm không ánh sao
những mùa trăng lướt qua – xa cách
tôi thắp đèn – bốn bên là đất
mỗi lúc bom rung
đất rơi đầy mặt
đất rơi đầy giấc mơ
những giấc mơ chập chờn
bao giờ cũng có khoảng trời xanh vịi vọi
lung linh gương mặt của người thương”
(Thử nói về hạnh phúc).
Trong thơ đầy rẫy những hiện thực của cuộc sống thời chiến mà suốt một
thời gian dài người ta tìm mọi cách để né tránh, khơng ai dám nói ra trừ Thanh
Thảo. Tâm hồn nhà thơ mở ra mọi hướng để cảm nhận cuộc sống từ nhiều chiều,
nhiều phương diện và nhiều trạng thái tâm lý khác nhau… Kiểu tư duy mới mẻ
này cho ta bắt gặp trong thơ những ảo giác, những vùng khuất, vùng mờ tâm linh,
những mảnh vỡ ký ức hịa quện với thực tại mơng lung, tâm thức và tiềm thức
đan xen tạo nên trường cảm xúc siêu đoạn tính, hình ảnh siêu tượng trưng.

Sự đổi mới tư duy thơ Thanh Thảo là hành trình từ cái tôi hướng ngoại
đến cái tôi hướng nội phức cảm để khám phá tận cùng những trạng thái tâm lý,
cảm xúc khác nhau của con người và sự đa chiều, biến ảo của cuộc sống. Đó là
kiểu tư duy tương hợp, đầy những liên tưởng hết sức bất ngờ và thú vị.
3.2. Hoàng Hưng
Hoàng Hưng tên thật là Hoàng Thụy Hưng sinh ngày 24/11/1942 tại thị xã
Hưng Yên. Từ năm 1960-1961 ông tình nguyện lên Tây Bắc phục vụ quân đội.
Tốt nghiệp Khoa văn, Đại học Sư phạm Hà Nội 1965 rồi về dạy văn cấp III tại
Hải Phòng từ 1965-1973, sau đó ơng tình nguyện vào Nam làm văn nghệ, nhưng
ngành giáo dục giữ lại vì là giáo viên giỏi lớp cuối cấp. Nhưng vì đam mê sang
tác nên ơng chuyển sang làm phóng viên, biên tập viên báo Người Giáo viên
Nhân dân (nay là báo Giáo dục và Thời đại của Bộ Giáo dục và Đào tạo) từ năm


25

1973-1982. Ông bị bắt giam và tập trung cải tạo từ 17/8/1982- 29/10/1985 vì
tội lưu truyền bản thảo viết tay tập thơ Về Kinh Bắc của nhà thơ Hoàng Cầm.
Về sáng tác ông đã xuất bản các tập thơ Đất nắng (in chung với Trang
Nghị, 1970), Ngựa biển (1988), Người đi tìm mặt (1994),Hành trình (2005) và
nhiều bài viết, bài nói chuyện, tiểu luận, nghiên cứu, trên báo, tạp chí, đài phát
thanh trong và ngoài nước. Một số bài thơ đã được dịch và in tại Pháp, Mỹ,
Canada, Đức, Hungary, Hà Lan...
Ngồi ra Hồng Hưng cịn tham gia dịch và làm chủ biên một số tập sách:
100 bài thơ tình thế giới (1988), Thơ Federico Garcia Lorca (1988), Thơ
Apollinaire (1997), Các nhà thơ Pháp cuối thế kỷ XX (2002), 15 nhà thơ Mỹ thế
kỷ XX (cùng dịch, tổ chức bản thảo, 2004), Mowgli – Người sói (1988, 1989,
1999), Người đàn bà lạ lùng (1990)…
Khi nói về thơ Hồng Hưng, nhiều người thường sử dụng ngay những biểu
tượng trong thơ ông để khái qt hóa cảm nhận của mình, chẳng hạn: “Hồng

Hưng đi tìm mặt” (Hồng Cầm); “Người chỉ đếm đến một” (Thanh Thảo);
“Người đi tìm mặt, người đi tìm… thơ”(Nguyễn Thị Minh Thái); “Hành trình
Hồng Hưng (Vân Long), “Hành trình” đến giấc mơ “tràn ánh sáng” (Nhật
Lệ),... Điều đó khơng phải ngẫu nhiên. Quả thực, nhà thơ này đã tạo nên trong
các sáng tác của mình một hệ biểu tượng khá đặc biệt, vừa giàu cảm giác trực
tiếp vừa giàu khả năng khêu gợi liên tưởng, tưởng tượng.
Tính siêu thực, tượng trương được Hoàng Hưng thể hiện ngay từ tập thơ
đầu tay – Đất nắng (1970, in chung với Trang Nghị) vẫn nghiêng về một lối diễn
tả trực tiếp, mộc mạc, như phần lớn thơ cùng thời, thì từ Ngựa biển (1988), cách
“nói” bằng những hình ảnh giàu tính biểu trưng trở nên nổi bật. Hồng Hưng đã
mã hóa bằng ngôn từ, ngay trong tên của các tập như Ngựa biển, Người đi tìm
mặt, Hành trình. Bản thân mỗi tiêu đề ấy cũng chính là một biểu tượng, chúng
“tiết lộ mà che giấu, che giấu mà tiết lộ” một ý nghĩa nào đó rộng lớn hơn chính
bản thân chúng. Điển hình là cụm từ “Ngựa biển”. Từ góc nhìn của văn hóa học,
Ngựa là tượng trưng cho sức mạnh của núi thẳm, non cao hoang vu, thuần phác


×