Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tải Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận - 6 bài văn mẫu cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.59 KB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang của</b>
<b>Huy Cận - Ngữ văn 11</b>


<b>Dàn ý chi tiết</b>
I. Mở bài


- Dẫn dắt giới thiệu đoạn thơ:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.


+ Xuất hiện vào giai đoạn toàn thịnh của thơ Mới, Huy Cận (1919 – 2005), quê
ở Hương Sơn – Hà Tĩnh, là một trong những thi sĩ có cơng đưa phong trào này
lên tới đỉnh cao. Ở độ chín nhất, phong cách thơ Huy Cận có sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa yếu tố cổ điển nhất là cổ điển Đường thi với yếu tố thơ Mới, cụ
thể hơn là sự hòa hợp giữa nỗi sầu vũ trụ và thế nhân từng chan chứa trong thơ
Đường với nỗi cô đơn của cái “tôi” cá nhân, cá thể trong thơ Mới tạo nên nỗi
sầu vạn kỉ.


- Bài thơ Tràng giang sáng tác năm 1939, in trong tập Lửa thiêng là bài thơ tiêu
biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám được xếp vào
hàng kiệt tác.


II. Thân bài


1. Bức tranh thiên nhiên về trời rộng sông dài trong Tràng giang
* Khổ 1: Bức tranh sông nước buồn vắng


- Câu thơ mở đầu đã mở ra một khơng gian sóng nước mênh mơng:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp


- Trên bức tranh sơng nước ấy hiện lên một hình ảnh quen thuộc:
Con thuyền xuôi mái nước song song



Sự xuất hiện của con thuyền trong thơ văn xưa nay thường chỉ sự lênh đênh trơi
dạt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

mái”, nghĩa là cịn có thêm tính chất thụ động, phó mặc cho dịng nước đẩy
đưa…


- Đến câu thơ thứ ba, nhà thơ tiếp tục những nét vẽ về thuyền và nước nhưng
lại đặt trong sự chia lìa: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”


- Giữa dòng tràng giang cổ điển mang phong vị Đường thi, nhà thơ đã thả
xuống một hình ảnh “sống sít” của hiện thực (chữ dùng của Xuân Diệu) ở câu
cuối cùng:


Củi một cành khổ lạc mấy dịng. Hình ảnh cành củi khô nhỏ bé được tác giả đặt
vào một thế tương phản mạnh mẽ, lạc giữa mấy dịng.


Hình ảnh cành củi khô nhỏ bé được tác giả đặt vào một thế tương phản mạnh
mẽ, lạc giữa mấy dòng nước mênh mang vô tận đã càng nhấn mạnh sự vô định,
lạc lõng, bơ vơ hết sức tội nghiệp.


* Khổ 2: Bức tranh cồn bãi hoang vắng


- Trên nền không gian dịng sơng dài rộng khơng cùng và cổ kính lâu đời, nổi
bật lên hìn ảnh của cồn bãi:


Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu


+ Từ láy “lơ thơ” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh sự thưa thớt, khiến cồn cát
vốn đã nhỏ càng trở nên trống trải giữa mênh mang sơng nước.



+ Từ láy “đìu hiu” gợi ra hình ảnh của ngọn gió lạnh vắng, hiu hắt.


- Nhà thơ không chỉ cảm nhận Tràng giang bằng thi giác mà cịn cảm nhận
bằng thính giác:


Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều


+ Âm thanh của tiếng chợ chiều dù là dấu hiệu của sự sống con người nhưng
lại vào lúc đã vãn, gợi ra sự tàn tạ, chứa chất nỗi buồn.


+ Âm thanh ấy lại vẳng đến từ một không gian rất xa, càng trở nên nhỏ nhoi và
buồn vắng, gọi cảm giác đây là chốn bị bỏ quên trên trái đất này.


- Đến hai câu thơ cuối, cái nhìn của Huy Cận cịn bao qt một phạm vi khơng
gian từ cao đến thấp, từ gần đến xa:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Sông dài trời rộng bến cô liêu”


- Hai cặp tiểu đối “nắng xuống – trời lên”, “sông dài – trời rộng” đã tạo nên
một bức tranh không gian ba chiều rất đặc sắc.


- Xuất thần nhất là cụm từ “sâu chót vót”.


- Giữa khơng gian vũ trụ mênh mang khơng cùng, nổi bật lên hình ảnh “bến cơ
liêu” nhỏ bé, lạc lõng đến tội nghiệp.


2. Bức tranh tâm trạng trong Tràng giang


(Bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng trong Tràng giang được lồng vào


nhau, hòa quyện với nhau. Vì vậy khi nêu cảm nhận bức tranh thiên nhiên
khơng thể bỏ qua bức tranh tâm trạng của tác giả, tuy nhiên các em học sinh
nên điều chỉnh dung lượng của phần cảm nhận này vừa phải cho phù hợp với
đề bài.)


* Khổ 1:


- Ngay từ câu thơ mở đầu, dịng tràng giang hiện lên vừa là một hình ảnh ngoại
giới vừa là một hình ảnh tâm giới, mang nặng nỗi niềm của thi nhân “buồn điệp
điệp”.


“Buồn điệp điệp” là nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng trùng trùng lớp lớp, triền miên,
dai dẳng Nỗi buồn ấy đang trải ra cùng với không gian sông nước mênh
mang…


- Sự xuất hiện của con thuyền phần nào gợi lên nét tâm lí chán trường của tác
giả, của tầng lớp thnah niên tiểu tư sản trong hồn cảnh đất nước…


- Hình ảnh thuyền nước chia lìa làm cho nỗi buồn trong lịng người tiếp tục lan
tỏa rộng thêm và lặn xuống ở chiều sâu “sầu trăm ngả”.


- Hình ảnh cành củi khơ phải chăng là một ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé,
bơ vơ giữa sự mênh mơng của dịng đời.


* Khổ 2:


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

- 2 câu cuối lại nổi bật hình ảnh của “bến cơ liêu” bé nhỏ và lạc long giữa sông
dài, trời rộng đang mở ra không cùng, đó phải chăng chính là bóng dáng, là nỗi
niềm của chính Huy Cận.



3. Tổng hợp đánh giá
a) Giá trị nội dung:


- Bài thơ đã khắc họa bức tranh mênh mông vô biên và quạnh hiu hoang vắng.
Từ thiên nhiên ấy đã làm nổi bật hình ảnh cái tơi là một lữ thứ bơ vơ, cô đơn
với nỗi buồn vô tận trước trời nước – biểu hiện của nỗi lòng u nước thầm kín
thiết tha trong hồn cảnh đất nước mất chủ quyền.


b) Đặc sắc nghệ thuật:


Sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển và hiện đại.
III. Kết luận


- Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.


- Khẳng định lại vị trí tác giả - là một trong những đỉnh cao thơ Mới.
<b>Bài làm</b>


Chẳng biết tự bao giờ, thiên nhiên trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thi
ca. Thời đại nào cũng vậy, thiên nhiên ln gợi nên nhiều cảm xúc trong lịng
thi nhân. Thơ mới những năm 1930 đã coi thiên nhiên là một đề tài không thể
thiếu. Những Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính,… đã mang tới những
bức tranh thiên nhiên đẹp trong thơ. Và không thể không nhắc tới Huy Cận –
một gương mặt xuất sắc, tiêu biểu của phong trào thơ mới. Tuy thơ ông luôn
chất chứa sâu nặng nỗi buồn nhân thế nhưng vẫn khiến người đọc nao lòng
trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Điều đó được thể hiện rõ nét qua bài thơ Tràng
giang – một sáng tác in trong tập Lửa thiêng (1940).


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

được hiện lên qua không gian của trời nước bao la, mênh mang đến rợn ngợp
cõi lòng thi nhân.



Trước hết, Tràng giang mở ra một bức tranh thiên nhiên đẹp, bàng bạc một nét
đẹp cổ xưa. Vẫn là đề tài quen thuộc, những thi liệu và bút pháp nghệ thuật vốn
có trong thơ cổ, Huy Cận đã vẽ nên trên nền trời mây, sông nước mênh mông
vô cùng, vô tận những sự vật nhỏ bé, đặc trưng. Có lẽ điều khiến người đọc ấn
tượng trong bài thơ là những hình ảnh như sóng gợn, thuyền trơi, gió đìu hiu,
bến cơ liêu, bèo dạt, mây cao, núi bạc, chim nghiêng… gợi nên cái hồn thiên
nhiên của thơ ca cả nghìn năm trước. Quả thực, nếu cứ nhìn người ta vẫn ngỡ
đó là không gian của cảnh đẹp tiêu sơ, vắng lặng vốn thấy trong thơ Đường.
Mà có lẽ nét cổ xưa nhất trong bài thơ phải kể đến hình ảnh chim nghiêng cánh
nhỏ ở khổ cuối cùng. Nó gợi lên cảnh sắc rất thơ. Cánh chim chở trời chiều,
chở linh hồn của vũ trụ reo rắc xuống trần gian.


Nhưng tác giả của Lửa thiêng lại kiếm tìm những sự vật mới, khiến bức tranh
thiên nhiên mang hơi thở hiện đại. Có lẽ chưa bao giờ người ta bắt gặp trong
thơ trước đó những thứ đời thường, bình dị, mộc mạc, chẳng hề ước lệ tượng
trưng như Củi một cành khô lạc mấy dòng. Sắc thái của khung cảnh thiên nhiên
bỗng trở nên đặc biệt hơn bao giờ hết, khi thi nhân bỗng nhìn thấy một sự vật
đã khơ kiệt, mất hết sức sống, đang trơi nổi, lênh đênh trên dịng nước. Chưa
bàn đến ý nghĩa tâm tư mà nhà thơ gửi gắm, chỉ thấy chi tiết này đã phác họa
thêm cho bức tranh trang giang cái nét đẹp rất riêng. Thiên nhiên đẹp chưa
chắc đã là những gì mơn mởn sức sống, chính cái khơ kiệt của cành củi trên
dịng sơng càng làm cho cảnh vật có nét đẹp cuốn hút của nó. Thậm chí ngay cả
cái cách nhìn hàng bèo của tác giả cũng gợi lên cảm giác về một khung cảnh
thiên nhiên không phải bằng những nét vẽ cầu kì.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

tranh tràng giang mang một nét đẹp đặc trưng, riêng có mà khơng bài thơ nào
có được.


<i>Nắng xuống trời lên sâu chót vót</i>



<i>Sơng dài trời rộng bến cô liêu</i>


Chỉ riêng câu thơ này đã tạo nên những chiều kích hết tầm của khơng gian ở cả
ba chiều. Khung cảnh thiên nhiên được đo bởi khoảng cách ngược chiều trong
độ sâu của nắng, độ cao rộng của trời và độ dài của sông. Thực ra chỉ cần
những thứ nhỏ bé mà nhà thơ nhìn thấy trong khung cảnh ấy cũng đủ để nói lên
sự rộng lớn của khung cảnh giống như thơ xưa. Nhưng dường sự cảm thức bị
ám ảnh bởi không gian trong hồn thơ Huy Cận đã khiến ông phác họa nên
những nét vẽ rộng hơn, mênh mơng hơn. Chính vì thế trong con mắt của thi
nhân đâu đâu cũng là thiên nhiên: lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng hay:


<i>Lớp lớp mây cao đùn núi bạc</i>


<i>Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.</i>


Thiên nhiên bỗng mang những nét hùng vĩ, tráng lệ mà chẳng cần đến những
núi non trùng điệp, chỉ cần mọi thứ được khuếch đại hết tầm theo mọi chiều
của không gian như trong bài thơ này. Nét thơ mộng trong khung cảnh vì thế
cũng dần dần được mở ra.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

những từ láy ngun đã làm cho cái khơng khí vắng vẻ, quạnh hiu trên dịng
sơng hiển hiện được. Các từ như điệp điệp, song song, lơ thơ, đìu hiu, lặng lẽ,
lớp lớp, dợn dợn… cứ nối tiếp nhau từ đầu đến cuối bài thơ đã duy trì cái cảm
giác cơ quạnh như thế trong khung cảnh thiên nhiên.


Bởi vậy mới nói, thiên nhiên trong Tràng giang hay thiên nhiên trong thơ mới,
dẫu đẹp đến đâu nhưng vẫn đượm buồn. Cái nét yên ắng, tách rời nhau trong
những sự vật trên của thiên nhiên thực chất được gợi dậy từ hồn buồn trong
lòng thi nhân. Huy Cận chở nỗi sầu quá lớn, thậm chí là nỗi sầu của cả một thế


hệ nên không gian trong thơ ông cứ nới rộng ra mà lịng người vẫn u uất.
Khơng gian thiên nhiên càng lớn thì con người càng nhỏ bé, cơ đơn và lạc lõng.
Nhưng đằng sau những xúc cảm ấy người ta vẫn nhìn thấy những lắng đọng về
tâm sự thầm kín của thi nhân. Nhà thơ hẳn phải yêu và gắn bó với mảnh đất
q hương lắm, mới nhìn đâu cũng thấy ám ảnh bởi nỗi buồn. Đứng trên đất
quê mình, cảnh đẹp quê mình mà sao đâu đâu cũng thấy vắng lặng, tàn lụi. Nỗi
nhớ nhà ở cuối bài thơ vì thế mới trỗi dậy để xóa nhịa cái cảm giác thiếu thốn
ngay khi cịn ở trên q hương.


Nếu nói đến cái đẹp về thiên nhiên trong bài thơ này thì quả thực Tràng giang
đã làm được điều ấy. Huy Cận miêu tả khung cảnh trên một dịng sơng với
những gì vốn có, thậm chí cả những thứ q nhỏ bé, tầm thường. Nhưng dưới
con mắt đa sầu, đa cảm của thi nhân, ơng đã biến hóa nó thành những hình ảnh
đầy chất nghệ thuật. Cái đẹp khơng phải cứ phải hiện lên qua những cảnh sắc
lung linh, mà đôi khi chỉ cần nó cũng đồng điệu với lịng người thì sự vật có
tầm thường thì cũng trở nên đẹp đẽ.


<b>Bài làm 2</b>


Tràng giang là bài thơ hay nói về thiên nhiên của dịng sơng Trường Giang,
dưới con mắt của thi sĩ nó trở nên vơ cùng thơ mộng và đầy tinh tế. Dưới cái
nhìn đầy gợi cảm và phong phú, bài thơ đã có sự kết hợp mạnh mẽ giữa những
yếu tố kì ảo và thơ mộng trữ tình, để có thể có được một bức tranh thiên nhiên
đẹp hùng vĩ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

con người như đang trôi chảy theo nhịp sống, cũng tấp nập và cũng vô cùng dịu
dàng, trước một khung cảnh thiên nhiên, tươi tắn và cũng vơ cùng thơ mộng:


Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song



Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khơ lạc mấy dịng.


Hình ảnh của con sóng đang gợn, đó là dịng tâm trạng của con người cũng
đang chảy trơi, lăn tăn trên dịng nước, ở đó con người như đang hòa nhập và
tạo nên nhiều khung cảnh trữ tình, dịng nước trơi miên man, con người cũng
đang hịa nhập trên dịng sơng, với những cảm xúc buồn man mác, con người ở
đây cũng phải hịa mình vào dịng cảm xúc đang chảy của thiên nhiên trữ tình.
Hình ảnh con thuyền tự trơi theo dịng nước, cứ xi mái, ở đây dường như
khơng có người lái đị, nó tự trôi chảy, ở đây thiên nhiên cũng giống như tâm
trạng của con người, cũng đang lững lờ trôi mà không có một bờ vơ định nào,
cuộc sống cũng đang chảy trơi theo những dịng cảm xúc hỗn dung nhiều cảm
giác của con người.


Ở đây trong khơng gian mênh mơng rộng lớn đó, dường như sóng, và dòng
nước đang làm bạn với con thuyền, nhưng khi thuyền mà về thì dịng nước
cũng mang những nỗi buồn man mác, cách xây dựng biện pháp nhân hóa ở đây
được thể hiện một cách có ý nghĩa nhất. Tác giả thổi hồn mình vào sự vật, làm
cho nó trở nên có hồn hơn, con người cũng đang chảy trơi theo dòng nước, nỗi
buồn của nước giống như nỗi buồn của con thuyền, ở đó con người đang phải
lênh đênh, vô định, trước một khoảng không gian mênh mông. Con thuyền ở
đây nó được thể hiện trong cảm xúc của con người, nó vơ định, dạt dào và
mang nhiều cảm giác mới mẻ, ở đó con người được sống những giây phút hạnh
phúc nhất khi đang hịa mình vào thiên nhiên mặc dù con người đang phải trải
qua những giây phút trống vắng trong tâm hồn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

mức độ thể hiện ở đó, cách thể hiện đầy tinh tế, nó làm gia tăng thêm cảm xúc
và giá trị trong tác phẩm, mỗi lời thơ đều được cảm nhận bằng những tính chất
và mức độ khác nhau, chính vì vậy cuộc sống của con người cũng đang rơi vào


những bờ lạc lõng, tâm trạng của thi sĩ cũng mang nhiều cảm xúc bởi nó có hồn
và chứa chan nhiều giá trị sống:


“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, chiều lên sâu chót vót


Sơng dài, trời rộng, bến cô liêu”


Hình ảnh dài và rộng của dịng sơng cũng được thể hiện một cách sâu sắc và
có nhiều ý nghĩa nhất, dịng sơng mênh mang chứa chan bao nhiêu cảm xúc của
thi sĩ, trước con mắt của tác giả dòng sơng đang trơi dạt theo nhiều cảm xúc và
nó cũng trở nên trữ tình:


“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang


Khơng cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”


Hình ảnh của bèo dạt thể hiện được sự trơi nổi, khơng có bờ đến, và rồi sự
mênh mơng đó cũng thể hiện cảm xúc của con người đang hịa mình vào dịng
tâm trạng và cảm xúc của con người, bờ xanh thể hiện một cảnh vật thiên nhiên
tươi tắn, nó cũng thể hiện một dịng tâm trạng xa xôi và hiu hắt của con người:


“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa


Lịng q dợn dợn vời con nước
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà”



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang như vẽ ra trước mắt người
đọc một khung cảnh thiên nhiên, và dịng sơng rộng mênh mang, trong đó tâm
hồn con người cũng đang dạt dào trước nỗi nhớ quê hương.


<b>Bài làm 3</b>


Thiên nhiên là đề tài muôn thuở gợi cảm hứng sáng tác thơ ca cho các thi nhân,
cũng giống như bao nhà thơ trung đại hay các nhà thơ mới khác Huy Cận cũng
tả cảnh thiên nhiên nhưng đó khơng phải là thiên nhiên giàu sức sống, mơn
mởn như trong “Vội vàng” của Xuân Diệu mà trong bài thơ “Tràng giang” đó
là khung cảnh bao la, rộng lớn của sơng nước mây trời. Bức tranh đó tuy đẹp
mà buồn quạnh vắng, cô liêu. Bức tranh vừa mang nét đẹp cổ điển và hiện đại
ẩn đằng sau đó là nỗi buồn sâu thẳm và tình yêu quê hương đất nước thầm kín
của thi sĩ Huy Cận.


Ngay trong nhan đề “Tràng giang” đã gợi ra cảnh sông nước mênh mông, khi
nhà thơ đứng trên bến Chèm sông Hồng quan sát cảnh vật xung quanh mà sáng
tác, dù đó là một con sơng cụ thể có tên gọi nhưng thi sĩ dùng cách nói khác để
gợi ra hình ảnh dịng sơng trải dài đến vô tận. Lời đề từ thể hiện cảm xúc chủ
đạo của tác phẩm là nỗi buồn, nỗi nhớ xuyên suốt tồn bài của thi sĩ cơ đơn
trước cảnh “trời rộng nhớ sông dài”.


Trước tiên ta thấy thiên nhiên ở đây mang dáng dấp cổ kính trong thơ Đường.
Thi sĩ cũng tả cảnh sơng nước, mây trời có sử dụng các hình ảnh thuyền, bèo,
cánh chim…đó đều là các thi liệu trong thơ ca cổ được các nhà thơ trung đại
dùng để miêu tả cảnh chiều tà với nỗi buồn nỗi nhớ quê hương của những
người khách lứ thứ xa quê.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

nhiên trong cái nhìn của thi nhân thật khác biệt vừa có nét cổ kính trang nhã


trong thơ xưa, vừa hiện đại mang đậm phong vị dân tộc.


Không gian trong bức tranh thiên nhiên là sự mênh mông, bao la đến rợn ngợp
của “Nắng xuống trời lên sâu chót vót/ Sơng dài trời rộng bến cơ liêu”. Nắng
với trời sẽ chẳng thể tách rời ấy vậy mà “Nắng xuống, trời lên” tạo nên một
khoảng cách sâu chót vót. Người ta nói cao chót vót cịn với thi nhân nó lại là
sâu bởi nắng càng xuống khuất bóng nhường hồng hơn thì trời càng cao tạo
nên độ sâu thăm thẳm. Dường như nhà thơ đang đứng từ dưới nhìn lên nên mới
có thể cảm nhận được điều đó. Trải rộng ra là “Mênh mơng khơng một chuyến
đị ngang/ Không cầu gợi chút niềm thân mật”. Thi nhân muốn có gì đó để bấu
víu lấy cảm xúc cho đỡ trơ trọi nhưng đổi lại chỉ là một chữ không được điệp
lại hai lần ở câu trên và câu dưới chỉ còn biết lặng lẽ với bờ xanh tiếp bãi vàng.
Mọi thứ trở nên tĩnh lặng vô cùng, dường như sự sống ở đây chỉ có một mình
nhà thơ với cảnh vật đẹp mà cô liêu, ảm đạm.


Giữa không gian mênh mông, vời vợi ấy các sự vật hiện lên với sự nhỏ bé, cơ
đơn, lạc lõng. Đó là hình ảnh “Củi một cành khơ lạc mấy dịng”. Thiên nhiên
khơng có sức sống nó chỉ là một cành củi khơ từ rừng sâu xa thẳm lạc giữa
chốn sông nước. Cách sử dụng nghệ thuật đảo ngữ thật độc đáo nhấn mạnh đặc
điểm đối tượng. Câu thơ khiến cho ta nhớ tới hình ảnh chiếc bách trong thơ Hồ
Xuân Hương “Chiếc bách buồn vì thân phận nổi nênh/ Giữa dịng ngao ngán
nỗi lênh đênh” gợi đến tâm trạng cô đơn trước thiên nhiên và cuộc đời của tác
giả. Đó là cánh chim nghiêng trong bóng chiều xa giữa khung nền “Lớp lớp
mây cao đùn núi bạc”. Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều cùng sà xuống
mặt nước tràng giang hay bóng chiều đè nặng lên cánh chim khiến nó phải
chao nghiêng đơi cánh. Cánh chim nhỏ dưới bóng chiều bng xuống mang
nặng tư tưởng tác giả, ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé bị bão táp cuộc đời
xô đẩy, ngả nghiêng ẩn dụ cho cái tôi cá nhân phiền não của thi nhân trải nỗi
buồn ra khắp không gian.



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

dường như có sự tan tác, li biệt. Chi tiết “xi mái” cho thấy sự phó mặc,
bng xi. Thuyền và nước thường phải có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
nhau nhưng ở đây ta thấy nó như rời rạc, tách nhau ra bởi “thuyền xi” cịn
“mái nước song song”, thuyền và nước lại ngược hướng với nhau “thuyền về
nước lại” tạo ra sự ngăn cách. Nỗi sầu của nước tan chảy ra trăm ngả trên sông.
Nỗi sầu ấy cũng là nỗi sầu nhân thế của thi nhân mang tâm trạng chán nản,
buồn tủi. Hình ảnh con thuyền bơ vơ, cô độc là một thi liệu quen thuộc đã từng
xuất hiện trong thơ xưa như: “Cô phàm viễn ảnh bích khơng tận/ Duy kiến
trường giang thiên tế lưu” (Bóng buồm đã khuất bầu khơng/ Trơng theo chỉ
thấy dịng sông bên trời).


Ẩn đằng sau bức tranh thiên nhiên đẹp mà buồn ấy là tâm trạng của thi nhân
“Lòng quê dợn dợn vời con nước/ Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà” được
gợi từ hai câu thơ trong bài “Lầu Hồng Hạc” của Thơi Hiệu: “Nhật mộ hương
quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu” (Quê hương khuất bóng
hồng hơn/ Trên sơng khói sóng cho buồn lịng ai” nếu tiền nhân đời Đường
bên Trung Hoa nhìn khói sóng trên sơng mà nhớ q hương thì Huy Cận thật
sáng tạo khi “Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà”. Đó ccofn là nỗi buồn của
tầng lớp trí thức lúc bấy giờ khi đứng trước hoàn cảnh nước mất nhà tan của
dân tộc cho thấy tình yêu quê hương đất nước thầm kín được thể hiện trong thơ
Huy Cận.


Với những nét đặc sắc nghệ thuật vừa cổ điển vừa hiện đại trong lối thơ bảy
chữ niêm luật chặt chẽ như thơ Đường, dồi dào nhạc điệu đã khiến cho bức
tranh thiên nhiên trong bài thơ “Tràng giang” hiện lên thật đẹp mà buồn ảm
đạm mang nặng tư tưởng của tác giả.


<b>Bài làm 4</b>


Bài thơ Tràng giang in trong tập Lửa thiêng là bài thơ hay nhất của Huy Cận và


cũng là trường hợp tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ ông trước Cách
mạng. Bức tranh thiên nhiên trong Tràng giang đã kết tụ nỗi buồn “mang mang
thiên cổ” ở Huy Cận, được diễn đạt bằng hình thức thơ trang trọng, cổ kính,
đậm đà phong vị Đường thi mà vẫn giản dị, mới lạ, độc đáo, mang rõ dấu ấn
thời đại của Thơ mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

những lớp sóng, tơi cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra những lớp
sóng”. Tràng giang là sơng dài, “trường” cũng là dài nhưng “tràng” có âm
“ang” là âm mở rộng, gợi được cả dài lẫn rộng. Hơn nữa Tràng giang láy âm
cuối “ang” càng khơi gợi cảm giác mênh mang, bát ngát của dịng sơng lớn.
Tiếp theo, câu đề càng thổ hiện đầy đủ tình, cảnh gợi tứ cho bài thơ. Tình là
bâng khng, nhớ cảnh là trời rộng, sơng dài. Bài thơ mở ra trước tầm mắt ta
bức tranh bao la, rộng lớn của cảnh trời nước mênh mang. Không gian ở đây
thật vơ định. Nó được trải ra ở cả ba chiều: chiều dài, chiều rộng, chiều cao, với
những hình ảnh phong phú: tràng giang, trăm ngả, mấy dịng, sâu chót vót,
sơng dài, trời rộng, mây cao, núi bạc… Tất cả bầu trời, mặt đất đều là vô tận,
không cùng của vũ trụ. Huy Cận sử dụng nghệ thuật đối lập rất tự nhiên bởi
ông đã đặt vào giữa cái không gian bất tận mênh mông ấy những hiện thực của
cuộc sống khơng thế thiếu vắng. Đó là những sự vật cụ thể, nhỏ nhoi, đơn
chiếc, con thuyền xuôi mái, củi một cành khô, cồn nhỏ lơ thơ, chim nghiêng
cánh nhỏ… nhưng càng làm tăng thêm cái cao rộng của bầu trời, mặt đất. Cái
hữu hạn thì vơ nghĩa, vơ hướng, nhỏ bé, nhạt nhịa, khơng đáng kể nhưng đã
làm nổi bật cái vô hạn không cùng.


Tràng giang không chỉ là bức tranh phong cảnh đẹp với những đường nét, hình
khơi, trái lại, đây cịn là một bức tranh tuyệt đẹp mang nét buồn mênh mang,
quạnh vắng, cô liêu. “Thơ mới” đã đem đến cho người đọc những bức tranh
thiên nhiên rạng rỡ nhiều thanh sắc. Thiên nhiên trong Tràng giang cũng có vẻ
đẹp riêng của nó. Đó là vẻ đẹp nên thơ của những con sóng diệp điệp đuổi nhau
trên mặt nước, của cồn nhỏ lơ thơ, của bờ xanh tiếp bãi vàng chạy dài tít tap.


Đó là vẻ đẹp hùng vĩ của cảnh nắng xuống trời lên sâu chót vót, của cảnh sơng
dài trời rộng, của mây cao, núi bạc…


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Ngoài ra, bài thơ Tràng giang còn là một bức tranh thiên nhiên mang màu sắc
cổ điển mà hiện đại.


Cả bài Tràng giang mang tính chất trang nghiêm, cổ kính, đậm đà phong vị
Đường thi, nhưng cũng rất mới mẻ, hiện đại. Chất cố điển hiện ở cảm xúc của
bài thơ (con người một mình đối diện với vũ trụ để cảm nhận cái vĩnh viễn vô
cùng của không gian, thời gian, để nghĩ về kiếp người), cổ điển trong việc học
tập Chinh phụ ngâm, cố điển ơ nhạc diệu và tứ thơ Đỗ Phủ (trong bài Đãng
cao), cổ điển ở việc lấy ý thơ của Thơi Hiệu (trong Hồng Hạc lâu)… Nhưng
đồng thời cảnh vật trong bài thơ cũng hết sức cụ thể, đời thường (cành củi khô,
cồn cát, cánh bèo… ). Hơn nữa, đây còn là một bức tranh đậm đà phong vị Việt
Nam. Tràng giang, cái tên gợi nhớ đến dòng Trường giang ngàn dặm ở Trung
Quốc từng là nguồn cảm hứng cho bao thế hệ thi nhân. Tứ thơ Thơi Hiệu ở
cuối bài Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà lại càng tăng thêm khơng khí
Đường thi của bài thơ. Tuy thế, bức tranh thiên nhiên ở đây lại rất Việt Nam.
Một dịng sơng, một cành củi trơi, một cồn cát nhỏ, một chợ chiều ở một làng
xa, những cánh bèo trên mặt nước, cánh chim chao liệng trên nền mây bạc lúc
hồng hơn… đều là những cảnh q hương đất nước, gần gũi, thân thuộc với
mỗi con người Việt Nam.


Nói tóm lại, bài thơ Tràng giang tốt lên một nỗi buồn mênh mang, thấm vào
linh hồn cảnh sắc quê hương, gợi tình mến yêu quê hương một cách sâu lắng.
Xuân Diệu nhận xét: “Tràng giang, là một bài thơ ca ngợi non sơng đất nước,
do đó, dọn đường cho tình yêu giang sơn Tố quốc”.


<b>Bài làm 5</b>



Thiên nhiên là đề tài muôn thuở của thi ca, là cảm hứng sáng tác của rất nhiều
nhà thơ. Mỗi tác giả lại có một cái nhìn riêng, một phương thức khác biệt để tái
hiện cảnh thiên nhiên. Nếu như thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu gây ấn tượng
với vẻ đẹp mơn mởn tràn đầy sức sống thì thiên nhiên trong thơ Huy Cận lại
gợi lên nhiều nghĩ suy bởi vẻ đẹp buồn man mác. Điều này được thể hiện vô
cùng rõ nét qua bức tranh nhiên nhiên trong bài thơ "Tràng giang". Thiên nhiên
"Tràng giang" dưới ngòi bút Huy Cận hiện lên với vẻ đẹp cổ điển xen lẫn hiện
đại, đẹp mà quạnh vắng cô liêu, bâng khuâng nỗi sầu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

dẫn dắt độc giả bước vào không gian thiên nhiên rộng lớn mang tầm vóc vũ trụ.
Từ đó, hé mở dòng cảm xúc với nỗi nhớ bâng khuâng, sự lạc lõng, hoang mang
giữa cảnh thiên nhiên rộng lớn, vô tận của một hồn thơ nhạy cảm, lẻ loi:


“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”


Vẫn sử dụng những thi liệu và bút pháp nghệ thuật quen thuộc song Huy Cận
lại vẽ lên một bức tranh thiên nhiên vô cùng ấn tượng. Giữa dịng sơng rộng
lớn mênh mang, vơ tận, từng con sóng gợn lăn tăn, gối đầu lên nhau "điệp
điệp" như không dứt. Dịng nước lững lờ trơi đi, chậm chạp mà hờ hững, vơ
định. Xi theo nó là con thuyền nhỏ bé lênh đênh "xuôi mái song song" không
phương hướng dường như phó mặc theo ý muốn của đất trời.


Thuyền và nước vốn song song đồng hành với nhau, đến đây lại cách xa đầy
buồn tủi. Hình ảnh "thuyền về nước lại" gợi cảm giác xót xa chia lìa, mang
theo hơi thở của nỗi sầu thương vây bủa. Kết hợp cùng hình ảnh "củi một cành
khơ lạc mấy dịng", khung cảnh thiên nhiên vốn buồn man mác bỗng trở nên
càng ưu sầu. Cành củi khô nhỏ bé nổi trôi, vô định, lẻ loi gấp nhiều lần khi chỉ


có một mình giữa những dịng chảy mênh mơng, cuộn xốy. Nó dường nhiều
mất đi sức sống, mất đi toàn bộ vẻ tươi xanh, nhỏ nhoi giữa không gian sông
nước bao la càng khắc sâu thêm nỗi cơ đơn trống vắng trong lịng người. Đồng
thời, đây là hình ảnh ẩn dụ hiện đại, tượng trưng cho bao kiếp người nhỏ bé
thời đại bấy giờ, nhỏ bé, cô đơn, lẻ loi trôi dạt giữa dịng sơng cuộc đời bao la
khơng tìm thấy bến bờ.


Dịng xúc cảm lặng lẽ chảy trơi, ngịi bút tài hoa của Huy Cận tiếp tục đặc tả
cảnh thiên nhiên hoang vắng đến nao lòng:


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Hai từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” được sử dụng khéo léo cùng biện pháp tu từ nhân
hóa đã nhấn mạnh tâm trạng buồn thương của con người. Vẫn là sông nước
mênh mông, vẫn là không gian bao la rộng lớn, vậy mà chỉ thưa thớt vài cồn
cát, hắt hiu vài ngọn gió lạ. Ngay cả âm thanh của cuộc sống "tiếng làng xa vãn
chợ chiều" dường như cũng biến mất, không biết "đâu". Thi sĩ càng cố chạm
tay vào hơi thở mong manh của cuộc sống càng thấy lịng mình thêm bâng
khng, cơ độc giữa cảnh thiên nhiên vốn bao la, nay càng mênh mang vơ định
bởi "nắng xuống, trời lên".


Hình ảnh “Trời rộng sông dài” ở lời đề từ đến đây đã được đổi ngược lại thành
tiểu đối “Sông dài trời rộng. Kết hợp với cụm từ “bến cơ liêu”, nó khiến người
đọc cảm nhận được tận cùng của thiên nhiên hoang vắng và nỗi cô đơn của con
người.


Chưa dừng lại ở đó, bức tranh thiên nhiên buồn bã, hiu quạnh vẫn tiếp tục được
chấm phá thêm ở khổ thơ tiếp theo:


"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng


Mênh mông không một chuyến đị ngang


Khơng cầu gợi chút niềm thân mật


Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng"


Trên dịng tràng giang mênh mang sóng nước, một chuyến đị ngang cũng chưa
từng xuất hiện, có chăng chỉ là vài cánh bèo lặng lờ trôi. Sự quạnh hiu đến đây
đã thấm đượm qua từng cảnh vật. Nó khơng chỉ là sự hoang vắng của thiên
nhiên mà cịn là sự cơ đơn tốt lên từ chính tâm hồn thi sĩ giống như câu thơ
"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn
Du). Những từ láy “mênh mông”, “lặng lẽ” kết hợp cùng điệp từ “khơng” và
cụm từ “khơng một chuyến đị”, “không cầu” đã đẩy sự hoang vắng lên đến cực
điểm, đưa độc giả đến tận cùng nỗi cô đơn, lạc lõng. Để rồi chỉ có “Bờ xanh
tiếp bãi vàng” mênh mông đến hút tầm mắt.


Nét vẽ cuối cùng cho bức tranh ấy là khung cảnh hùng vĩ, bao la cùng nỗi sầu
nhân thế bâng khuâng:


“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà.”


Mây trắng chuyển động thành từng lớp. Cánh chim nhỏ nhoi chao nghiêng bay
về sau một ngày mệt nhọc. Trong bóng hồng hơn, những hình ảnh ấy tạo nên
một khung cảnh buồn vương vấn. Khơng gian rộng mở rợn ngợp cịn nỗi buồn
thì dằng dặc, bất tận. Nhà thơ chợt nhớ về quê hương, nhớ về cả thời đại. Đây
chính là nỗi lịng của cả thế hệ trí thức lúc ấy trước thời cuộc rối ren.


Có thể nói, chỉ với 4 khổ thơ 7 chữ ngắn gọn nhưng bằng những nét bút tinh tế,
khéo léo cùng bút pháp chấm phá đặc sắc, sự kết hợp hài hòa giữa hiện đại và


cổ điển, Huy Cận đã vẽ lên trước mắt độc giả một bức tranh thiên nhiên vô
cùng rung động: mênh mông vô tận và man mác nỗi buồn. Khung cảnh ấy
không những thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước tha thiết
của nhà thơ mà còn gửi gắm nỗi niềm tâm sự của cả thế hệ trí thức trong hồn
cảnh đất nước nhiều biến động.


Với những ý nghĩa đó, "Tràng giang" được đánh giá là bài thơ tiêu biểu cho
phong cách Huy Cận. Nỗi “buồn” vô tận kết hợp với nỗi ám ảnh không gian lạ
lùng đã ghi dấu ấn mạnh mẽ cho hồn thơ Huy Cận trong phong trào thơ Mới
1932-1945 nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Từ đó đóng góp cho
nước nhà một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, đáng nâng niu, giữ gìn.


</div>

<!--links-->

×