MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................2
1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................2
2. Mục đích nghiên cứu.............................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu......................................................3
4. Phạm vi nghiên cứu..............................................................3
PHẦN NỘI DUNG..........................................................................4
Chương I. Khái quát chung về “nhóm lợi ích” và tham nhũng
trong chính sách.......................................................................4
1.1. Khái niệm về tham nhũng trong chính sách....................4
1.2. Khái niệm về nhóm lợi ích.............................................12
Chương II. Tác động tiêu cực của “Nhóm lợi ích” đến vấn đề
tham nhũng trong chính sách.................................................16
2.1. Sự tác động của “Nhóm lợi ích” ở Việt Nam hiện nay...16
2.2. Sự tác động của “Nhóm lợi ích” bên ngồi nhà nước....21
2.3. Sự tác động của nhóm lợi ích bên trong nhà nước........23
Chương III. Giải pháp kiểm sốt, ngăn chặn “Nhóm lợi ích”
trong tham nhũng chính sách ở Việt Nam..............................24
3.1. Quan điểm của Đảng.....................................................24
3.2. Giải pháp cụ thể............................................................26
PHẦN KẾT LUẬN.........................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................30
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tham nhũng trong chính sách là một thực trạng rất nghiêm
trọng ở nước ta hiện nay. Tham nhũng gây ra hậu quả vơ cùng
nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, cản trở sự phát triển
của đất nước trong tiến trình hội nhập với thế giới, làm xói mịn
lịng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và đối với con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những năm gần đây,
nhất là khi có Nghị quyết Trung ương 4 ( khóa XI ): “ Một số vấn
đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng đã đạt được một số kết quả nhất
định. Nhiều vụ tham nhũng lớn, phức tạp, gây hậu quả nghiêm
trọng tồn tại từ lâu đã bị phát hiện, xử lý; những bản án tử hình,
tù chung thân và bắt buộc phải bồi thường tiền, tài sản đã tham
nhũng của Nhà nước, của nhân dân, làm cho tệ tham nhũng
từng bước được kiềm chế.
Song, tình trạng tham nhũng trong chính sách hiện nay vẫn
cịn nghiêm trọng, phạm vi rộng, tính chất phức tạp. Nhiều
“Nhóm lợi ích” lợi dụng lỗ hổng trong chính sách, lợi dụng lịng
tham của cán bộ tham gia vào quá trình hoạch định và ban
hành chính sách để mang lại lợi ích riêng cho nhóm lợi ích đó,
dẫn đến hành vi tham nhũng trong chính sách nghiêm trọng,
làm thất thoát tiền của nhà nước, mất niềm tin trong nhân dân.
Hành vi tham nhũng trong chính sách là hành vi tham nhũng
cực kì nguy hiểm vì nó làm ảnh hưởng đến cả một bộ máy nhà
nước, gây tổn thất về nhiều mặt.
2
Xuất phát từ những lí do trên mà em lựa chọn nghiên cứu đề
tài: “ Ảnh hưởng của “Nhóm lợi ích” đến vấn đề tham nhũng
trong chính sách ở Việt Nam hiện nay”.
2. Mục đích nghiên cứu
Bài nghiên cứu nhằm mục đích tìm hiểu về vấn đề tham
nhũng trong chính sách, khái niệm về “ Nhóm lợi ích”.
Sự ảnh hưởng của các “Nhóm lợi ích” dẫn đến hành vi tham
nhũng trong chính sách.
Giải pháp ngăn chặn, kiểm sốt những tác động tiêu cực của
“ Nhóm lợi ích” đối với q trình chính sách.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp,
tìm hiểu những mơ hình khác nhau từ đó đưa ra một kết luận
chung.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Trong quá trình
nghiên cứu, đề tài còn sử dụng các phương pháp khác như:
phân tích- tổng hợp, logic-lịch sử, so sánh, hệ thống - cấu trúcchức năng, phân tích tài liệu, thống kê.
4. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về ảnh hưởng của “ nhóm lợi ích” đến vấn đề
tham nhũng trong chính sách ở Việt Nam.
3
PHẦN NỘI DUNG
Chương I. Khái quát chung về “nhóm lợi ích” và tham
nhũng trong
chính sách
1.1. Khái niệm về tham nhũng trong chính sách
1.1.1. Tham nhũng là gì
a. Khái niệm
Tham nhũng,một cách thông thường, được hiểu là những
hành vi lợi dụng quyền lực, đặc biệt là quyền lực nhà nước để
trục lợi cho mục đích cá nhân. Với ý nghĩa như vậy, tham nhũng
đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử xã hội loài người, gắn liền
với việc xuất hiện quyền lực nhà nước, quyền lực công. Ngày
nay, tham nhũng đã trở thành một hiện tượng khá phổ biến trên
thế giới; là một trong những nguy cơ của sự phát triển của mỗi
quốc gia, đe dọa ổn định xã hội, làm xói mịn những giá trị đạo
đức, các giá trị dân chủ, cản trở quá trình phát triển và tăng
trưởng kinh tế cũng như làm suy giảm lòng tin của người dân
vào chính quyền và pháp luật.
Quan niệm về tham nhũng ở mỗi nơi lại có sự khác nhau,
nhưng đều được nhận diện trên hai phương diện:
Một là, sự lợi dụng chức vụ, quyền lực, trọng tâm là quyền
lực nhà nước để thu lợi bất chính;
Hai là, lịng tham của con người được thực hiện thông qua
việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn.
Ở Việt Nam có những quan niệm khá rõ ràng về tham
nhũng. Ngay trong tiếng Việt, "tham nhũng", theo triết tự và
cũng là cách hiểu thông dụng, gồm hai thành tố ghép lại:
"tham" là: tham lam, hám lợi, tư lợi, vụ lợi... và "nhũng" là:
4
nhũng nhiễu, gây phiền hà, gây phiền toái, hạch sách...; do
"tham" mà "nhũng", "nhũng" để thỏa mãn lịng "tham"... Vì vậy,
từ điển tiếng Việt đã giải thích tham nhũng là: "Lợi dụng quyền
hạn để nhũng nhiễu dân và lấy của".
Bộ luật hình sự, Luật phịng, chống tham nhũng năm 2005
đã liệt kê các hành vi tham nhũng. Theo đó, những hành vi sau
đây thuộc nhóm hành vi tham nhũng:
- Tham ô tài sản.
- Nhận hối lộ.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ,
cơng vụ vì vụ lợi.
- Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác
để trục lợi.
- Giả mạo trong cơng tác vì vụ lợi.
- Đưa hối lộ, mơi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức
vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức,
đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của
Nhà nước vì vụ lợi.
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi.
- Khơng thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành
vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật
5
vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án vì vụ lợi.
Trong 12 hành vi tham nhũng nêu trên, có 7 hành vi đã được
quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999; được sửa đổi, bổ sung
ngày năm 2009 và có hiệu lực từ ngày 1-1-2010, bao gồm:
- Tham ô tài sản: là lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt
tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý.
- Nhận hối lộ: là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực
tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản
hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào để làm hoặc
khơng làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa
hối lộ
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ,
cơng vụ vì vụ lợi: là việc cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân
khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt
hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp
của cơng dân
- Lạm quyền trong khi thi hành cơng vụ: là cá nhân vì vụ lợi
hoặc động cơ cá nhân khác mà vượt quá quyền hạn của mình
làm trái cơng vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người
khác để trục lợi: là việc cá nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn,
trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản
hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào, gây hậu
quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi
phạm, để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ,
6
quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm
hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một
việc không được phép làm.
- Giả mạo trong cơng tác: là cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ
cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một
trong các hành vi sau đây:
+ Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu;
+ Làm, cấp giấy tờ giả;
+ Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn.
Từ tất cả các cách tiếp cận trên, có thể xem: Tham nhũng là
hành vi của người có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng quyền lực
khơng bị kiểm soát, hoặc kiểm soát chưa đủ độ, để chiếm đoạt
tài sản của nhà nước, của tổ chức hoặc cá nhân làm của riêng
cho mình nhằm thỏa mãn lịng tham và sự hám lợi cá nhân.
b. Đặc trưng cơ bản
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tham nhũng có
những đặc trưng cơ bản như sau:
Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ quyền hạn.
Phương thức tham nhũng là lợi dụng chức vụ, quyền hạn
được giao.
Mục đích của hành vi tham nhũng là thỏa mãn lòng tham và
sự hám lợi cá nhân.
c. Tác hại của tham nhũng
- Làm xói mịn đạo đức xã hội.
- Xâm phạm các quyền về kinh tế xã hội của con người.
- Hủy hoại nền dân chủ.
7
- Phá vỡ các nguyên tắc pháp lý đang làm nền tảng cho xã
hội.
- Kiềm chế sự phát triển.
- Phủ nhận vai trò của xã hội, vi phạm quyền tự do khiếu nại
của công dân.
1.1.2. Khái quát chung về hoạch định chính sách
Quy trình hoạch định chính sách cơng, tuy có khái quát khác
nhau, song cơ bản thường được triển khai qua các giai đoạn
(bước) cơ bản: Nêu vấn đề của chính sách (phát hiện những vấn
đề cần phải giải quyết), xác lập nghị trình (tìm kiếm sự nhất trí
về mục tiêu), xây dựng (quyết định) và thơng qua chính sách
(tìm kiếm sự nhất trí về biện pháp để đạt mục tiêu), triển khai
thực hiện và đánh giá chính sách (thi hành các biện pháp đã
được nhất trí). Tuy nhiên, trên thực tế, có thể ở từng thời điểm,
từng góc độ, quy trình chính sách cơng có thể được chia ra
những bước nhỏ hơn hay gộp lại thành bước lớn hơn. Khái qt
lại, qui trình chính sách gồm 4 bước: xác lập nghị trình, xây
dựng (hoạch định) và ban hành chính sách, thưc hiện chính
sách, đánh giá việc thực hiện chính sách.
- Xác lập nghị trình, về thực chất là tìm kiếm, khẳng đình và
thơng qua vấn đề chính sách.
- Hoạch định (xây dựng) và ban hành chính sách, về thực
chất, là một q trình (q trình làm chính sách) soạn thảo và
thơng qua chính sách. Việc đề ra một chính sách phù hợp, đáp
ứng yêu cầu của thực tế sẽ quyết định ở mức độ lớn các kết quả
tích cực trên thực tiễn. Chính sách là những cơng cụ vĩ mô của
nhà nước điều tiết và quản lý kinh tế - xã hội. Một chính sách có
thể thực hiện tốt hay không, trước hết là do nội dung của chính
8
sách. Chính sách đúng đắn và phù hợp sẽ đảm bảo cho các hoạt
động kinh tế có hiệu quả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải
thiện đời sống của nhân dân và qua đó sẽ góp phần tích cực
vào việc củng cố quyền lực nhà nước. Lênin đã từng chỉ rõ:
Chính sách đúng là ngọn nguồn của mọi thắng lợi .
Nhà nước có thể đề ra nhiều loại chính sách khác nhau trong
các lĩnh vực khác nhau, nhưng các chính sách đó phải được xây
dựng với tư cách như một hệ thống thống nhất. Điều này có
nghĩa là, khi nhà nước đề ra một chính sách trong một lĩnh vực
riêng biệt nào đó thì phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng trong quan
hệ với các chính sách khác, xem chính sách đó có gây ra những
tác động trái ngược với những chính sách hiện hành hay khơng,
nó sẽ ảnh hưởng như thế nào (tích cực hoặc tiêu cực) đến các
mục tiêu cơ bản mà nhà nước đã đặt ra.
Vì vậy, khi hoạch định và ban hành một chính sách cần phải
xem xét những vấn đề sau:
- Chính sách đó có phù hợp với hệ thống chính sách hiện
hành hay khơng?
- Chính sách đó có tạo ra những phản ứng trái ngược khơng?
- Có cần phải ban hành thêm chính sách mới hoặc thay đổi
chính sách hiện hành nào đó để hỗ trợ và điều tiết tương ứng về
mặt kinh tế- xã hội khơng?
- Chính sách đó có được ban hành theo một trình tự hợp lý
khơng?
u cầu quan trọng khi đưa ra một chính sách là phải đánh
giá tác động của chính sách này tới các mục tiêu phát triển
quốc gia.
9
- Thực hiện chính sách, về thực chất là tổ chức trên thực tế
những hoạt động của đông đảo dân chúng nhằm hiện thực
chính sách nhằm đạt mục đích. Tổ chức thực hiện chính sách là
khâu quyết định của chu trình chính sách. Chính sự tích cực và
sáng tạo của quần chúng trong thực hiện chính sách, một mặt
phản ánh tính đúng đắn của chính sách, mặt khác thể hiện thái
độ ủng hộ chính sách. Tất nhiên trong q trình thực hiện chính
sách sẽ có hai trường hợp: Chính sách phù hợp với thực tế, phản
ánh đúng nhu cầu của người dân, và mặt khacs có thể là chính
sách khơng đúng, khơng phù hợp và người dân thowf ơ với
chính sách. Đây chính là “liều thuốc thử đối với chính sách
- Đánh giá chính sách là khâu cuối cùng, về thực chất là xem
tính đúng đắn của chính sách và thái độ của người dân với chính
sách. Dân đồng tình và thực hiện nghiêm chỉnh (có thể khơng
đạt kết quả như mong muốn) phản ánh sự phù hợp và đúng đắn
của chính sách, ngược lại cần rà sốt lại chính sách.
Với qui trình gồm nhiều bước như vậy, nên tham nhũng
trong chính sách là những hành vi lợi dụng quyền lực Nhà nước
để làm sai lạc trong việc xác lập chương trình nghị sự, trong xây
dựng và ban hành chính sách, trong tổ chức thực hiện và đánh
giá kiểm tra việc thực hiện chính sách để trục lợi cho mục đích
của một nhóm người, hoặc của một người, hoặc để làm sai lạc
bản chất của chính sách. Điều đó có nghĩa là tham nhũng trong
chính sách xuất hiện trên tất cả các khâu, dù đó là khâu nào mà
ở đó thiếu kiểm tra, giám sát quyền lực, sơ hở về pháp luật và
thiếu công khai, minh bạch trong cung cấp thông tin. Dù bất kể
trong khâu nào, tham nhũng cũng làm sai lạc chính sách, cơng
cụ điều tiết vĩ mơ của nhà nước, làm phương hại, trước hết cho
việc đánh giá tính đúng, sai của chính sách và su nữa sẽ ảnh
10
hưởng tiêu cực đến tồn xã hội và uy tín của Nhà nước, người
đề ra chính sách.
1.1.3. Bản chất của tham nhũng trong chính sách
Tham nhũng trong chính sách là tổng hòa sự tham nhũng
trong tất cả các bước, các khâu của qui trình chính sách, có thể
tham nhũng chỉ xảy ra ở một khâu, hoặc trong tất cả các khâu.
Dù trong trường hợp nào thì bản chất của tham nhũng trong
chính sách vẫn là sự lợi dung chức vụ quyền hạn để làm sai lạc
trong việc xác lập nghị trình, xây dựng và ban hành chính sách
cũng như trong tổ chức thực hiện và đánh giá việc thực hiện
chính sách để trục lợi bất chính gây hậu quả đến cộng đồng, xã
hội. cũng như tạo nên sự nghi ngờ về tính đúng đắn của chính
sách.
Nếu như tham nhũng trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội
liên quan đến cá nhân, nhằm sự trục lợi cá nhân là chủ yếu, thì
nét khác biệt của tham nhũng trong chính sách, thường liên
quan đến một nhóm người, nhóm lợi ích nhằm trục lợi cho một
nhịm người, nhóm lợi ích liên quan đến vấn đề xác lập nghị
trình, xây dưng, ban hành chính sách, tổ chức thực hiện và đánh
giá, kiểm tra việc thực hiện chính sách. Tất nhiên, suy đến cùng
cũng xuất phát từ lợi ích cá nhân, chủ nghĩa cá nhân của những
người có chức vụ, quyền hạn trong việc lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để trục lợi cho cá nhân, song tham nhũng trong chính sách
thường liên quan đến nhóm lợi ích, bởi chính sách khơng phải là
sản phẩm của cá nhân mà là của tập thể. Xã hội càng phát triển
thì tính tập thể trong chính sách càng rõ ràng và sự tham nhũng
mang tính tập thể cũng thể hiện rõ. Tất cả lợi ích cá nhân cũng
được «khốc » lên mình tấm áo tập thể.Đây là điều khác biệt
về bản chất giữa tham nhũng và tham nhũng trong chính sách.
11
1.1.4. Dấu hiệu tham nhũng trong chính sách
Là tổng hịa sự tham nhũng trong qui trình chính sách, bởi
vậy, dấu hiệu nhận biết tham nhũng trong chính sách được
nhận biết trong từng khâu và hậu quả cuối cùng.
Có thể nêu những dấu hiệu tham nhũng trong từng khâu của
chính sách như sau:
1)Trong xác định vấn đề: Tìm tịi và xác định một vấn đề
đang đặt ra có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất
nước nói chung hoặc đối với một lĩnh vực cụ thể nào đó. Vấn đề
hướng tới ban hành chính sách là gì? Thu thập thơng tin, phân
tích thơng tin và xác định vấn đề. Để đi đến một chính sách, cần
xác định mục đích hành động, lựa chọn những khả năng, và
thực hiện lựa chọn này. Đầu tiên là xác định chính xác vấn đề
phải giải quyết, và sắp xếp các mục tiêu theo thứ tự ưu tiên.
Cần xây dựng tiêu chí ra chính sách. Tiêu chí càng rõ ràng bao
nhiêu càng có cơ hội ra chính sách chuẩn xác bây nhiêu. Tìm
xem có những khác biệt nào giữa thực tế đang tồn tại và điều
cần có chính sách tác động làm thay đổi; xác định vấn đề một
cách hiệu quả; cần phân tích các ngun nhân; tập hợp dữ liệu
về tình huống; xác định phạm vi của vấn đề: xác định hậu quả
của vấn đề: xem xét những hạn chế có thể có ảnh hưởng đến
giải pháp của vấn đề.
Biểu hiện tham nhũng trong khâu này thường là không lựa
chọn vấn đề mà cuộc sống yêu cầu mà thường là xuất phát từ
lợi ích nhóm để lựa chọn vấn đề nhằm vì lợi ích nhóm. Chẳng
hạn, vì lợi ích nhóm mà lựa chon vấn đề nhập khẩu tràn lan ảnh
hưởng đến sản xuất nội địa. Trong xác định vấn đề có dấu hiệu
tham nhũng được thể hiện trên các phương diện:
12
+ Xác định mục tiêu: là đích cần đạt tới trong tiến trình giải
quyết vấn đề nêu trên. Tham nhũng trong khâu này thường là
đề xuất mục tiêu không đúng, không xuất phát từ hiện thực
khách quan, mà thường từ chủ quan lợi ích nhóm. Hơn nữa
trong q trình thực hiện, việc điều chính mục tiêu cũng vì lợi
ích nhóm. Tham nhũng loại này thường là tham nhũng tự giác
cao của nhóm người có chức có quyền.
+ Đề ra các giải pháp thực hiện mục tiêu: Là việc tìm kiếm
những giải pháp hữu hiệu và khả thi để thực hiện các mục tiêu
đã đề ra. Tham nhũng trong khâu này, nhiều khi là nhóm lợi ích
né tránh những giải pháp khả thi trong thực hiện nhiệm vụ đạt
mục tiêu mà dùng những giải pháp khơng bình thường để thực
hiện nhiệm vụ bình thường.
2) Hoạch định, lựa chọn và thơng qua chính sách:
Các cơ quan có thẩm quyền xem xét so sánh giữa các
phương án chính sách, từ đó lựa chọn một phương án hợp lý
nhất và ban hành thành chính sách để đưa vào thực hiện trong
cuộc sống.
Tham nhũng trong khâu này thường xuất hiện trong khi
nhóm lợi ích thơng qua chính sách vội vàng, hoặc thiếu thảo
luận khách quan vì lợi ích nhóm; thơng tin thiếu cơng khai, minh
bạch dẫn đến việc ban hành chính sách khơng đúng, khơng khả
thi. Đúng hơn là nhóm lợi ích gây nhiễu thơng tin để khơng có
cơ sở phân biệt đúng, sai trong lựa chọn vấn đề trong hoạch
đinh, trong ban hành và trong tổ chức thực hiện.
3) Tổ chức thực hiện chính sách: là quá trình tập hợp lực
lượng nhằm hiện thức hóa nhiệm vụ đạt mục tiêu. Trong tổ chức
thực hiện chính sách có những nội dung cụ thể: Xây dựng kế
13
hoạch thực hiện;Thảo luận tiến độ thực hiện quyết định, phải
xác định rõ thời gian, mục đích và thành phần tham dự cuộc
thảo luận; Thực hiện chính sách và kiểm tra quá trình thực hiện;
rút kinh nghiệm và đánh giá quyết định. Hai câu hỏi cơ bản của
một quá trình ra quyết định hiệu quả bạn cần ghi nhớ là: Cái gì
đã tốt rồi và cái gì cần tốt hơn?
Tham nhũng trong khâu này thường là thực hiện sai lạc,
hoặc trì hỗn việc thực hiện để bổ sung tài chính đạt mục tiêu.
4) Đánh giá thực hiện chính sách : Là tập hợp các kết quả và
đánh giá phương thức đạt kết quả, rút ra bài học kinh nghiệm
cho việc hồn thiện chính sách và thực hiện hiệu quả chính
sách. Tham nhũng trong khâu này thường là đánh giá thiếu
khách quan, năng về ưu điểm, né tránh những sai lầm chủ
quân, hoặc nếu không đạt mục tiêu đều đổi lỗi cho khách quan ;
tránh trách nhiệm cá nhân mỗi khi không đạt mục tiêu, hoặc
đạt mục tiêu với giá quá đắt
1.2. Khái niệm về nhóm lợi ích
1.2.1. Lợi ích là gì
Khái niệm dùng để chỉ sự quan tâm của một cá nhân hay
nhóm người tới sự thay đổi của một số biến số kinh tế nào đó. Ví
dụ, lợi ích của người lao động là tiền lương (sự quan tâm tới tiền
lương ), các nhà sản xuất trong nước có lợi ích ở chính sách bảo
hộ mậu dịch (họ quan tâm tới việc chính phủ áp dụng các biện
pháp bảo hộ mậu dịch chống lại hàng nhập khẩu ). Lợi ích là
phạm trù quan trọng của kinh tế chính trị Mác xít, nhưng trong
kinh tế học nó chỉ được sử dụng để chỉ những nhóm người có
quyền lợi, lợi ích giống nhau.
1.2.2. Bản chất của “ nhóm lợi ích”
14
“Nhóm lợi ích” là một hiện tượng khách quan, tồn tại tất yếu
trong quá trình hình thành và phát triển của xã hội. Đó là tập
hợp các cá nhân có chung một hay nhiều lợi ích hoạt động theo
một cơ chế nhất định nhằm đạt được hoặc gia tăng lợi ích chung
của họ. Thực tế, vừa có “nhóm lợi ích” tích cực, vừa có “nhóm
lợi ích” tiêu cực. “Nhóm lợi ích” tích cực là những “nhóm lợi ích”
chính đáng, hợp lý, hợp pháp, tiến bộ, có tác dụng tích cực, thúc
đẩy sự phát triển của xã hội. Ngược lại, “nhóm lợi ích” tiêu cực
là “nhóm lợi ích” khơng chính đáng, phi pháp, có tác dụng phá
hoại, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Có nhiều loại lợi ích nhóm khác nhau. Tùy theo góc độ phân
tích, tiêu chí phân loại mà có thể có số lượng và tên gọi các
nhóm lợi ích khác nhau. Trong lợi ích nhóm nói chung, có những
lợi ích nhóm chính đáng, hợp lý, hợp pháp, tiến bộ, có tác dụng
tích cực, thúc đẩy sự phát triển xã hội. Ngược lại, có những lợi
ích khơng chính đáng, phi lý, phi pháp, có tác dụng phá hoại,
kìm hãm sự phát triển của cộng đồng, xã hội.
Trên cơ sở các loại lợi ích nhóm sẽ hình thành nên các nhóm
lợi ích khác nhau, hoạt động và phối hợp giữa các cá nhân, tổ
chức để thỏa mãn tối đa lợi ích nhóm ở mức độ và quy mơ có
thể có được. Do vậy có thể nói, lợi ích nhóm và nhóm lợi ích như
bóng với hình. Có lợi ích nhóm thì đương nhiên có nhóm lợi ích
và ở đâu có nhóm lợi ích ở đó có lợi ích nhóm tồn tại. Tuy nhiên,
phải lưu ý rằng lợi ích của một nhóm cá nhân hay tổ chức nào
đó chỉ được xã hội xem là lợi ích nhóm khi nó khác biệt, khơng
giống với lợi ích của tập thể, cộng đồng lớn hơn, thậm chí chỉ
khi nó gây nên những tác động, ảnh hưởng hay hiệu quả trái với
lợi ích của cộng đồng lớn hơn trong quan hệ đang được xem xét.
15
Cả về phương diện lý luận lẫn phương diện thực tiễn lịch sử
xã hội lồi người nói chung và lịch sử xã hội Việt Nam nói riêng,
lợi ích nhóm và nhóm lợi ích ln tồn tại trong mọi thời kỳ lịch
sử. Tuy nhiên, sự tồn tại của các lợi ích nhóm và nhóm lợi ích ở
các thời kỳ khác nhau có những hình thái khác nhau và mức độ,
quy mơ, số lượng của chúng là không giống nhau, do vậy tác
động của chúng đến sự phát triển xã hội là khác nhau. Mức độ,
quy mơ của lợi ích nhóm và do vậy của nhóm lợi ích trong xã
hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Mức độ, quy mơ, tính chất
và đặc điểm của chúng phụ thuộc vào từng quan hệ cụ thể được
xem xét. Chẳng hạn, lợi ích giai cấp có thể là lợi ích nhóm trong
quan hệ với lợi ích xã hội, lợi ích của một tỉnh, địa phương có
thể là lợi ích nhóm trong quan hệ với lợi ích quốc gia,… Lợi ích
nhóm càng lớn, đại diện cho các tập thể, cộng đồng xã hội càng
lớn, do đó nhóm lợi ích càng có nhiều người tham gia thì ảnh
hưởng xã hội của nó càng lớn mạnh. Đại diện của nhóm lợi ích
càng nắm giữ các chức vụ và địa vị xã hội cao và quan trọng thì
tác động của lợi ích nhóm và nhóm lợi ích càng lớn. Vì vậy,
trong thực tế các nhóm lợi ích ln muốn các đại diện của mình
leo cao, nắm giữ các cương vị quan trọng trong hệ thống kinh
tế, chính trị, văn hóa, an ninh, quốc phịng và xã hội nói chung.
Ở nước ta hiện nay, khi nói đến lợi ích nhóm hay nhóm lợi
ích người ta thường sử dụng nghĩa hẹp của các cụm từ này thiên
nhiều về hướng tiêu cực đối với xã hội. Lợi ích nhóm là lợi ích
của một nhóm người nhất định được họ đặt cao hơn lợi ích
chung của tập thể, cộng đồng lớn hơn, xem đó là lợi ích trung
tâm và việc thực hiện lợi ích ấy có tác động hoặc hệ quả xấu
cho lợi ích chung, cho sự phát triển. Tương ứng, nhóm lợi ích là
tập hợp các cá nhân hoặc tập thể cùng có một lợi ích, khác biệt
16
với lợi ích các nhóm khác, khác với lợi ích chung của cộng đồng
lớn hơn, đang tìm cách tác động vào các chủ trương, chính sách
và điều hành của các cơ quan quản lý ở các cấp bậc khác nhau
nhằm tối đa hóa lợi ích của nhóm mình, bất chấp lợi ích chính
đáng của các nhóm khác, bất chấp việc thực hiện lợi ích đó có
tác động xấu đến sự phát triển chung của xã hội.
Dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp của khái niệm “lợi ích
nhóm” và “nhóm lợi ích” thì trong thực tế, có nhiều loại nhóm
lợi ích đang tồn tại. Có thể, trong thời kỳ trước đổi mới với cơ
chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp, các nhóm lợi ích dù
vẫn tồn tại, nhưng hình thái biểu hiện và ảnh hưởng của chúng
lên đời sống xã hội và đặc biệt là đến việc hoạch định các chính
sách phát triển kinh tế - xã hội khơng mạnh mẽ, rõ ràng và
không gây hiệu ứng lớn như giai đoạn phát triển kinh tế thị
trường về sau này. Thêm nữa, khi bước vào kinh tế thị trường
quá trình dân chủ hóa kinh tế diễn ra cùng với việc mở cửa, hội
nhập đời sống xã hội trở nên đa dạng hơn, phong phú hơn, phân
hóa nhanh và nhiều hơn, những điều kiện cho sự thể hiện, “trỗi
dậy” của lợi ích nhóm và các nhóm lợi ích thuận lợi hơn, nên ở
giai đoạn hiện nay chúng mới xuất hiện và ảnh hưởng đến
đời sống xã hội rõ, mạnh, đa dạng như vậy.
Trong hoạt động con người theo đuổi và bị chi phối bởi
những lợi ích khác nhau. Ở mức độ lớn hơn các nhóm lợi ích
cũng tồn tại, hoạt động nhằm theo đuổi và cũng bị chi phối bởi
các lợi ích chung của các thành viên tạo nên nhóm đó. Lợi ích
được thể hiện trong đời sống và hoạt động của nhóm thành
những mục tiêu cụ thể. Về mặt lý luận thì có thể cùng theo đuổi
một lợi ích cụ thể giống nhau, nhưng lại có nhiều nhóm khác
nhau do sự khác biệt quan điểm, nhận thức về phương thức
17
hoạt động, tổ chức và lựa chọn phương tiện thực hiện lợi ích.
Các nhóm đó có thể cùng tồn tại, tương tác, quan hệ hỗ trợ, hợp
tác và cạnh tranh lẫn nhau, nhưng cũng có thể đối lập với nhau
tùy hồn cảnh cụ thể. Chính sự hoạt động của các cá nhân, các
nhóm lợi ích là một trong những động lực phát triển của xã hội ở
các lĩnh vực, phạm vi, địa bàn, phương diện khác nhau. Mỗi một
nhóm lợi ích theo đuổi một mục đích nhất định trong những thời
kỳ xác định tạo nên vô số véc tơ mục tiêu khác nhau, do đó lại
tạo nên những véc tơ tác động khác nhau lên đời sống xã hội.
Hợp lực chung của các véc tơ đó sẽ hướng xã hội vận động bên
ngồi ý muốn của các nhóm lợi ích đó, khơng phụ thuộc vào bất
cứ nhóm nào, nhưng sự vận động xã hội lại chịu ảnh hưởng của
tất cả các nhóm dù mức độ ảnh hưởng đó của từng nhóm sẽ
khơng thể như nhau.
18
Chương II. Tác động tiêu cực của “Nhóm lợi ích” đến vấn
đề tham nhũng trong chính sách
2.1. Sự tác động của “Nhóm lợi ích” ở Việt Nam hiện
nay
Trước đổi mới, các “nhóm lợi ích” ở nước ta vẫn tồn tại
nhưng hình thái biểu hiện, ảnh hưởng, tác động lên đời sống xã
hội không rõ ràng, mạnh mẽ. Sau đổi mới, “nhóm lợi ích” ở Việt
Nam có điều kiện, mơi trường thuận lợi để hình thành, phát
triển cả về số lượng, quy mơ, tính chất, gây ảnh hưởng, tác
động đến sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, đến việc
hoạch định và thực thi chính sách nói riêng. Kinh tế càng phát
triển, xã hội càng phân hóa, đa dạng, q trình dân chủ hóa đời
sống xã hội được mở rộng thì “nhóm lợi ích” xuất hiện ngày
càng nhiều, ảnh hưởng, tác động của chúng đến xã hội càng
lớn. Chúng xuất hiện ở mọi ngành, lĩnh vực, địa phương, ở mọi
quy mô, cấp độ, đặc biệt là ở những ngành, lĩnh vực quan trọng,
liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân như đất đai, đầu
tư xây dựng cơ bản, tài chính - ngân hàng, khai thác tài nguyên
với những vụ án tham nhũng hay kinh tế nghiêm trọng liên
quan đến nhiều tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trong đó có
nhiều cán bộ cao cấp, tướng lĩnh đã nhúng chàm.
Qua điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, vụ việc tham nhũng,
tiêu cực cho thấy, “nhóm lợi ích” đã tác động đến tất cả các
khâu, công đoạn, quy trình của q trình thực thi chính sách.
Nhìn tổng thể, nước ta chưa có sự lũng đoạn của “nhóm lợi ích”
nhưng đã có biểu hiện, tác động của “nhóm lợi ích” lên q
trình hoạch định và thực thi chính sách. Trong phạm vi nhỏ hơn,
ở một số tỉnh, bộ, ngành đã có sự lũng đoạn của “nhóm lợi ích”.
Và sự chi phối, lũng đoạn về kinh tế sớm hay muộn cũng dẫn
19
đến sự chi phối công tác tổ chức - cán bộ và lũng đoạn về chính
trị trên các phạm vi khác nhau.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI và XII của
Đảng, cùng nhiều hội nghị Trung ương gần đây đã đề cập đến
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, trong đó có
“nhóm lợi ích” với các biểu hiện cụ thể như cục bộ, bè phái, kèn
cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; lợi dụng chức vụ, quyền
hạn được giao để dung dưỡng, bao che, tiếp tay cho tham
nhũng, tiêu cực; lợi dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích
cá nhân hoặc người thân, phe nhóm mình. Đặc biệt, đã xuất
hiện kiểu quan hệ giữa các doanh nghiệp của tư nhân và cơ
quan quản lý nhà nước, can thiệp vào q trình xây dựng, thực
thi chính sách để có đặc quyền, đặc lợi, hình thành “lợi ích
nhóm”; tình trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý của doanh nghiệp
nhà nước móc ngoặc với cán bộ, công chức nhà nước và khu
vực kinh tế tư nhân để hình thành “nhóm lợi ích”, “sân sau”,
lạm dụng chức vụ, quyền hạn, thao túng hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước, trục lợi cá nhân, tham nhũng, lãng phí, gây
tổn hại cho Nhà nước và doanh nghiệp…
Ở Việt Nam, khi kinh tế thị trường càng phát triển thì xã hội
càng đa dạng, phân hóa về các phương diện khác nhau của con
người càng ngày càng bộc lộ rõ hơn, thậm chí ngày càng gia
tăng. Sự xuất hiện và hoạt động của các nhóm lợi ích cũng ngày
một nhiều hơn, mạnh hơn cả về công khai lẫn ngấm ngầm. Các
nhóm lợi ích có thể được xã hội thừa nhận dưới dạng này hay
dạng khác, hay có thể gọi là các nhóm chính thức. Cũng có cả
những nhóm lợi ích khơng được xã hội thừa nhận chính thức,
thậm chí bị xã hội lên án, tẩy chay và tìm cách xóa bỏ. Đó là
những nhóm khơng chính thức, ngấm ngầm tồn tại và hoạt
20
động. Trong mỗi loại nhóm như vậy lại có nhiều dạng khác
nhau. Trong khi xem xét ảnh hưởng của các nhóm lợi ích đối với
việc hoạch định và thực thi các chính sách phát triển kinh tế xã hội phải đồng thời chú ý tác động của cả hai loại nhóm lợi ích
đó. Tác động vào việc hoạch định, thực thi các chính sách của
nhà nước cũng như việc điều hành, quản lý của bộ máy nhà
nước là cách thức chính yếu của các nhóm lợi ích để đạt được
tối đa lợi ích nhóm.
Trong xã hội có nhiều dạng, kiểu, hình thức nhóm lợi ích
khác nhau. Trước đây và ngay cả hiện nay, ở mức độ khá lớn
Việt Nam ta khơng thừa nhận sự tồn tại của các nhóm lợi ích,
nhất là các nhóm lợi ích có tác động đến việc ban hành và thực
thi các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Tính đặc thù của
cơ chế và phương thức phát triển kinh tế - xã hội đã ấn định
điều đó như một tất yếu.
Trong điều kiện nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp,
dựa trên nền tảng chế độ cơng hữu dưới hai hình thức về các tư
liệu sản xuất chủ yếu, mọi quyền lực chính trị, văn hóa, xã hội
và tư tưởng đều chịu sự lãnh đạo tuyệt đối, tồn diện của một
đảng chính trị duy nhất thì tất nhiên khơng thể có sự tác động
của bất cứ một nhóm lợi ích nào, dù chúng thực sự có tồn tại
trong thực tế. Đó là chưa nói đến, về thực chất, các nhóm lợi ích
khi đó khơng thể được thừa nhận là loại nhóm chính thức mỗi
khi chúng có tác động đến việc hoạch định và thực thi các chủ
trương, chính sách hay pháp luật. Trong giai đoạn đó, về căn
bản, xã hội khơng chấp nhận sự tồn tại của các nhóm lợi ích đó.
Do vậy, nói chung, chúng khơng được thừa nhận, quan trọng
hơn, chúng khơng có điều kiện để tồn tại hoặc để gây ảnh
21
hưởng, hay khơng có tiền đề, điều kiện để thực hiện lợi ích của
nhóm mình.
Khi nước ta chuyển sang phát triển kinh tế thị trường, chấp
nhận cùng tồn tại đồng thời nhiều hình thức sở hữu, nhiều
phương thức hoạt động kinh tế, nhiều loại hình kinh doanh, sự
phân hóa xã hội tăng lên, dẫn đến sự hình thành nhiều nhóm lợi
ích khác nhau. Kinh tế thị trường càng phát triển thì các nhóm
lợi ích càng đa dạng, phong phú. Trong điều kiện kinh tế thị
trường xã hội tất yếu phải tồn tại và phát triển các nhóm lợi ích.
Sự tồn tại và hoạt động của các nhóm lợi ích như là một thuộc
tính tất yếu, cố hữu, gắn chặt với kinh tế thị trường. Khi chấp
nhận kinh tế thị trường như là một phương thức hoạt động kinh
tế năng động, hiệu quả nhất của nhân loại thì xã hội được nhiên
phải chấp nhận sự tồn tại và hoạt động của các nhóm lợi ích.
Chính các nhóm lợi ích góp phần tạo nên sự năng động, uyển
chuyển và thay đổi không ngừng của kinh tế thị trường, làm
tăng thêm sự đa dạng, nhiều vẻ của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, không phải ngay từ khi mới xây dựng kinh tế thị
trường đã có ngay các nhóm lợi ích xuất hiện và gây ảnh hưởng
đến việc ban hành, thực thi các chính sách phát triển kinh tế xã hội và điều hành, quản lý xã hội nói chung. Chỉ đến một giai
đoạn phát triển nhất định của kinh tế thị trường thì mới có thể
có được các nhóm lợi ích đủ sức gây ảnh hưởng ít nhiều đến
việc ban hành và thực thi các chính sách phát triển kinh tế - xã
hội. Điều đó có nghĩa là phải có thời gian, tiền đề hay điều kiện
xác định thì các nhóm lợi ích mới có sức mạnh ảnh hưởng đến
việc ban hành và thực thi các chính sách, điều hành, quản lý xã
hội nói chung.
22
Nhưng, dù khi đã đủ thời gian, điều kiện hay tiền đề thì
cũng khơng phải mọi nhóm lợi ích đều có thể tác động đến việc
ban hành, thực thi các chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Trong thực tế cũng chỉ có một số nhóm lợi ích hội đủ một số
điều kiện xác định và trong những thời đoạn nhất định mới có
thể có gây ảnh hưởng đến các chính sách và sự phát triển kinh
tế - xã hội. Mức độ gây ảnh hưởng lại phụ thuộc nhiều yếu tố
khác nhau thuộc về xã hội lẫn nhóm lợi ích.
Các nhóm lợi ích phải có đủ tiềm lực thứ nhất về kinh tế,
hoặc thứ hai về chính trị, hoặc thứ ba (trong thời đại công nghệ
thông tin) về thông tin. Thực chất nội dung của vấn đề này là
nhóm có được những thế mạnh, những thứ mà các nhóm khác
khơng thể có và khơng thể sử dụng một hoặc một số các tiềm
lực nào trong số các tiềm lực nói trên. Dĩ nhiên, để có được một
hoặc một số tiềm lực như vậy thì nhóm lợi ích phải có quá trình
hình thành, tồn tại và tương tác và phát triển trong xã hội chứ
khơng thể có ngay từ khi vừa mới xuất hiện nhóm. Thời kỳ đó
dài hay ngắn, nhanh hay chậm là khác nhau ở các nhóm khác
nhau. Việc tạo dựng các tiềm lực nói trên có thể có nhiều
phương thức khác nhau và mức độ tác động vào việc hoạch
định và thực thi các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trước
hết, phụ thuộc nhiều vào tiềm lực kinh tế của nhóm lợi ích.
Thơng thường ở các quốc gia cơng nghiệp phát triển thì các
nhóm lợi ích, các tập đồn cơng nghiệp lớn có tiềm lực kinh tế
lớn nên cũng có những tác động rất mạnh đến việc hoạch định
và thực thi chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Thậm chí, có
khi có tác động quyết định đến việc bầu cử tổng thống hoặc thủ
tướng, rồi từ đó chi phối nhiều đến quy trình xây dựng, ban
hành, thực thi, điều hành chính sách trong suốt nhiệm kỳ đó. Ở
23
nước ta sự phát triển của kinh tế thị trường chưa đến mức hình
thành nên các tập đồn cơng nghiệp kiểu như vậy. Nhưng cũng
khơng thể nói là hệ thống các tập đồn nhà nước (xăng dầu,
điện lực, khai khống, hệ thống tài chính - ngân hàng, hệ thống
các doanh nghiệp bất động sản, v.v..) hiện khơng hề có tác
động gì đến việc xây dựng, ban hành và thực thi chính sách của
Nhà nước các cấp từ trung ương đến địa phương.
Dù có tiềm lực kinh tế nhưng các nhóm lợi ích cũng khơng
thể chi phối hồn tồn q trình hoạch định và thực thi các
chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Thơng thường, mỗi chính
sách phát triển kinh tế - xã hội bắt đầu từ khi có dự kiến xây
dựng đến khi ban hành và thực hiện thực tiễn trải qua nhiều
khâu khác nhau. Nghĩa rộng của thuật ngữ bao hàm tồn bộ
q trình đó. Thậm chí, tác động của các nhóm lợi ích khơng
dừng ở khâu ban hành hay thực thi các chính sách mà thơi,
chúng cịn tác động vào cả q trình điều hành, quản lý xã hội
nói chung. Chỉ một quyết định lên hoặc xuống giá một mặt
hàng nào đó như điện hay xăng, dầu, trong một thời điểm cụ
thể có thể mang lại lợi ích kinh tế to lớn cho nhóm lợi ích liên
quan đến mặt hàng đó. Tác động của các nhóm lợi ích vào các
khâu này là khác nhau cả về mức độ lẫn nội dung chính sách,
thời gian ban hành và phạm vi, thời hạn hiệu lực của chính sách
cũng như q trình thực thi chính sách và quản lý xã hội nói
chung. Sự tác động của các nhóm lợi ích phụ thuộc rất nhiều
vào thể chế, vào tổ chức bộ máy nhà nước, phụ thuộc vào hệ
thống pháp luật, chất lượng đội ngũ lãnh đạo và công chức, trực
tiếp liên quan đến việc hoạch định, thực thi chính sách, quản lý
xã hội, phụ thuộc cả vào tác động của các nhóm lợi ích khác.
24
Tiềm lực kinh tế ở đây không hẳn chỉ là “sự giàu có, lắm bạc
nhiều tiền” để có thể khuynh đảo giá cả hay thị trường nói
chung mà chính là ở khả năng “tác động về phương diện kinh
tế” vào bất cứ một hoặc một vài khâu nào đó của q trình
hoạch định, thực thi các chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Theo nghĩa tiêu cực, đó có thể là hối lộ, móc ngoặc, trao đổi,
thỏa thuận cùng nhau về một nội dung kinh tế nào đó. Mặc dầu
cho đến nay, trong các văn kiện chính thức, hình thức tác động
bằng tiềm lực kinh tế này chưa được thừa nhận. Trong giới
nghiên cứu, những khâu, công đoạn và phương thức tác động
của các nhóm lợi ích sử dụng tiềm lực kinh tế chưa được nghiên
cứu và kết luận. Nhưng qua các tài liệu được công bố trên các
phương tiện thông tin đại chúng như các vụ án Đại lộ Đơng Tây, Vụ Vinashin - Dương Chí Dũng, vụ Huyền Như, hay vụ Tổng
Công ty đường sắt của Bộ Giao thông Vận tải đang được điều tra
cho thấy các nhóm lợi ích đã trực tiếp sử dụng tiềm lực kinh tế
tác động vào việc hoạch định, thực thi các chính sách phát triển
kinh tế - xã hội để trục lợi. Đi sâu vào nội dung từng vụ án
chúng ta mới thấy được tính chất đa dạng, phức tạp và tinh vi,
nhưng lại ảnh hưởng rất sát sườn, ngay bên cạnh, bên trong bộ
máy hoạch định, thực thi chính sách phát triển kinh tế - xã hội,
trong bộ máy quản lý các cấp, các cơng đoạn thực thi chính
sách. Phương thức kinh tế gây ảnh hưởng của các nhóm lợi ích
ln tồn tại bên cạnh bộ máy và tồn bộ các khâu hoạch định,
thực thi chính sách, ln sẵn sàng tác động theo hướng có lợi
cho lợi ích nhóm, đặt lợi ích nhóm lên địa vị cao nhất.
Nhóm lợi ích là một hiện tượng xã hội tồn tại trên cả hai
phương diện tích cực và tiêu cực, nhưng sự chú ý hiện chủ yếu
được tập trung vào các nhóm lợi ích đặc quyền, đặc lợi (còn gọi
25