TÀI LIỆU ÔN TẬP MÔN NGỮ VĂN ĐÀO TẠO LIÊN THÔNG
TỪ TRUNG CẤP LÊN CAO ĐẲNG NGÀNH QUÂN SỰ.
I:LỊCH SỬ VĂN HỌC:
Câu 1: Trình bày tóm tắt những đặc điểm cơ bản của văn học Việt
Nam từ cách mạng tháng Tám 1945 đến 1975
a. Văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với
vận mệnh chung của đất nước:
+ Khuynh hướng tư tưởng chủ đạo là tư tưởng cách mạng, văn học là vũ khí
phục vụ sự nghiệp cách mạng.
+ Tập trung vào đề tài Tổ quốc: bảo vệ đất nước, đấu tranh giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước.
+ Nhân vật trung tâm là người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang.
b.Nền văn học hướng về đại chúng:
+ Đại chúng vừa là đối tượng phản ánh chủ yếu vừa là nguồn cung cấp, bổ
sung lực lượng cho sáng tác văn học.
+ Hình tượng chính của văn học giai đoạn này là hình tượng người chiến sĩ,
người lao động, hình tượng quần chúng với tư tưởng và tư thế mới của người
làm chủ cuộc sống.
+ Các hình thức biểu hiện gần gũi, quen thuộc với đại chúng, ngôn ngữ trong
sáng.
c. Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn:
+ Khuynh hướng sử thi:
~ Văn học phản ánh những sự kiện, những vấn đề có ý nghĩa lớn lao, tập trung
thể hiện chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng.
~ Nhân vật chính thường là những con người tiêu biểu cho lí tưởng chung của
dân tộc, kết tinh phẩm chất cao quý của cộng đồng, gắn bó số phận mình với số
phận của đất nước.
~ Lời văn mang giọng điệu trang trọng, hào hùng, thiên về ngợi ca, ngưỡng mộ.
+ Cảm hứng lãng mạn: chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương
diện lí tưởng của cuộc sống mới và vẻ đẹp của con người mới, ca ngợi chủ
nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Cảm hứng lãng mạn gắn liền với khuynh hướng sử thi.
Câu 2: Trình bày quan điểm sáng tác văn chương của Hồ Chí
Minh.
- Văn nghệ phải phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp Cách mạng, nhà văn là nhà
chiến sĩ.
- Người luôn chú ý đến tính chân thật và tính dân tộc của văn học. Nhà văn phải
miêu tả cho hay, cho chân thật và cho hùng hồn hiện thực phong phú của đời
sống và phải giữ cho tình cảm chân thật. Mặt khác, nên chú ý phát huy cốt cách
dân tộc và có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
- Văn chương trong thời đại cách mạng phải coi quảng đại quần chúng là đối
tượng phục vụ. Bởi vậy trước khi viết Người luôn đặt ra các câu hỏi: Viết cho
ai?(đối tượng); Viết để làm gì? (mục đích) rồi mới đến Viết cái gì?(nội dung) và
Viết như thế nào? (hình thức).
Câu 3: Trình bày giá trị lịch sử và giá trị nghệ thuật của bản Tun ngơn
độc lập (Hồ Chí Minh)
- Giá trị lịch sử: Là văn kiện lịch sử vô giá, là lời tuyên bố của một dân tộc đã
đứng lên xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, thực dân, thốt khỏi thân phận
thuộc địa để hịa nhập vào cộng đồng nhân loại với tư cách là một nước độc lập,
dân chủ, tự do.
+ Giá trị nghệ thuật: Là áng văn chính luận mẫu mực với lập luận chặt chẽ, lí
lẽ đanh thép, những bằng chứng xác thực, giàu sức thuyết phục, ngôn ngữ gợi
cảm, hùng hồn.
Câu 4: Hãy nêu những nét chính trong phong cách thơ Tố Hữu
Tố Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản, thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh
hướng thơ trữ tình chính trị:
- Lí tưởng cách mạng, quan điểm chính trị chi phối cách nhìn nhận và cảm xúc
về mọi phương diện kể cả đời sống riêng tư.
- Mọi vấn đề chính tri, mọi sự kiện của đời sống cách mạng đều trở thành nguồn
cảm hứng nghệ thuật, tạo sự thống nhất giữa tuyên truyền cách mạng và cảm
hứng trữ tình.
- Nhà thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn.
b. Thơ Tố Hữu gắn liền với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
- Tập trung thể hiện ở những vấn đề lớn lao, trọng đại của cách mạng, dân tộc.
- Nhân vật trữ tình tập trung những phẩm chất của giai cấp, của dân tộc mang
tầm vóc thời đại, lịch sử.
- Thơ ln hướng tới tương lai, khơi dậy niềm tin tưởng lạc quan vào sự nghiệp
tất thắng của dân tộc.
c.Thơ Tố Hữu có giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, tha thiết- giọng của tình
thương mến.
- Nhiều vấn đề chính trị, cách mạng đã được thể hiện như những vẫn đề của tình
cảm mn đời.Lối xưng hô thân mật.
- Chất giọng Huế ngọt ngào.
- Quan niệm của Tố Hữu về thơ: thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói
đồng chí.
d.Thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc:
Câu 5: Hãy nêu hồn cảnh ra đời và ý nghĩa lịch sử của bản Tuyên ngôn
độc lập (Hồ Chí Minh).
Hồn cảnh ra đời
- Ngày 19/08/1945, chính quyền Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26/08/1945, Hồ
Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội và tại căn nhà số 48
phố Hàng Ngang, Người đã soạn “Tuyên ngôn Độc lập”.
- Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Người đã đọc bản “Tun ngơn
Độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- “Tun ngơn Độc lập” ra đời trong một tình thế vô cùng cấp bách : nền độc lập
vừa mời giành được bị đe dọa bởi các thế lực phản động, bọn đế quốc thực dân
đang chuẩn bị chiếm lại nước ta: tiến vào từ phía Bắc là quân đội Quốc dân đảng
Trung Quốc, đằng sau là đế quốc Mĩ; tiến vào từ phía Nam là quân đội Anh, đằng
sau là lính viễn chinh Pháp. Lúc này thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là đất
“bảo hộ” của người Pháp bị nhật xâm chiếm, nay Nhật đầu hàng, vậy Đông Dương
đương nhiên phải trở lại với người Pháp.
Ý nghĩa lịch sử:
-Chấm dứt hơn 80 năm đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, nhân dân bị mất tự do,
biết bao nhiêu cuộc khởi nghĩa của nhân dân chìm trong biển máu
-Mở ra một thời kì mới, thời kì đấu tranh bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc
và xây dựng đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
II: NGHỊ LUẬN XÃ HỘI:
ĐỀ 1: Hãy viết một bài văn ngắn ( khoảng 400 từ) trình bày suy nghĩ của bản
thân về câu nói: “Tình thương là hạnh phúc của con người”
Ca dao Việt Nam có câu “Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống
nhưng chung một giàn. Hay Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một
nước thì thương nhau cùng”. Hạnh phúc nhất của con người là được sống được
thương yêu nhau và câu nói “Tình thương là hạnh phúc nhất của con người”
ln mạng lại một tình cảm ấm áp cho nhau.
Như vậy tình thương là một tình cảm nồng nhiệt làm cho chúng ta gắn bó
mật thiết và có tình cảm với nhau, có trách nhiệm với người và với tất cả mọi
vật xung quanh. Còn hạnh phúc là một trạng thái sung sướng vì cảm thấy hồn
tồn đạt được ý nguyện và tại sao tình thương là hạnh phúc của con người vì
tình thương hướng con người đến với nhau, biết chia sẻ, cảm thông đùm bọc lẫn
nhau như vậy là thõa mãn mọi ý nguyện đã được hưởng đã được sung sướng,
hạnh phúc mà tình thương mang lại.
Ý nghĩa của tình thương được biểu hiện như: Cha mẹ thương yêu con cái,
hi sinh bản thân mình vì con cái, con cái mgoan ngoãn cha mẹ hạnh phúc. Hay
chủ tịch Hồ Chí Minh với lịng u nước thương dân, Bác đã hi sinh cuộc đời
mình để ra đi tìm đường cứu nước, Bác ln lấy tình u thương con người làm
mục đích và hạng phúc nhất của cuộc đời mình. Và tình thương được nâng cao
lên thành tình yêu nhân loại “Thương người như thể thương thân”, nó mang giá
trị nhân đạo.
Như vậy tình thương là hạnh phúc của con người rất đúng. Bản thân tơi
lựa chọn cho mình phương châm sống này, sống có đạo đức, có nhân cách và
hành động vì tình thương.
Bên cạnh những con người sẵn sàng hi sinh mình, sống vì tình thương,
trách nhiệm cịn có những con người sống thờ ơ, vơ cảm, thiếu tình thương yêu,
không biết quan tâm, chia sẻ, đồng cảm, giúp đỡ người khác, sống mang tính
chất cá nhân.
Tình thương là một lẽ sống cao đẹp của con người, đúng như nhận định
“giá trị cao đẹp nhất của con người là tình thương”, nó vượt lên trên tất cả, nó
có một sức mạnh vơ hình để kết nối giữa người với người, giữa các dân tộc với
nhau. Để tình thương thật sự trở thành hạnh phúc của con người, mỗi chúng ta
phải biết vươn lên tìm thấy niềm vui của mình trong hạnh phúc của người khác.
Đề 2: : Hãy viết một bài văn ngắn ( khoảng 400 từ) trình bày suy nghĩ của bản
thân ý kiến sau: “Phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người cũng quan
trọng và cần thiết như ca ngợi lịng vị tha, tình đồn kết”
Cố nhạc sĩ Trịnh Cơng Sơ có ca từ nổi tiếng “Sống trên đời sống cần có
một tấm lịng, để làm chi em có biết khơng?”. Trong cuộc sống xung quanh ta
ln có nhiều người tốt nhưng cũng có những kẻ khơng tốt. để xây dựng một
cuộc sống tươi đẹp, chúng ta cần đấu tranh chống lại những thói xấu chứ khơng
đơn thuần ca ngợi bản tính tốt đẹp của con người. Cho nên mới có ý kiến : “Phê
phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người cũng quan trọng và cần thiết
như ca ngợi lịng vị tha, tình đồn kết”.
Và những biểu hiện của thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người như:
Trong một gia đình với nhau ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, không quan
tâm đến tình cảm vui buồn của nhau, khơng quan tâm đến vật chất lẫn tinh thần
của người thân.
Với bạn bè, mọi người xung quanh, không quan tâm đến nỗi đau hay sự
thiệt hại của bạn bè đồng nghiệp, hàng xóm láng giềng.
Hay trước những quốc gia- nước bạn có thiên tai, chiến tranh…Bàng
quan trước nỗi đau của đồng bào hay số phận quốc gia. Thái độ dửng dưng
trước nỗi đau của nhân loại. Và nếu chúng ta thờ ơ, ghẻ lạnh như vậy sẽ dẫn đến
hậu quả.
Sự thiệt hại về vật chất của người bị hoạn nạn sẽ tăng lên. Ví như thấy
nhà người khác cháy mà khơng cứu. Thấy người bị tai nạn giao thông mà bỏ đi
không giúp đưa đi bệnh viện kịp thời…và thái độ thờ ơ lúc này đồng nghĩa với
tội ác. Dẫn đến sự mất mác về tình cảm của người của người bất hạnh là không
thể bù đắp. Người bất hạnh sẽ mất niềm tin vào cuộc sống. ví như cha mẹ li
hơn, bỏ rơi con cái…Không người chia sẻ động viên lúc đau buồn nên nhiều
người rơi vào bệnh trầm cảm.
Nói chung thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh khiến cho cuộc sống mất đi phần lớn sự
thi vị giá trị và ý nghĩa.
Như vậy chúng ta phải đấu tranh phê phán lối sống ích kỉ.
Chúng ta khơng nên ghét bỏ họ mà dùng lời lẽ thuyết phục để phân tích,
động viên khuyến khích kịp thời. Chúng ta nên xây dựng những phong trào làm
việc thiện để khơi dậy lịng nhân ái, đồn kết.
Bên cạnh đó cũng nên tuyên truyền đạo lý, pháp luật thơng qua trường
học và báo chí.
Xác định rõ vai trị của chính quyền, điạ phương trong vấn đề phê phán
này, họ cũng có một phần trách nhiệm để kết nối.
Như vậy Phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người cũng quan
trọng và cần thiết như ca ngợi lịng vị tha, tình đồn kết. Tất cả mọi người cần
phải có lương tâm và trách nhiệm cơng dân. Đặc biệt đối với bản thân tôi luôn
sống nhân ái, u thương, giàu lịng vị tha, có tình đồn kết cộng đồng, khơng
quay lưng trước những cảnh ngộ khó khăn, biết thông cảm, chia sẻ và cúi xuống
để thấu hiểu cho một những kiếp người, những mảnh đời. Có được như vậy mới
mong xã hội văn minh phát triển và “ Người với người sống để yêu thương
nhau”.
Đề 3: : Hãy viết một bài văn ngắn ( khoảng 400 từ) trình bày ý kiến của mình về
hiện tượng “nghiện” Intern trong nhiều bạn trẻ hiện nay.
Trong suốt dòng lịch sử của con người, đã có những con người phải vất
vả chống lại thói nghiện ngập, nào là nghiện rượu, nghiện ma túy, cũng như
những thói quen khơng thể bỏ được, chẳng hạn như bài bạc. Giờ đây các nhà
tâm lí học ở nhiều quốc gia lại lưu ý đến một tình trạng khẩn cấp phải đối phó
với một chứng tật ham mê, đó là nghiện Internet.
Nghiện là gì? Nó là một yếu tố kích thích vào làm gây hưng phấn thần
kinh, lâu dần thành một thói quen khơng thể kiểm sốt nổi và nó trở thành tác
hại cho sức khỏe và cả tính mạng.
Và nghiện Internet là say mê với thế giới ảo qua máy vi tính. Những kiểu
bệnh chính của nghiện Internet là tình dục qua máy tính, chơi game online, đánh
bạc trực tuyến, thậm chí là nghiện vào trang đấu giá trực tuyến e Bay…
Đối với giới trẻ hiện nay, nghiện Internet chủ yếu là nghiện chơi game
online.
Những biểu hiện của nghiện Tnternet, các bạn quên cả thời gian, sao lãng
chuyện ăn uống mà đặc biệt là mất ngủ. Trạng thái tâm lí lúc nào cũng căng
thẳng, túc giận, khi thì bồn chồn vì khơng thể lên mạng. Đơi khi biểu hiện của
các bạn ít nói, khơng giao tiếp, dẫn đến trầm cảm hay nổi nóng và tách biệt
mình ra khỏi xã hội này.
Hiện nay, ở tại Trung Quốc có 13,7% trẻ, tức là hơn mười triệu trẻ em
đang nghiện Internet. Số liệu từ các trung tâm cai nghiện Internet cũng cho biết
hiện nay có khoảng 5-10% dân số nước Mĩ bị chứng bệnh này. Như vậy trên
khắp các nước ở đâu cũng có chứng bệnh nghiện Titernet mà nguyên nhân từ
đâu?
Nguyên nhân các bệnh nghiện thường rất giống nhau. Do bản thân của
chúng ta thiếu tự chủ, bị các trị chơi trực tuyến lơi cuốn, thời gian đầu chỉ thử
cho vui, sau lâu dần thành thói quen khơng thể nào bỏ được. Bên cạnh đó có
những người mượn Titernet để giải khuây, giải sầu, giảm stress nhưng sau đó bị
nghiện khơng thể bỏ được. Và từ đó dẫn đến tác hại.
Nếu chúng ta quá nghiện Internet sẽ dẫn đến mất hết thời gian học tập
hoặc làm việc mà thời gian là “vàng”, chúng ta quá mất thời gian là ta đã mất đi
tất cả. Sức khỏe mỗi ngày càng giảm sút, nguy hại đến tính mạng, đã có bạn trẻ
chết trước bàn phím. Chính vì vậy mà chúng ta phải có biện pháp khắc phục.
Chúng ta tự mình điều chỉnh hành vi của chính mình, tự chiến thắng sự
cám dỗ của bản thân. Gia đình, nhà trường phải có biện pháp kiểm soát chặt chẽ
đối với các em. Nhưng nếu bệnh nặng cần phải đưa đến trung tâm điều trị.
Như vậy Internet có vai trị vơ cùng quan trọng trong đời sống và bản
thân của mỗi người. Ở đó chúng ta học được bao nhiêu điều bổ ích, tuy vậy vẫn
có mặt trái của nó thật đáng tiếc và bản thân tơi đón nhận Internet là để phục vụ
cho nhu cầu học tập, làm việc và đôi khi cũng có chút giải trí nhưng khơng để
mình lệ thuộc nó và mất tự chủ và Trong xã hội văn minh, thời đại 4.0 này
không thể thiếu được nó.
Đề 4: : Hãy viết một bài văn ngắn ( khoảng 400 từ) trình bày suy nghĩ của bản
thân về vấn đề ô nhiễm môi trường tự nhiên ở nước ta hiện nay.
Như chúng ta đã biết, môi trường “lá phổ xanh” nhưng hiện nay lá phổi
xanh ấy không cịn trong lành ngun vẹn, nó đang trở thành vấn đề trọng tâm
của toàn xã hội và được dư luận hết sức quan tâm. Ơ nhiễm mơi trường đang
diễn ra ngày ngày, hàng giờ và ngày càng trở nên phức tạp rất nhiều. Ơ nhiễm
mơi trường đã và đang để lại những hệ lụy hết sức khơn lường cho tồn nhân
loại.
Môi trường sống của con người bao gồm môi trường nước, khơng khí và
đất. Hiện nay mơi trường xung quanh ta đang dần chuyển biến xấu. Như sự biến
đổi khí hậu, trái đất dần nóng lên do hiệu ứng nhà kính, băng ở hai cực sẽ tan,
nước biển dâng cao, một số vùng lãnh thổ sẽ chìm trong nước biển. Chaatsclo
và brom đang phs thủng tầng ơ-zơn khiến tia có hại từ mặt trời có thể gây nhiều
bệnh như ung thư da.
Đất bị ô nhiễm do chất thải công nghiệp, nhiều vùng bị sa mạc hóa do
hiệu ứng nhà kính và nạm phá rừng,diện tích sản xuất cây lương thực sẽ bị thu
hẹp. Săn bắt thú hoang và nạn phá rừng cũng bị thu hẹp địa bàn sinh sống của
muôn thú và thảm thực vật, ảnh hưởng đến cân bằng sinh thái, lũ lụt và hạn hán
sẽ xảy ra bất thường. Bên cạnh đó nguồn nước của chúng ta cũng khơng cịn
trong sạch.
Nguồn nước bị ơ nhiễm do chất thải của các nhà máy, của cách sinh hoạt
bừa bãi khiến cho các sinh vật bị tận diệt; nước ngầm khai thác quá mức đến
mức báo động. Một số vùng dân cư ở châu Phi bị thiếu nước trầm trọng. Nguồn
nước sinh hoạt không đủ và kém chất lượng là nguyên nhân dẫn đến nhiều bệnh
tật. Theo ytecongcong.com, từ trong các nước kém phát triển, một phần ba
trường hợp tử vong và bệnh tật là kết quả trực tiếp của các ngun nhân từ mơi
trường.
Tóm lại, ơ nhiễm và suy thối mơi trường đang đe dọa tính mạng của dân
chúng tồn cầu và đang làm giảm tuổi thọ của hành tinh xanh. Bỡi vậy chúng ta
phải có biện pháp khắc phục và hành động bảo vệ. Ơ nhiễm mơi trường đây là
một vấn đề hệ trọng trở thành chủ trương- chương trình hành động của cá quốc
gia và tồn thế giới, tuy vậy nó vẫn phải được thực hiện bỡi từng thành viên,
từng bộ phận trong cộng đồng. Và kêu gọi mỗi cá nhân phải có ý thức khơng xả
rác bừa bãi. Không sử dụng các sản phẩm được khai thác từ thiên nhiên nếu
chưa được phép. Và bản thân tôi ý thức góp phần làm xanh, sạch đẹp mơi
trường ngay ở nhà của mình, nơi cơ quan làm việc hay trong thơn xóm, hay
những nơi cơng cộng…
Vậy ơ nhiễm mơi trường là một trong những vấn đề hết sức cấp bách hiện
nay, chúng ta những thế hệ trẻ- chủ nhân tương lai của đất nước khgoong thể
làm ngơ trước những hiện tượng này. Bằng mọi cách hãy hành động bảo vệ môi
trường, bảo vệ môi trường là bảo vệ cuộc sống của chúng ta.
Đề 5 : Hãy viết một bài văn ngắn ( khoảng 400 từ) trình bày ý kiến của mình về
câu nói của nhà văn Nga Leptơnxtơi: “Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Khơng
có lý tưởng thì khơng có phương hướng kiên định, mà khơng có phương hướng
thì khơng có cuộc sống”
Victor Hugo đã từng nói một câu nổi tiếng “Linh hồn của con người vẫn
cần lý tưởng hơn thực tế. Chúng ta tồn tại nhờ thực tế; nhưng chúng ta sống vì
lý tưởng”. Khi sống con người cần có mục tiêu lý tưởng để phấn đấu. Nhờ đó
mà con người đạt được thành tựu nhất định trong cuộc đời. Khẳng định vai trò
của lý tưởng, nhà văn lớn của nước Nga thế kỉ XIX là Leptơn-xtoi có nói: Lý
tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Khơng có lý tưởng thì khơng có phương hướng
kiên định, mà khơng có phương hướng thì khơng có cuộc sống.
Như vậy tại sao nói lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường? Lý tưởng là gì? Lý
tưởng là cái mục đích cao nhấ, t tốt đẹp nhất mà người ta phấn đấu để đạt tới.
Lối so sánh ví von này cho thấy lý tưởng sẽ soi đường cho chúng ta đi đúng
hướng. Lý tưởng luôn ở phía trước mà trên đường đời chúng ta từng bước phấn
đấu thực hiện. Phải hành động thường xuyên liên tục, thậm chí suốt cả cuộc đời
mới thực hiện thành cơng lý tưởng. Do đó nếu chúng ta khơng có lý tưởng thì
khơng có phương hướng kiên định. Nghĩa là trên đường đời chúng ta khơng xá
định được chí hướng nên dễ thay đổi hướng hành động và khơng có động lực
mạnh mẽ để hành động. Và khi chúng ta không có phương hướng thì khơng có
cuộc sống. Khái niệm cuộc sống trong văn cảnh này được hiểu theo nghĩa hẹp:
Không có lý tưởng thì cuộc sống nghèo nàn vơ vị, mất hết ý nghĩa.
Vậy lý tưởng có vai trị như thế nào trong cuộc sống của mỗi con người.
Khi chúng ta xác định được lý tưởng thì chuings ta có mục tiêu để phấn đấu,
nhờ đó mà tự hình thành niềm say mê, có động cơ thúc đẩy mạnh mẽ khi hành
động như tuổi trẻ sống mà khơng có lý tưởng lười học, nhác lao động sẽ sớm
nhiễm phải những tệ nạn xã hội ăn chơi, đua đòi, cờ bạc, rượu chè… Hay những
học sinh cá biệt trong nhà trường hiện nay chủ yếu là do cách sống buông thả,
sống khơng có lý tưởng. Nhờ có động cơ thúc đẩy khiến cá nhân tự đánh thức
năng lực tiềm tàng, không ngừng vươn lên trên khart năng bản thân, đạt được
những thành tựu kì diệu, trong học tập, nghiên cứu, kinh doanh, lao động…Nhờ
có lý tưởng mà trong q trình thực hiện khiến con người ta có lối sống đẹp và
nhân cách đẹp, loại được nhiều thói quen xấu. Nhờ có lý tưởng mà bản thân tơi
có được một cuộc sống giàu ý nghĩa, đóng góp nhiều cho xã hội, gia đình và
bản thân, thấy đời đáng quý hơn, đẹp hơn. Khi xây dựng lý tưởng chúng ta
không nên xác định là lý tưởng quá xa vời hay ảo tưởng. Và bản thân tơi xác
định câu nói lý tưởng là lối sống tích cực lấy đó làm kim chỉ nam để thực hiện
mọi cơng việc, có như vậy cuộc sống mới có ý nghĩa. Bên cạnh những tấm
gương sống có lý tưởng thì có những người sống khơng có lý tưởng khơng có
mục đích đáng lên án phê phán.
Đúng như Bê-lin-ski nói “Tuổi trẻ khơng có lý tưởng như tuổi trẻ khơng
có mặt trời”, nghĩa là lý tưởng sống tất yếu phải có trong mỗi người trẻ, khơng
có lý tưởng sống sẽ khơng có cuộc sống thật sự. Vấn đề lý tưởng hết sức quan
trọng đối với tuổi trẻ, nó là hành trang cho chúng ta vào đời.
III: NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
Đề 1: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc
thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Minh Châu sinh (1930-1989), là cây bút tiên phong của văn học
Việt Nam sau đổi mới. Ông “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh
và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” (Ngun Ngọc), sau 1975 ngịi bút của
ơng chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lý nhân
sinh. Ông nổi tiếng cả tiểu thuyết và truyện ngắn nhưng bạn đọc đón nhận nhiều
nhất là truyện ngắn với những tác phẩm như Mảnh trăng cuối rừng, Bến quê,
người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành…Mà đặc biệt là truyện ngắn Chiếc
thuyền ngoài xa, truyện ngắn được viết vào tháng 8 năm 1983, in trong tập
truyện cùng tên, là một tác phẩm tiêu biểu của ông sau 1975. Tác phẩm ra đời
trong bối cảnh đất nước thống nhất, tác phẩm có xu hướng hướng nội, khai thác
sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường. Có thể nói “ Chiếc
thuyền ngoài xa” là một biểu hiện của xu hướng tìm tịi khám phá trong văn của
Nguyễn Minh Châu trở về với đời thường, với mảnh đất miền trung cằn cỗi và
cơ cực, đau đáu đi tìm câu hỏi cho những phận người trong cuộc sống đời
thường trăm đắng nghìn cay. Ông muốn thể hiện một quan niệm văn chương
trước hết phải là câu chuyện của con người, với muôn mặt phong phú với tất cả
chiều sâu mà đặc biệt là nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn này.
Viết về những người phụ nữ, những người đàn bà lam lũ cực khổ cả đời
NMC không chỉ kiếm tìm, tơn vinh vẻ đẹp, phẩm chất của họ mà nhà văn cịn lý
giải cội nguồn vẻ đẹp ấy chính là lòng nhân ái, đức hạnh, phẩm tiết bám sâu
trong tâm hồn, tâm linh con người. Tuy vậy để hiểu con người thật khó, đối với
phụ nữ càng khó hơn, đặc biệt là đối với những hoàn cảnh phức tạp, khơng cho
phép ta nhìn nhận hời hợt bên ngồi. Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, nhà
văn đã giới thiệu chị là một người phụ nữ mang số phận đau khổ, bi kịch đến tội
nghiệp. Cái xấu đeo đuổi chị như định mệnh suốt từ khi còn nhỏ, rồi lại có
mang với một anh hàng chài đến mua bả, rồi cuối cùng thành vợ chồng với
người đàn ông khác. Cuộc sống trên biển cực nhọc, vất vả, bấp bênh.
Gia đình nghèo lại đơng con, thuyền thì chật…Bị chồng thường xuyên
đánh đập cứ “ba ngày là một trận nhẹ, năm ngày là một trận nặng”. Cứ khi nào
lão chồng thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh một
con thú với lời lẽ cay độc “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho
ông nhờ”. Quả thực người đàn bà có cả một cuộc đời khốn khổ, cơ cực, nhọc
nhắn. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất học, lạc hậu.
Chị là một người đàn bà khơng có tên, nhà văn gọi là người đàn bà, đó là
một cách gọi phiếm định, khi thì gọi người đàn bà hàng chài, lúc gọi là mụ, khi
gọi chị ta…chị là một người vô danh giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng
biển nhỏ bé này, chị tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người
phụ nữ không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam.
Và chị cũng là người đàn bà có ngoại hình bất hạnh, ấn tượng đầu tiên chị
bước ra từ chiếc thuyền đánh cá là những nét khắc khổ trong số phận hiện lên
trên khuôn mặt, người đàn bà hàng chài xấu xí tàn tạ “trạc ngồi 40 tuổi, thân
hình cao lớn, đường nét thơ kệch, mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm
thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc
nhằn, lam lũ, vất vả đau khổ làm cho diện mạo của chị đã xấu giờ trở nên thơ
kệch. Nhưng bù lại chị có một tính cách, phẩm chất tuyệt vời. Chị là một người
đàn bà cam chịu, nhẫn nhục, trước những trận đòn của chồng “Lão rút trong
người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, chẳng nói chẳng rằng, lão
trút cơn giận như lửa cháy, quật tới tấp lên lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa
thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến vào nhau ken két, cứ mỗi nhát quất xuống
lão lại nguyễn rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn “Mày chết đi cho ông nhờ,
chúng mày chết hết đi”. Cứ như thế “Ba ngày là một trận nhẹ, năm ngày là một
trận nặng”, khi bị đánh chị cũng không chạy trốn, không chống trả, không một
tiếng kêu la mà coi đó là một lẽ đương nhiên. Người đàn bà cam chịu nhẫn nhục
thầm lặng, chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đừa con, chị khơng muốn
chúng nó nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ, chị xin chồng lên bờ mà đánh khi các
con lớn, chị xót xa đau đớn khi chứng kiến cảnh thằng Phác đánh cha: “Như
một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ xuyên qua tâm hồn người đàn
bà và làm rỏ xuống những giọt nước mắt..”
Bằng một vài chi tiết chọn lọc, nhà văn đã gợi ra bao điều đau xót về bi
kịch cuộc đời của một người phụ nữ cực khổ, lam lũ, bất hạnh. Số phận là thế
nhưng chị sống rất sâu sắc, giàu lòng tự trọng, từng trải, thấu hiểu lẽ đời. Chị
được mời đến tòa án huyện để giải quyết việc gia đình, lúc đầu chị rụt rè, sợ sệt,
lúng túng, khi đến một không gian lạ, chị thật tội nghiệp rồi chị van xin “Xin
các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu” “Q tịa bắt tội con cũng được, phạt tù
con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Trước những lời của Đẩu thân mật,
chia sẻ, cảm thông, người phụ nữ đã tâm sự “Ông trời sinh ra người đàn bà là để
đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn” và trong cuộc sống mưu sinh chị cần
một người đàn ông khỏe mạnh để làm chỗ dựa chèo chống khi phong ba bão táp
“Đàn bà trên thuyền của chúng tôi phải sống cho con, khơng thể sống cho mình
như trên đát được”. Chị phải sống cho con chứ không thể sống cho mình.
Chị thâm trầm, sâu sắc, hiểu lẽ đời, một người mẹ có trái tim ấm áp
thương u con vơ bờ, thiên chức của người mẹ. Rồi chị nhìn thẳng lên nói “chị
cảm ơn các chú, lịng các chú tốt nhưng các chú đâu phải là người làm ăn…cho
nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ, khó nhọc”.
Người đàn bà kia khơng hề đơn giản, chị biết chấp nhận đau khổ, xem nỗi khổ
vận vào đời mình như một lẽ đương nhiên, chị sống cho các con, phải chẳng đó
là một sự hi sinh đánh đổi đầy nhân bản.
Người đàn bà hàng chài là một người phụ nữ thương chồng,hiểu chồng
thương con vô bờ bến vị tha và giàu đức hi sinh. Chị thấu hiểu cho chồng vì sao
anh trước đây là một người cục tính, hiền lành, biết nghĩ cho vợ con nhưng vì
cuộc sống mưu sinh đã làm cho anh tha hóa, chúng ta khơng chấp nhận hành vi
tội lỗi của ông nhưng chúng ta phần nào cũng cảm thông. Nhưng đặc biệt ở tâm
hồn người đàn bà này vẫn luôn giữ ngọn lửa của hy vọng của niềm tin để thắp
lên hạnh phúc mong manh. Trong đau khổ triền miên, người đàn bà vẫn chắc
lọc được niềm hạnh phúc nhỏ nhoi “Vui nhất là lúc được nhìn chúng nó ăn no”,
“trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tơi hịa thuận vui vẻ”. Như vậy
chúng ta thấy được ở người đàn bà này tuy ít học nhưng rất thấu hiểu lẽ đời,
hiểu người, hiểu mình, người đàn bà này giúp cho Đẩu và Phùng chua chát nhận
ra rằng nỗi nhọc nhằn vất vả trong công việc làm ăn của cư dân miền biển, và
thức nhận cuộc sống bấp bênh của họ, rồi trên thuyền cần có một người đàn ơng
dù hắn man rợ, tàn bạo.
Như vậy hạnh phúc của người đàn bà hàng chài kia thật giản dị mà không
kém phần sâu sắc, thức nhận nỗi đau cũng như thâm trầm để thấu hiểu lẽ đời mà
người đàn bà kia không để lộ ra bên ngoài. Đằng sau sự nhẫn nhục ấy là bản
năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương đáng trân quý, thấp thoáng
trong người đàn bà ấy là bóng dáng biết bao người phụ nữ Việt nam nhân hậu,
bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh. Qua nhận vật người đàn bà hàng chài
NMC khẳng định sự lam lũ, vất vả, nhọc nhắn không làm mất đi nhân phẩm
của người phụ nữ miền biển nói riêng, người phụ nữ Việt Nam nói chung, tấm
lịng u thương, bao dung, nhân hậu, vị tha và nhìn vào những ngơi nhà nào
hạnh phúc thì ở đó có người phụ nữ biết hi sinh và hiện thân đó có lần Tố Hữu
cũng đã nói.
Nhẫn nại ni con, suốt đời im lặng
Biết hi sinh nên chẳng nhiều lời
Bằng nghệ thuật tạo tình huống truyện, biện pháp đối lập giữa hồn cảnh
và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp,
ttam lí đầy mâu thuẫn của con người. Qua nhân vật người đàn bà hàng chài nhà
văn đã có cái nhìn mới mẻ về con người. Ông đã khai thác số phận cá nhân và
thân phận con người đời thường để phát hiện những nét đẹp trong con người
bình thường ấy và nâng lên quan niệm trong sáng tác văn học để đi tìm những
hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người. Bằng tài năng của một cây bút
giàu bản lĩnh, tác giả ssax đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống. Nạn
bạo hành trong gia đình, sự ghèo đói, sự thất học, sự tha hóa về nhân cách…
những ngang trái nghịch lý của cuộc sống, qua nhân vật người đàn bà hàng chài
như một hồi chuông lay tỉnh chúng ta, hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn và cũng
qua đó ta cũng nhận ra khơng thể dễ dãi đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự
vật, hiện tượng của cuộc sống, khơng thể có cái nhìn một chiều phiến diện với
con người và cuộc sống. Tác phẩm của NMC có đóng góp mới mẻ vè nội dung
tư tưởng, về đề tài và làm nên một phong cách nghệ thuật rất riêng.
Đề 2: Cảm nhận vẻ đẹp của hình tượng Đất Nước qua đoạn thơ sau của Nguyễn
Khoa Điềm:
“ Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hồng bay về hịn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ơng móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Khơng gian mênh mơng
Đất Nước là nơi dân mình đồn tụ
Đât là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”.
(Trích Trường ca Mặt đường khát vọng,
Ngữ Văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục, 2008)
Đất nước là một trong những đề tài đa dạng, phong phú, khơi nguồn cảm
hứng sáng tác đến với văn nghệ sĩ, mà nhất là trong thơ ca.Như Đất Nước của
Nguyễn Đình Thi, hơn hết là Nguyễn Khoa Điềm. Ơng là nhà thơ trưởng thành
trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ của ông giàu chất suy tư, tính triết lý
nhưng cũng giàu chất trữ tình và nổi bật với phong cách thơ trữ tình- chính luận
mà phó giáo sư Phan Huy Dũng Từng nhận xét “Thơ của Nguyễn khoa Điềm
thu hút, hấp dẫn người đọc bỡi sự đan kết giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu
lắng. Ngồi Bài thơ Đất Nước ơng cịn có những tác phẩm nổi tiếng như Cõi
Lặng, Ngơi nhà có ngọn lửa ấm, Đất ngoại ô mà tiêu biểu là Trường ca mặt
đường khát vọng. Và đồn trích Đât Nước trích từ chương thứ V trong trường
ca, bài thơ ra đời vào năm 1971, vào những năm kháng chiến chhongs Mĩ ác liệt
ở chiến khu Trị- Thiên. Bài thơ thể hiện cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về
chiều sâu của văn hóa, chiều dài của lịch sử và chieuf rộng của không gian địa
lý qua đoạn thơ sau
“Đất là nơi anh đến trường
…Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”.
Ai sinh ra đều có một đất nước để yêu thương, để tự hào và xem đó là
chốn thiên liêng, tồn tại hiển nhiên từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nếu như các
nhà lịch sử nghiên cứu, khám phá đất nước qua từng giai đoạn hình thành, thời
gian phát triển để đưa ra một cách nhìn khách quan về Đất Nước thì các nhà
thơ, nhà văn học ln tìm hiểu, khám phá Đất Nước từ mạch ngầm văn hóa, từ
những truyền thống tốt đẹp, NKĐ cũng góp vào đó một bản trường ca mà qua
đoạn trích này người đọc cũng hiểu được Đất Nước qua những nét tiêu biểu
trong dòng chảy của thời gian
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nuước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Tác giả đã tách “ Đất”, “Nước” thành một chủ ngữ rồi kết hợp với từ anh, em để
trở thành một đại từ nhân xưng. Nhà thơ đã tách ra và kết hợp lại trở thành danh
từ được ghép lại Đất Nước. Đất Nước là nơi có con đường đến trường, nơi có
bến sơng, nơi có lứa đơi u nhau hị hẹn tương tư qua hình ảnh của “chiếc khăn
trong nỗi nhớ thầm” mà nhà thơ đã mượn trong ca dao “Khăn thương nhớ ai?
Khăn rơi xuống đât”đã làm cho bao trái tim trẻ thương nhớ bâng khuâng, gợi ra
không gian khung cảnh cụ thể, thân quen gần gũi nhưng khơng kém phần đẹp
đẽ, thơ mộng. Đó là không gian sinh tồn qua bao thế hệ. Đất nước ln gắn bó
với anh và em trong suốt cuộc đời, khi lớn lên nhiều mảnh đất trở thành kỉ
niệm. Do đó đất nước gắn liền với chiều sâu của mỗi tâm hồn. Đât nước sẽ mở
rộng ra và lớn lên mãi, theo mỗi cuộc đời lúc ban đầu là ngôi nhà, con đường,
bến sông và xa hơn nữa là không gian rộng lớn với núi sông, rừng biển:
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hồng bay về hịn núi bạc”
Hai câu thơ mượn lời câu ca Bình Trị Thiên đã mở ra một không gian
đẹp, thơ mộng, bát ngát, tráng lệ, huy hoàng vừa thân quen cụ thể vừa lãng mạn
bay bổng như trong huyền thoại. Viết về phong cảnh non sơng gấm vóc giàu có
ấy nhà thơ đã bộ lộ một tình yêu thương đất nước say đắm và luôn hướng về cội
nguồn.
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mơng
Đất Nước là nơi dân mình đồn tụ
Đât là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”.
Đất nước trường tồn trong không gian và thời gian: “Thời gian đằng đẵng,
không gian mênh mông”, để rồi mãi mãi là nơi dân mình đồn tụ, là khơng gian
sinh tồn của cộng đồng người Việt Nam qua bao thế hệ, NKĐ cũng đã đưa ta về
với khởi thủy cội nguồn, dòng giống con người Việt Nam bằng truyền
thuyết“Lạc long Quân và Âu Cơ. Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” và lập ra
triều đại đầu tiên đó là vua Hùng nên dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam
vẫn hướng về dịng gống Rồng Tiên của mình
Đoạn thơ là sự cảm nhận về đất nước từ phương diện bản sắc văn hóa, đất
nước gắn liền với chiều sâu văn hóa dân tộc, chiều dài của lịch sử và chiều rộng
của không gian. NKĐ quan niệm về đất nước là một sự tổng hợp, thống nhất
các phương diện lịch sử, địa lý, văn hóa trong mối liên hệ gắn bó với đời sống
của nhân dân, điều đó góp phần thể hiện cốt lõi của đoạn trích Đất Nước- tư
tưởng đất nước của nhân dân. Đây là một quan niệm mới mẻ, sâu sắc, tiêu biểu
cho quan niệm về đất nước trong văn học cách mạng giai đoạn 1945-1975, góp
phần thức tỉnh tinh thần dân tộc, khơi gợi tình yêu, trách nhiệm với đất nước
của tuổi trẻ ngày nay.
Đoạn thơ sử dụng hiệu quả, sáng tạo thể thơ tự do, chất liệu văn hóa, văn
học dân gian, kết hợp hài hịa giữa chất trữ tình và chính luận, cách cắt nghĩa
khái niệm đất nước theo lối chiết tự.Đoạn thơ thể hiện cách cảm nhận khám phá
mới mẻ, độc đáo về đất nước trên nhiều phương diện, qua đó thể hiện tình u
q hương đất nước sâu sắc của nhà thơ và gởi gắm vào đó ý thức trách nhiệm
của mỗi người về đất nước. Đoạn thơ cũng gợi cho tơi tình u q hương đất
nước, tự hào về đất nước mà yêu nhất là ngay trên q hương của mình. Tác
phẩm của NKĐ có đóng góp xuất sắc về nội dung tư tưởng, về đề tài và làm nên
một phong cách nghệ thuật rất riêng của ông.
Đề 3: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:
“ Dốc lên khúc khủy dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
(Ngữ Văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục, 2008)
Viết về người lính có rất nhiều nhà văn, nhà thơ thành cơng như Chính
Hữu, Nguyễn Minh châu, Nguyễn Quang Sáng…mà tiêu biểu nhất là Quang
Dũng. Quang Dũng Là một nghệ sĩ đa tài, vẽ tranh, soạn nhạc. Ở bất cứ lĩnh vực
nghệ thuật nào ngòi bút của Quang Dũng cũng thể hiện được sự tài hoa và lãng
mạn, đặc biệt đến với thơ ca, hồn thơ của ơng phóng khống, hồn hậu, hào hoa
và lãng mạn, với không gian của thơ ca, mỗi sáng tạo của ông đều làm cho
người đọc say mê. Và Tây Tiến là một bài thơ tiêu biểu cho thơ ca thời kì kháng
chiến chống Pháp, bài thơ được viết năm 1948, tại PHù Lưu Chanh, lúc đó
Quang Dũng rời xa đơn vị cũ- Tây Tiến được một năm, nhớ về đồng đội cũ, nhớ
về mảnh đất miền tây một thời gắn bó nên ơng làm bài thơ này. Bài thơ lúc đầu
có tên nhớ Tây Tiến về sau đổi lại thành Tây Tiến, bài thơ được in trong tập
Mây đầu ô xuất bản (1986). Bài thơ là những hồi ức đẹp đẽ về đồng đội về thiên
nhiên miền tây vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng đặc biệt qua đoạn thơ sau:
“ Dốc lên khúc khủy dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Pháp đã được nhiều nhà thơ nói
đến với tất cả những nét đẹp đẽ và đáng mến phục. Đọc “Tây Tiến” của Quang
Dũng ta lại bắt gặp hình ảnh người lính dũng cảm, oai hùng trong gian khổ vất
vả mà thêm vào đó là nét thơ mộng, bay bổng, lãng mạn làm cho ta nhớ mãi
những gian khổ, hiểm nguy của người lính mà Quang Dũng đã ghi lại. Nhất là
những chặng đường hành quân gian lao nhưng không kém phần thi vị.
Dốc lên khúc khủy dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Ba câu thơ đầu nhà thơ sử dụng phần lớn thanh trắc, điệu thơ gấp, âm hưởng
nặng, trắc trở làm cho câu thơ gập ghềnh như con đường lên xuống và gợi tả
những ngọn núi lô nhơ, bổ sung cho từ láy gợi hình tượng “thăm thẳm” và “Heo
hút” của câu thơ thứ hai , làm cho con đường hành quân cứ lên cao mãi, đến tận
cùng, tưởng như mũi súng đã chạm tới trời, nhìn xuống thấy những cụm mây
trơi bồng bềnh phía dưới. Tiếp đến câu thơ thứ ba điệp lại độ cao “Ngàn
thướclên lên cao, ngàn thước xuống” rồi thả xuống độ sâu hun hút của con
đường gợi cảm giác vô cùng hiểm nguy. Nhờ sử dụng thanh trắc phối hợp với từ
láy tượng hình và âm hưởng thơ , tác giả đã miêu tả thế núi trập trùng cheo leo,
ghềnh thác hiểm trở, những dãy núi như dựng đứng xếp chồng lên nhau, tựa
lưng vào nhau. Đồng thời với thủ pháp nghệ thuật thậm xưng của bút pháp lãng
mạn đã đẩy lên đến tận cùng cái hiểm trở của thiên nhiên. Hình ảnh súng ngửi
trời diễn tả độ cao tột cùng của đỉnh đèo, vừa diễn tả nét tinh ngịch, hồn nhiên
của lính và niềm vui của người được ngắm cảnh đẹp phía dưới. Âm hưởng thơ
khơng chỉ miêu tả được khơng gian thế núi, đường đèo mà còn điễn tả hơi thở
nặng nhọc của người chiến sĩ.
Sang câu thơ thứ tư, “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” tác gỉả dùng toàn thanh
bằng như tiếng thở phào nhẹ nhõm của chiến sĩ khi dừng lại ở lưng chừng đèo,
phóng tầm mắt ra xa để chiêm ngưỡng cảnh bát ngát dười núi. Câu thơ gợi cảm
giác êm nhẹ, mở ra một không gian mênh mang, xa xa những ngôi nhà như ngủ
mơ màng trong màn mưa. Cảnh thơ có một vẻ đẹp êm ả, thơ mộng, thanh bình
khác với cảnh thơ trên.
Đây là bốn câu thơ tả cảnh đặc sắc, giàu chất hội họa của Quang Dũng.
Bằng ngôn ngữ giàu giá trị tạo hình và có âm hưởng, tác giả đã dựng lên bức
tranh thiên nhiên núi đèo thật hùng vĩ, lạ lẫm và kì thú nhưng cũng thật hoang
vu, hiểm trở, dữ dội, khắc nghiệt. Con đường hành quân vì thế vừa hấp dẫn thi
vị vừa nguy hiểm gian nan. Cái tài hoa của ngòi bút là tác giả chú tâm tả cảnh
nhưng vẫn gợi được trạng thái tinh thần và sức khỏe của chiến sĩ gợi cho chúng
ta liên tưởng đến hình tượng người lính trong thơ của Tố Hữu
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh doocas cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo
Những câu thơ trên đã mở ra chiều cao, chiều sâu và chiều rộng của không gian
và những câu thơ sau tác giả gợi nhớ về đồng đội và những kỉ niệm ấm áp tình
quân dân, những cuộc hành quân đi qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp
nối trong cuộc đời người lính của Quang Dũng. Nhưng có lẽ cái mỏi mệt của
những cuộc hành quân lần đầu, sẽ khơng bao giờ đi qua cùng năm tháng, người
lính Tây Tiên trai trẻ , hào hoa thì khó khăn, gian khổ khổ phải chăng để thử
lòng, thử sức.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
“ Không bước nữa”. Phải chăng gian khổ đã quá sức chịu đựng nên trên con
đường hành quan nhiều người lính Tây Tiến đã nằm lại nơi mảnh đất xa lạ mà
không bao giờ tỉnh dậy, các anh đã về với đất mẹ. Và có những khoảnh khắc “
Gục lên súng mũ”, đây là một hình ảnh rất đắt “gục” là một động từ có tính tạo
hình, biểu cảm, Quang Dfungx tránh dùng từ hi sinh nhưng vẫn giữu được thực
tế nghiệt ngã của cuộc chiến tranh. Câu thơ làm ta chợt nhớ đến
Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Dáng đứng của anh giải phóng qn đi mãi vào lịng người đọc trong thời kháng
chiến chống Mĩ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước “Bỏ quên
đời”, người lính khơng chịu nổi gian khổ hy sinh nhưng cũng tìm cho mình một
tư thế đầy khí phách, một cách nói giảm làm nhẹ đi sự mất mát, tang thương. Và
đôi khi “Bỏ quên đời” cũng là một giấc ngủ tạm thời vội vàng của người lính
trên con đường hành quân. Với người lính thì cái chết được xem như nhẹ tựa
lông hồng, họ sẵn sàng đối mặt với tất cả
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Chiều xuống, núi rừng đổ xuống cả dòng thác âm thanh nhưng khi đêm về vạn
vật ngủ yên, cảnh yên vắng sâu lắng lạ thường, ta nghe được bước chân của cọp
dữ đi tìm mồi. Những âm thanh ấy khơng chỉ gợi cảnh hoang vu, thâm u mà cịn
gợi ra khơng khí huyền bí của rừng thiêng. Cái tài hoa trong tả cảnh của Quang
Dũng là không chỉ dựng lên bức tranh sống động mà cịn gợi được khơng khí,
linh hồn của cảnh. Khó khăn là thế nhưng nét lạc quan, vui vẻ của người lính
vẫn chẳng thể mất dọc suốt hành trình.
Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Lần thứ hai trong bài thơ nhà thơ gọi tên đơ vị Tây Tiến của mình là “ Nhới ơi
Tây Tiến”, phải chăng nhớ q những gian khổ, những kỉ niệm gắn bó với các
đồng đội của mình nên Quang Dũng mới thốt lên như vậy, “ Nhớ ơi” từ cảm
tnans mang một tình cảm dạt dào và hình ảnh “cơm lên khói”, phải chăng sau
chặng đường hành quân mệt mỏi, các chiến sĩ có dịp dừng chân ở lại một bản
làng rất đỗi thương u- Mai Châu, nơi có các cơ thiếu nữ xinh xắn mang cơm
nếp đến cho người lình Tây Tiến, một khung cảnh đậm đà tình quân dân sau một
thời gian dài hành quân vất vả. Các anh được đồng bào đón tiếp bằng “cơm lên
khói” cùng mùi hương “thơm nếp xôi” thật ấm áp, nỗi nhớ cứ thế dịu dàng,
chờn vờn trong tâm tria của người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã sử sụng từ
“mùa em” thật gần gũi thân thương gợi nhớ mùi hương vị đặc trưng của nếp xôi
Mai Châu mà ta liên tưởng đến trong bài thơ “Tiếng hát con tàu của Chế Lan
Viên” “Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”.
Với bút pháp lãng mạn kết hợp với bút pháp hiện thực đã làm cho hình
tượng người chiến sĩ thời chống Pháp vừa có nét chung tiêu biểu vừa có nét
riêng độc đáo, ngơn ngữ thơ phong phú, sắc sảo giàu sức tạo hình biểu cảm đã
góp phần làm nên thành cơng nghệ thuật của bài thơ. Đoạn thơ cũng như cả bài
nhắc đến kỉ nieenmj con đường hành quân, gian lao mà không kém phần thi vị,
do đó cuộc sống chiến đấu vơ cùng gian khổ, đoạn thơ cũng tô đậm lý tưởng
chiến đấu, ngợi ca những chiến sĩ trẻ trung anh hùng, yêu nước hào hoa lãng
mạn. Họ tiêu biếu cho chân dung của anh bộ đội cụ Hồ, họ chính là hình ảnh
của đất nước một thời kì quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.
Đề 5 : Phân tích đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hịa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
(Ngữ Văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục, 2008)
Chín năm làm một điện biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sứ vàng.
(Tố Hữu)
Kết thúc 9 năm kháng chiến chống Pháp thắng lợi, tháng 10-1945, Trung ương
Đảng và Chính phủ từ chiến khu Việt Bắc dời đơ về hà Nội. Trong buổi chia tay
đầy lưu luyến với đồng bào Việt Bắc, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ
là khúc hát giao duyên, là lời nhắn nhủ tâm tình về xi và người ở lại, là sự
giãi bày tình cảm thắm thiết với nỗi nhớ trùng điệp của người ra đi. Có biết bao
kỉ niệm đẹp đầy tình nghĩa cứ ùa về. trong đó có nỗi nhớ cảnh sắc và con người
Việt bắc trong cuộc sống láo động thường ngày:
Ta về, mình có nhớ ta
……………………
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Mười câu thơ là đoạn thứ năm trong bài thơ nhưng tự nó có một kết cấu tương
đối hồn chỉnh. Hai câu thơ đầu ngư mở đoạn, là lời giải bày, bộc lộ tình cảm
nhớ thương của người ra đi.tám câu cịn lại là thân đoạn, nói về nỗi nhớ cúa
người đi và được chia đều: “câu lục” nói về hồn cảnh bốn mùa trong năm, cịn
“câu bát” nói về con người cần mẫm làm việc. Câu thơ cuối còn có giá trị như
lời kết, thâu tóm tư tưởng tồn đoạn: tình cảm thủy chung ân nghĩa của người
chiến sĩ với nhân dân.
Lời tâm sự của người đi thiết tha, sâu lắng:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Nỗi nhớ hướng đén đối tượng cụ thể là hoa và người. Người đặt cạnh hoa thì
người cũng như hoa: Người ta là hoa của đất. Sau nỗi nhớ là tình yêu quê
hương Việt Bắc.
Đại từ nhân xưng “mình – ta” ở đây tiếp tục phát huy giá trị biểu cảm – thể hiện
tình yêu thương gắn bó sâu nặng giữa người đi và kẻ ở. Chất giọng ngọt ngòa đã
thể hiện điệu cảm xúc, điệu tâm hồn của tác giả mà nhà thơ Sóng Hồng cũng đã
mượn hình ảnh thức lục bát và ngơn từ nhân xưng đó để diễn tả tình cảm lưu
luyến lúc chia tay với người vợ đồng chí:
Mình về mình ở mình đi
Đi thì ta nhớ ở thì ta thương
Chia li mỗi bước đoạn trường
Con sông nước chảy, con đường cát bay.
Điệp ngữ Ta về đứng ở đầu câu, bộc lộ nỗi niềm xao xuyến, tâm trạng lưu luyến,
vấn vương trong buối chia tay, khơi dòng tâm tư hướng về quá khứ. Từ trong
nỗi nhớ, bức tranh Việt Bắc hiện ra có vẻ đẹp gắn bó giữa cảnh với người.
Cảnh thiên nhiên được gợi lại bốn mùa trong năm, thành bộ tự tứ bình, được ghi
lại bởi nghệ thuật chấm phá tài hoa của hồn thơ cổ điển. Vẻ đẹp riêng của mùa
đông được thể hiện
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Trên cái nền màu xanh bát ngát của cây rừng, thiên nhiên tự chấm phá sắc màu
đỏ tươi của hoa chuối. Sự tương phản màu sắc gợi khgung cảnh có vẻ đẹp tươi
thắm, rực rỡ. Dưới ánh nắng lấp lóa, màu hoa đỏ ấy như phun lửa sưởi ấm mùa
đông, không gian bỗng trong sáng, ấm áp, khác hẳn vẻ lạnh lẽo, hoang vu, đầy
sương mù như thường thấy. Bóng người đi lặng lẽ trên đèo cao càng tăng thêm
nét sống động, thiên nhiên bớt vẻ hoang vu, đồng thời dựng lên vẻ đẹp hùng vĩ
của bức tranh. Những sắc màu đỏ tươi của hoa chuối mà bức tranh mùa đơng có
vẻ đẹp trong sáng, tươi thắm, ấm áp. Gam màu đỏ ấy khiến nỗi nhớ thêm rạo
rực tong lòng người ra đi, gợi liên tưởng đến cái màu đỏ chia li của nhà thơ
Nguyễn Mỹ sau này – cũng có những bơng hoa bình dị ấy:
Và màu đỏ như cái màu đỏ ấy
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người.
(Cuộc chia li màu đỏ 1964)
Khi đất trời vào xuân thì thiên nhiên Việt Bắc đã thay đổi, rừng lá xanh tự ẩn
mình dưới màu hoa trắng:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Bao phủ cả khu rừng là màu trắng ngập tràn của hoa hoa mơ, ngàn hoa đang
rung rinh trong nắng. Màu trắng của hoa gợi vẻ đẹp tinh khiết, thanh thoát, dịu
dàng, thơ mộng, tươi sáng. Một vẻ đẹp rất riêng của mùa xuân Việt Bắc. Động
từ nở kết hợp với tính từ trắng gợi tả những cánh hoa đang khoe dáng khoe sắc
khoe hương; lá hoa đang độ xuân thì, diễn tả được sức sống dồi dào của mùa
xuân.
Vẻ đẹp tinh khôi này cũng được gợi tả trong mùa xuân của Nguyễn Du:
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Cảnh thiên nhiên Việt Bắc lúc này giống như cảnh thiên nhiên khi bác về nước:
Ôi sáng xuân nay xuân 41!
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về… Im lặng. Con chim hót.
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ.
(Theo chân Bác)
Trong cảnh xuân ấy có con người đang mải miết làm việc “Nhớ người đan nón
chuốt từng sợi giang” , con người lao động cần mẫn, chăm chỉ, khéo léo, tất cả
tạo ra vẻ đẹp hài hòa, sống động cho bức tranh.
Khi Việt Bắc sang hè thì thiên nhiên mang sắc vàng tuyệt đẹp của rừng phách:
Ve kêu rừng phách đổ vàng.
Cây phách thân mộc, mọc rấ nhiều ở chiến khu Việt Bắc, rụng lá vào mùa đông,
khi ve kêu vào hè những chiếc lá bánh tẻ chuyển sang màu vàng lốm dốm xanh.
Dưới nắng hè chúng tạo cho rừng Việt Bắc những mảng màu vàng tươi sáng.
(cây phách ra màu hoa tím chứ khơng phải màu vàng). Bức tranh mùa hạ mở
đầu với khúc nhạc rừng hoang. Tiếng ve kêu râm ran như giục giã thời gian vào
hạ và tác động trên không gian: vẫy gọi sắc vàng cảu nawgs, của lá. Âm thanh
chan hòa với màu sắc tạo ra vẻ đẹp tuyệt dịu của rừng phách lúc hạ sang. Động
từ đổ đã gợi tả ánh nắng chiều xuyên qua vịm lá rừng đổ xuống hàng ngàn tia
sáng hình nan quạt lấp lóa, nổi bật hình ảnh cơ gái đang hái măng khiến cho bức
tranh có đường nét, hình khối sống động. Động từ đổ không chỉ gợi tả sắc lá
đang chuyển màu và ánh nắng tn tràn mà cịn gợi tả sắc nắng vàng đậm dần,
góp phần diễn tả bóng triều đang trơi. Từ đổ cũng là một từ khá đắt trong câu
thơ Xuân Diệu: Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá.
Ngôn ngữ thơ mang vẻ đẹp hàm súc cổ điển, chỉ sáu tiếng mà gợi được khơng
gian có đường nét, âm thanh, ánh sáng chan hòa, sắc màu chuyển đổi và sự vận
động luân chuyện của thời gian. Nhờ đó mà phong cảnh mùa hạ hiện ra có vẻ
đẹp hữu tình, cả khu rừng trong sáng, lung linh. Sự xuất hiện của cơ gái “ Nhớ
cơ em gái hái măng một mình”, cơ gái hái măng một mình lao động mà khơng
cơ đơn, hái măng trong cảnh khiến bức tranh đã nên thơ thêm phần sống động,
trữ tình. Và Cuối cùng cảnh thu hiện ra với vẻ đẹp đêm trăng:
Rừng thu trăng rọi hịa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Cả cánh rừng lồng lộng ánh trăng đêm gợi vẻ đẹp huyền ảo, sáng trong, hiền
hòa, thơ mộng, dịu mát. Đây là lúc đất nước có chiến tranh nhưng ngắm nhìn
cảnh đẹp này cứ ngỡ là đát nước đang thái bình. Vẻ đẹp gợi nhiều mơ ước
tương lai hịa bình. Vẻ đẹp gợi nhiều mơ ước tương lai hịa bình, nên đêm trăng
có sắc màu bay bổng lãng mạn. Tiếng hát lảnh lót ở đâu đó bỗng vang lên hịa
điệu với ánh trăng vàng càng làm tăng thêm vẻ thi vị hấp dẫn, tình tứ của cảnh.
Cảnh đêm trăng trong rừng Việt Bắc ấy cũng xuất hiện trong thơ Hồ Chí Minh:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
(Cảnh khuya)
Cả hai bức tranh đều có vẻ đẹp lung linh, huyền ảo. cảnh trăng trong rừng
thường gợi vẻ hoang vu, huyền bí nhưng trong hai bài thơ đều tốt ra vẻ đẹp gần
gũi vì có con người đang sinh hoạt gắn bó.
Những sắc màu thiên nhiên, những chi tiết của cảnh được lọc qua tâm hồn nhớ
nhung, được diễn tả qua giọng thơ êm đềm, ngọt ngào nên mùa nào cũng đẹp.
Bộ tranh tứ bình ấy được vẽ ra bởi chất liệu tự nhiên, được tô bằng những gam
màu nguyên tươi tắn, có ánh sáng kung linhg chan hịa, có âm thanh vui tươi,
đầm ấm, đường nét sống động… Tất cả hịa quyện để tơn lên vẻ đẹp chung tươi
sáng, thơ mộng, trữ tình; cảnh đẹp bình dị tự nhiên, có chút vắng lặng của núi
rừng nhưng không hoang vu, hiu hắt mà đầy hơi thở của cuộc sống con người.
Xuất hiện trong bộ tranh tứ bình ấy không phải là những nhân vật ngư, tiều,
canh, mục mà là người dân Việt Bắc giản dị thân thương. Nhà thơ đưa vào cảnh
những con người Việt Bắc đang theo đuổi cơng việc thường ngày, mỗi người có
vẻ đẹp riêng. Người leo núi với lưỡi dao cạnh sườn lấp lánh ánh nắng gợi vẻ
đẹp khỏe khoắn, tư thế rắn rỏi của người làm chgur giang san, cuộc sống; người
đan nón với bàn tay cần mẫn gợi vẻ đẹp tài hoa và đức chăm chỉ.; người em gái
đang cặm cụi hái măng toát ra vẻ đẹp dịu dàng, đức tính siêng năng, lặng lẽ làm
việc, tự tin và bản lĩnh; người đang hát bộc lộ vẻ đẹp nghệ sĩ và tấm lịng thắm
thiết nghĩa tình.
Từ những bức chân dung ấy nhà thơ khaios quát phẩm chất của người miền núi
Việt Bắc: hiền lành, siêng năng chăm chỉ, thầm lặng cống hiến và hi sinh cho
cách mạng, tấm lòng nghĩa tình thủ chung sâu sắt. Biết bao tình camr5 và sự
biết ơn dành cho họ.
Đoạn thơ khép lại với Tiếng hát ân tình thủy chung. Đoa là tiếng hát của người
ở lại, cũng là khúc hát của người ra đi. Khúc hát là sự đồng vọng thiết tha của
hai tấm lòng đã từng chia bùi sẻ ngọt lúc đắng cay gian khổ. Khúc hát thể hiện
tình quân dân sâu đậm.
Nghệ thuật nổi bật đoạn thoe là điệp từ nhớ, diễn tả rõ tình cảm sâu đậm, tấm
lịng gắn bó của người cán bộ với quê hương Việt Bắc. Giọng điệu lục bát ngọt
ngào góp phần diễn tả tình cảm thắm thiết của người đi.
Tình yêu và nỗi nhớ Việt Bắc sâu nặng đã giúp nhà thơ dựng lên cảnh thiên
nhiên Việt Bắc kì thú và ấm áp tình người như thế. Và đã từng sinh ra tử có
nhau nên tác giả hiểu rấ rõ đức tính và tình cảm cao quý của người Việt Bắc.
Bộ tranh tứ bình qua cái nhìn đầy ưu ái đối với quê hương của tác giả sẽ được
đặt trang trọng trong bảo tảng văn chương cách mạng. Đoạn thơ mở ra thế giới
của cái đẹp: bức tranh thiên nghiên đẹp, con người đẹp hiện ra từ nõi nhớ đẹp và
tấm lòng đẹp của nhà thơ. Đó là sức cuốn hút, sức chinh phục của đoạn thơ
cũng như cả bài thơ Việt Bắc.
Đề: 4 Phân tích đoạn thơ sau trong đoạn trích Đất Nước (Trích Trường ca mặt
đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm:
“ Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…”
mẹ thường hay kể.
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần sàng
Đất nước có từ ngày đó…
(Trích Trường ca Mặt đường khát vọng,
Ngữ Văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục, 2008)
Tình yêu Tổ quốc đã khơi nguồn cảm hứng mãnh liệt cho các thi nhân và
đất nước trở thành đề tài chính trong thơ ca hiện đại như Đất Nước của Nguyễn
Đình Thi, mà tiêu biểu hơn cả là Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm. Nguyễn
Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Một
hồn thơ giàu chất suy tư, triết lý nhưng cũng giàu chssts trữ tình và nổi bật với
phong cách thơ trữ tình- chính luận. Phó giáo sư Phan Huy Dũng từng nhận xét:
Thơ NKĐthu hút, hấp dẫn người đọc bỡi sự đan xen giữ cảm xúc nồng nàn và
suy tư sâu lắng”.NKĐ có nhiều tác phẩm nổi tiếng như: Cĩ lặng, Ngơi nhà có
ngọn lửa ấm, Đất ngoại ơ, mà xuất sắc nhất là trường ca Mặt đường khát vọng.
Chương Đất nước trích trong trường ca mặt đường khát vọng là chương thứ V,
được sáng tác năm 1971, vào những năm tháng kháng chiến ác liệt ở chiến khu
Trị-Thiên. Đất nước được NKĐ cảm nhận ở nhiều phương diện, nhiều góc độ
nhưng tập trung và thống nhất ở ba phương diện: Chiều rộng của không gian địa
lý,lãnh thổ, chiều dài thời gian lịch sử và chiều sâu của truyền thống văn hóaphong tục. Từ các phương diện ấy, đoạn trích làm nổi bật quan niệm: Đất nước
là của nhân dân qua đoạn thơ đầu, từ những hình ảnh bình dị của cuộc sống, nhà
thơ đưa ra một số lý giải về đất nước.
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
……………………………………….
Đất nước có từ ngày đó…
Mở đầu, nhà thơ muốn tìm hiểu thời gian tồn tại của đất nước:
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
NKĐ sử dụng hàng loạt những từ cùng trường khái niệm chỉ thời gian
như: “ngày xửa, ngày xưa, bắt đầu, có từ ngày đó, bây giờ”. Cho ta thấy cảm
hứng chủ đạo của đoạn thơ trên thể hiện mối quan tâm của tác giả về thời gian
lịch sử, quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của đất nước. Đất nước tồn tại
qua hình ảnh cụ thể thân thiết trong đời sồng hằng ngày như truyện cổ, miếng
trầu, cây tre, hạt gạo, cái kèo-cái cột, gừng cay- muối mặn, kể cả hình ảnh con
cúi ở đoạn sau, tác giả nhận tháy cái hữu hình hay vơ hình, cái hằng ngày này
cũng là cái vĩnh hằng có khả năng mở ra lịch sử xa xưa.
Cụm từ ngày xửa ngày xưa không chỉ nhắc đến thời gian xa lắc mà cách
vay mượn từ ngữ của truyện dân gian là muốn nhắc đến hình ảnh đất nước đã có
trong những câu chuyện huyền thoại, cổ tích của mẹ. Đất nước được khai sinh
từ quá khứ xa mờ, thưở hồng hoang:
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường
hay kể.
Hình ảnh miếng trầu bà ăn nhắc đến truyện cổ tích Trầu cau thời vua
Hùng dựng nước. Cịn hình ảnh cây tre mà nhân dân dùng làm vũ khí đánh giặc
là nhắc đến truyền thuyết Thánh Gióng đuổi giặc Ân, cũng là thời vua Hùng
dựng nước. Cây tre còn đi suốt chiều dài lịch sử chống giặc ngoại xâm. Ấy là
ngọn tầm vông của nghĩa sĩ Cần Giuộc, rồi đến cây chông tre thời đánh Pháp,
đánh Mỹ. Cây tre thành biểu tưởng cho lịch sử giữu nước oai hùng. Cây tre đã
trở thành người bạn thân thiết đối với mỗi cuộc đời, đối với cộng đồng dân cư
người Việt. bên cạnh cây tre là hạt gạo trong bữa cơm hàng ngày. Và khi hạt
gạo gắn với hình ảnh nắng mưa ngồi đồng gợi đến lịch sử lao động xây dựng,
phát triển đất nước của những người nơng dân bình dị mà oai hùng.
Khi cảm nhận lịch sử, hiểu lịch sử đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không
đưa ra những sự kiện lịch sử chính hay lần lượt các triều đại phong kiến, khong
dùng kiến thức sử sách mà qua những hình ảnh bình dị, cụ thể thấy rằng: lịch sử
ln hiện diện trong đời sống hàng ngày của mỗi gia đình, gắn bó thân thiết với
mỗi người dân. Và qua những câu chuyện dân gian mà mẹ kể cho con, nhân dân
đã lưu giữ lịch sử theo cách riêng của mình, lịch sử đã trường tồn trong dịng
chảy tâm thức, trong trí nhớ của nhân dân qua bao thế hệ. Chứng tỏ nhân dân là
người sáng tạo và giữu gìn lịch sử, lịch sử là của nhân dân nên đất nước này là
của nhân dân. Ở đây chất chính luận thể hiện rõ qua cách suy luận,cịn chất trữ
tình biểu hện qua giọng điệu truyền cảm và ngôn ngữ giàu xúc cảm. Đồng thời
nhà thơ cảm nhận về đất nước về văn hóa truyền thống.
Những hình ảnh cụ thể trên mang tính tích hợp, khơng chỉ gợi đến lịch sử
dài lâu mà cịn gợi rta truyền thống văn hóa, phong tục lâu đời và lối sống, tính
cách, tâm hồn người Việt. Cụm từ: ngày xửa ngày xưa để trong ngoặc kép cho
ta thấy tác giả trích từ truyện dân gian và chất kiệu của đoạn thơ đã gợi ra kho
tàn văn học dân gian, cụ thể là truyện Trầu cau, Thánh Gióng… rồi câu ca dao:
Tay bưng chén muối đĩa gừng / Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau. Điều
đó cho ta thấy đất nước có nền văn học dân gian phong phú do nhân dân sáng
tạo.
Miếng trầu cịn gợi đến văn hóa giao tiếp: Miếng trầu là đầu câu chuyện,
rồi gợi đến phong tục đẹp trong lễ vật cưới hỏi, trong tình duyên:
Miếng trầu với lại quả cau
Làm sao cho đỏ với nhau thì làm.
Bới tóc cũng là một tập tục đẹp, tạo diện mạo trang sức của phụ nữ mang
dấu ấn thanh nhã của người Việt. cái kèo, cái cột gợi đến văn hóa kiến trúc nhà
cửa mang tính đặc thù ở làng quê Việt. Còn hạt gạo gợi đến nền văn minh canh
nông qua mấy ngàn năm nhân dân sáng tạo, phát triển:
Họ giữu và lưu truyền cho ta hạt lúa ta trồng.
Qua những hình ảnh cụ thể ấy, chúng ta thấy rằng nhân dân đã sáng tạo
nền văn học, văn hóa phong phú. Những hình ảnh thơ trên cịn nhắc đến đặc
điểm tính cách, tâm hồn của người Việt. cây tre nhắc đến truyền thống bất
khuất, anh dũng trong chiến đấu:
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù khơng sợ dài lâu.
Cịn hạt gạo một nắng hai sương rồi qua công đoạn: xay, giã, dần, sàng
như một thông điệp về đức tính chăm chỉ, cần mẫn, sáng tạo của dân ta trong
lao động sản xuất:
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.
Hình ảnh gừng cay muối mặn như là biểu tượng cho lối sống nghĩa tình,
phẩm chất thủy chung son sắt:
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay nuối mặn
Dạy anh biết “yêu em từ thưở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội