BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
TÊN ĐỀ TÀI
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU TRONG LĨNH VỰC
KINH DOANH, THƢƠNG MẠI - LIÊN HỆ TỪ THỰC TIỄN
XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ NAM
HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ LUẬN VĂN
NGUYỄN VĂN HÂN
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. BÙI NGỌC CƢỜNG
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn tốt nghiệp của tôi với đề tài: “Hợp đồng
vô hiệu trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại - Liên hệ từ thực tiễn xét xử
tại Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam” là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi,
khơng sao chép của bất cứ ai.
Số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn này hoàn toàn trung thực
và chưa từng được sử dụng hoặc công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Các thơng tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Tôi cam đoan và sẽ chịu mọi trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu
của mình./.
Hà Nội, ngày 25 tháng 9 năm 2020
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Hân
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được thực hiện tại trường Đại học Mở Hà Nội. Để hoàn
thành được luận văn này tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ của
các thầy cô giáo trường. Lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu
sắc nhất đến tồn thể các thầy cơ giáo của trường Đại học Mở Hà Nội. Đặc
biệt là Tiến sĩ Bùi Ngọc Cường, người đã giúp đỡ và hướng dẫn tận tình để
tơi có thể hồn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
Hà Nội, ngày 25 tháng 9 năm 2020
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Hân
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
KDTM
Kinh doanh thương mại
BLDS
Bộ luật dân sự
LTM
Luật thương mại
TAND
Tòa án nhân dân
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
VKSNDTC
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
GDDS
Giao dịch dân sự
LDN
Luật doanh nghiệp
HĐ
Hợp đồng
GD
Giao dịch
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
QSDĐ
Quyền sử dụng đất
BL
Bút lục
NHNNo
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐÔNG VÔ
HIỆU TRONG KINH DOANH, THƢƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU TRONG KINH DOANH THƢƠNG MẠI ........... 5
1.1. Hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh, thƣơng mại................................... 5
1.1.1. Khái niệm ..................................................................................................... 5
1.1.2. Dấu hiệu nhận biết và căn cứ xác định hợp đồng vô hiệu trong
kinh doanh, thương mại .................................................................................... 7
1.1.2.1. Dấu hiệu nhận biết hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh, thương mại 7
1.1.2.2 Xác định hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh, thương mại ..................10
1.1.3. Các trường hợp hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh, thương mại ....... 14
1.1.4. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh, thương
mại ................................................................................................................... 16
1.2. Pháp luật về hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh, thƣơng mại . 18
1.2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật về hợp đồng vô hiệu trong kinh
doanh, thương mại ........................................................................................... 19
1.2.2 Nguồn luật và vấn đề áp dụng pháp luật về hợp đồng vô hiệu trong
kinh doanh, thương mại .................................................................................. 19
1.2.3 Pháp luật một số nước về hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh,
thương mại....................................................................................................... 23
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÔ
HIỆU TRONG KINH DOANH, THƢƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN XÉT
XỬ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ NAM ....................................... 29
2.1. Những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng vô
hiệu trong kinh doanh, thƣơng mại.........................................................................29
2.1.1. Quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng ....................................29
2.1.2. Các trường hợp hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh, thương mại ..... 33
2.1.3. Quy định về xử lý hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh, thương mại 43
2.1.4. Một số quy định khác .................................................................... 50
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng vô hiệu trong kinh
doanh, thƣợng mại tại Tịa án nhân dân tỉnh Hà Nam ............................. 54
2.2.1. Cơng tác xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại giai đoạn năm
2016 - 2020...................................................................................................... 54
2.2.2. Một số nhận xét, đánh giá về pháp luật hợp đồng vô hiệu trong
kinh doanh, thƣơng mại đƣợc rút ra từ thực tiễn xét xử tại tòa án nhân
dân tỉnh Hà Nam (chỉ xem xét những mặt còn hạn chế) ........................... 55
2.2.2.1. Hạn chế, vướng mắc trong các quy định của pháp luật chuyên
ngành ............................................................................................................... 55
2.2.2.2 Hạn chế vướng mắc trong các quy định của Bộ luật Dân sự 2015
......................................................................................................................... 59
CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VƠ HIỆU……………………..............................70
3.1. Quan điểm hồn thiện…………………………………………..70
3.2. Giải pháp hồn thiện pháp luật về hợp đồng vơ hiệu………….72
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật chuyên ngành có liên
quan đến Hợp đồng …………………………………..……………………72
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 về giao
dịch vô hiệu. .................................................................................................... 75
KẾT LUẬN ............................................................................................ 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................. 85
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Pháp luật hợp đồng là nơi chứa đựng nhiều kỹ thuật pháp lý nhất trong
khoa học pháp. Hợp đồng là phương tiện quan trọng giúp con người đáp ứng
các nhu cầu vật chất và tinh thần của mình thơng qua việc trao đổi các sản
phẩm, dịch vụ và các lợi ích khác. Vì vậy các quy định về hợp đồng luôn luôn
chiếm đa phần trong các đạo luật thuộc lĩnh vực luật tư. Để một hợp đồng
phát huy được giá trị của nó thì hợp đồng đó phải đáp ứng đầy đủ các điều
kiện để hợp đồng có hiệu lực. Nói cách khác là hợp đồng phải có hiệu lực
pháp lý cũng tức là hợp đồng đó khơng bị vơ hiệu. Chính vì vậy, vấn đề hiệu
lực pháp lý của hợp đồng luôn là vấn đề có ý nghĩa khơng chỉ về phương diện
lý luận trong khoa học pháp lý mà cịn có ý nghĩa trong thực tiễn đối với các
bên tham gia hợp đồng trong kinh doanh, thương mại.
Với nhận thức đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Hợp đồng vô hiệu trong
lĩnh vực kinh doanh, thương mại - liên hệ từ thực tiễn xét xử tại tòa án nhân
dân tỉnh Hà Nam” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu về hợp đồng vô hiệu, việc giải quyết hậu quả pháp lý
của hợp đồng vô hiệu nói chung, đã được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Nhìn chung, vấn đề này đã được đề cập
tới trong Giáo trình về Luật Thương mại, Luật Dân sự ở các cơ sở đào tạo luật
ở Việt Nam. Các vấn đề liên quan đến hợp đồng vơ hiệu, cịn được đề cập
trong một số cơng trình nghiên cứu như: Luận án tiến sĩ luật học với đề tài:
“Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng kinh tế vơ hiệu”
của tác giả Lê Thị Bích Thọ năm 2002, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp
luật; Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Cường: “Giao dịch dân sự vô hiệu và
việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu” năm 2014,
Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn
Thị Thanh: “Xử lý hợp đồng vô hiệu theo pháp luật dân sự Việt Nam ” năm
1
2015, Trường đại học Luật Hà Nội; Luận văn thạc sỹ của Cao Thị Thùy
Dương: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về xử lý hợp đồng vô hiệu ở Việt
Nam” năm 2016, Trường Đại học Luật Hà Nội... Bên cạnh đó, cũng có nhiều
bài viết của các tác giả được đăng trên các Tạp chí Luật học, Tạp chí Tịa án
nhân dân hay Tạp chí Kiểm sát...
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
của pháp luật về hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh, thương mại từ thực tiễn
xét xử tại tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất
những giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vơ hiệu trong kinh doanh,
thương mại.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ một số khái niệm như: hợp đồng trong kinh doanh,
thương mại, hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh thương mại, dấu hiệu nhận
biết, điều kiện để xác định hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh thương mại.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh,
thương mại. Đánh giá thực tế áp dụng pháp luật về hợp đồng vô hiệu trong kinh
doanh thương mại từ thực tiễn xét xử tại tòa án nhân dân tỉnh Hà nam.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật hợp đồng vô hiệu trong kinh
doanh, thương mại.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là:
- Các quy định pháp luật về hợp đồng vơ hiệu nói chung qua đó làm rõ
hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh, thương mại. Bởi lẽ hiện nay pháp luật
không phân biệt hợp đồng dân sự hay hợp đồng kinh doanh thương mại.
- Thực tiễn xét xử về hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh, thương mại
tại tòa án nhân dân tỉnh Hà nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là:
- Trong luận văn này tác giả tập trung tìm hiểu, nghiên cứu các quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh,
2
thương mại, tập trung chủ yếu ở BLDS 2015, Luật Thương mại 2005 và thực
tiễn xét xử tại tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam từ năm 2016 đến năm 2019.
4. Các phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề trong luận văn dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật. Trong đó, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể đó là:
- Phương pháp phân tích: Được sử dụng để làm rõ những vấn đề
thuộc phạm vi nghiên cứu;
- Phương pháp tổng hợp: Được sử dụng để khái quát hóa nội dung
cần nghiên cứu, đưa ra hướng nghiên cứu logic để làm sáng tỏ vấn đề cần
nghiên cứu;
- Phương pháp so sánh: Sử dụng để so sánh các quy định của pháp
luật giai đoạn trước với pháp luật hiện hành từ đó cho thấy sự hoàn thiện của
các quy định pháp luật qua từng giai đoạn;
- Phương pháp thống kê: Thống kê các số liệu có liên quan đến vấn
đề cần nghiên cứu, từ đó, phân tích, tổng hợp và đánh giá số liệu để đưa ra
nhận định phù hợp làm cơ sở thực hiện cho việc đưa ra các kiến nghị về việc
hoàn thiện pháp luật;
Một số phương pháp khác như: Diễn giải, quy nạp, bình luận cũng
được tác giả kết hợp sử dụng để hoàn thiện luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Dưới góc độ khoa học, những kết quả nghiên cứu
mới của luận văn sẽ làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận về hợp đồng vô
hiệu trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Phân tích, đánh giá thực trạng
pháp luật từ đó cung cấp thêm những luận cứ để tiếp tục hồn thiện pháp luật
trong lĩnh vực này.
Dưới góc độ thực tiễn, luận văn cung cấp một số vấn đề về tình
hình áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng vô hiệu tại TAND
3
tỉnh Hà Nam. Luận văn là tài liệu tham khảo cho những người làm công
tác thực tiễn pháp luật.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
phần nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh,
thương mại và pháp luật về hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh thương mại;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh,
thương mại và thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam.
Chương 3: Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp đồng vô hiệu
trong kinh doanh, thương mại.
4
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐÔNG VÔ HIỆU TRONG KINH
DOANH, THƢƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VƠ HIỆU
TRONG KINH DOANH, THƢƠNG MẠI
1.1. Hợp đồng vơ hiệu trong kinh doanh, thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm hợp đồng trong kinh doanh, thương mại
Căn cứ vào định nghĩa về hợp đồng trong BLDS năm 2015 và định nghĩa
về kinh doanh trong LDN 2014, cũng như định nghĩa về hoạt động thương mại
trong LTM năm 2005, chúng ta có thể hiểu :Hợp đồng trong KDTM là sự thỏa
thuận giữa các bên (ít nhất một trong các bên phải có tư cách thương nhân) về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên trong hoạt
động KDTM. Đây là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự.
Thuật ngữ GD/HĐ dân sự vô hiệu được sử dụng tương đối rộng rãi,
nhưng khi nghiên cứu thì tác giả chưa thấy tài liệu nào nêu ra khái niệm khoa
học chính thức và cụ thể thế nào là GDDS vơ hiệu. Kéo theo đó, thuật ngữ
hợp đồng vơ hiệu hay hợp đồng vơ hiệu trong KDTM cũng chưa có một khái
niệm hồn chỉnh và thống nhất. Trong khi đó, vấn đề vơ hiệu của hợp đồng
trong KDTM có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Bởi, nhìn
chung hợp đồng vơ hiệu khơng làm phát sinh hiệu lực pháp luật mà các bên
mong muốn. Trên thế giới hiện nay, phần lớn các nhà lập pháp cũng không
đưa ra các khái niệm chung về hợp đồng vô hiệu mà chủ yếu đi sâu quy định
các tiêu chí để xác định một giao dịch vơ hiệu. Ví dụ: Điều 113 BLDS và
Thương mại Thái Lan quy định: “Một hành vi pháp lý bị vơ hiệu nếu mục tiêu
của nó rõ ràng bị pháp luật ngăn cấm hoặc không thể thực hiện được, hoặc
trái với trật tự công cộng hoặc trái với đạo đức”. Chính vì vậy, pháp luật
hiện hành của Việt Nam không đưa ra định nghĩa về giao dịch vô hiệu cũng
như định nghĩa hợp đồng vô hiệu trong KDTM.
5
Vơ hiệu theo nghĩa thơng thường là "khơng có hiệu lực, khơng có hiệu
quả”1. Từ đó có thể suy ra, hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không tồn tại theo
quy định của pháp luật, khơng có hiệu lực pháp lý. Mặc dù một hợp đồng nào
đó được xác lập, các bên có thể chưa thực hiện, đang thực hiện hoặc đã thực
hiện xong các quyền, nghĩa vụ như cam kết, nhưng khi xác định đó là hợp
đồng vơ hiệu thì mọi cam kết, thỏa thuận (đang, đã thực hiện) đều không phải
là các quyền, nghĩa vụ được pháp luật bảo hộ. Thông thường các nước trên
thế giới đều căn cứ vào các điều khoản chủ yếu, mang tính chất quyết định
của hợp đồng để xác định một hợp đồng vô hiệu. Các điều khoản chủ yếu này
dựa vào đặc điểm, tính chất của hợp đồng, đồng thời phải căn cứ vào tình
hình kinh tế - xã hội của đất nước đó trong từng giai đoạn.
Trong khoa học pháp lý, hợp đồng vơ hiệu dùng để chỉ tình trạng một
hợp đồng trái với ý chí của các bên hoặc trái với điều kiện có hiệu lực của
pháp luật. Khi một hợp đồng bị tun bố vơ hiệu có nghĩa hợp đồng khơng có
giá trị ngay từ thời điểm giao kết. Như trên đã nói hợp đồng trong lĩnh vực
KDTM là một loại hợp đồng dân sự đặc thù, chúng có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Những thuộc tính vốn có của hợp đồng dân sự được biểu
hiện cụ thể ở hợp đồng trong KDTM, đồng thời hợp đồng trong KDTM cũng
có những đặc thù riêng của nó. Ở Việt Nam, BLDS được coi là “luật gốc”
điều chỉnh những vấn đề chung nhất trong dân sự, kinh doanh thương mại.
Trong khi đó, hiện nay các luật chun ngành khơng có quy định về vấn đề
này do vậy, để xác định hợp đồng vô hiệu trong KDTM, chúng ta phải căn cứ
vào quy định tại Điều 117 và Điều 122 BLDS 2015. Theo đó, có thể hiểu hợp
đồng vơ hiệu là hợp đồng khơng tn thủ đầy đủ điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự. Khi hợp đồng vi phạm một hay nhiều điều kiện có hiệu lực
của giao dich dân sự thì hợp đồng đó bị coi là vơ hiệu.
Tóm lại, hợp đồng vơ hiệu trong KDTM là những hợp đồng trong
KDTM mà các chủ thể tham gia hợp đồng khơng tn thủ các điều kiện có
Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Minh Hằng, (2011), Giao dịch về QSDĐ vô hiệu pháp luật và thực tiễn xét xử,
Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội, tr.29.
1
6
hiệu lực do pháp luật quy định về giao dịch trong hoạt động kinh doanh,
thương mại. Hậu quả là hợp đồng khơng có giá trị pháp lý, khơng làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm xác lập hợp đồng.
1.1.2. Dấu hiệu nhận biết và căn cứ xác định hợp đồng vô hiệu trong
kinh doanh, thương mại
1.1.2.1. Dấu hiệu nhận biết hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh, thương mại
Các yêu cầu đảm bảo cho một hợp đồng có hiệu lực bao gồm: nguyên
tắc giao kết hợp đồng, nội dung, các quy định về hình thức, các hành vi pháp
luật cấm, yêu cầu về chủ thể và năng lực chủ thể, yêu cầu về cấp phép hoạt
động (trong một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện). Trên phương diện
lý luận và thực tiễn, khi tham gia vào hợp đồng các bên đều mong muốn đạt
mục đích nhất định và pháp luật bảo hộ cũng như tạo điều kiện cho mục đích
đó trở thành hiện thực. Để được pháp luật thừa nhận vào bảo vệ, thì các bên
tham gia hợp đồng phải tuân theo các điều kiện mà pháp luật quy định. Điều
này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể trong hợp đồng cũng như việc bảo vệ lợi ích chung của xã hội.
Đặc điểm chung của hợp đồng vô hiệu là không đáp ứng các điều kiện
theo quy định của pháp luật. Khi hợp đồng bị vô hiệu các bên tham gia hợp
đồng phải gánh chịu hậu quả pháp lý nhất định có thể bất lợi về vật chất và
phi vật chất, như khơng đạt được mục đích đã được xác định, nếu đang thực
hiện thì phải chấm dứt việc thực hiện đó để quay lại tình trạng ban đầu, hồn
trả cho nhau những gì đã nhận. Nhìn chung, hợp đồng vơ hiệu thường có
những dấu hiệu sau:
Thứ nhất, khơng đáp ứng một trong các điều kiện theo quy định của
pháp luật đối với hợp đồng có hiệu lực, bao gồm:
i) Điều kiện về chủ thể tham gia hợp đồng. Bản chất của hợp đồng
là sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí của các chủ thể trong hợp đồng
nhưng khơng phải bất cứ ai cũng có quyền tham gia vào bất kỳ hợp đồng
nào mà chỉ có các chủ thể được pháp luật cho phép mới có thể tham gia.
7
Khi các chủ thể tham gia hợp đồng thì phải có năng lực pháp luật dân sự,
năng lực hành vi dân sự phù hợp với hợp đồng được xác lập. Đồng thời,
về mặt ý chí, chủ thể tham gia hợp đồng hồn tồn tự nguyện, khơng bị ép
buộc, đe dọa hay lừa dối.
ii) Mục đích và nội dung của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp
luật, trái với đạo đức xã hội. Mặc dù, khi tham gia các bên chủ thể hồn tồn
được tự do thể hiện ý chí của mình, tự do trong việc quyết định nội dung, hình
thức của hợp đồng, tự do lựa chọn đối tác... Nhưng sự tự do đó khơng mang
tính tuyệt đối mà bị ràng buộc trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Sự ràng
buộc này chính là sự hạn chế tự do của các chủ thể khi tham gia thiết lập giao
dịch, nếu chủ thể tham gia không tuân thủ các quy định hạn chế đó sẽ dẫn tới
giao dịch bị vơ hiệu - điểm c khoản 1 Điều 117 BLDS 2015. Quy định này
cũng hoàn toàn giống với quy định pháp luật của đa số các nước trên thế giới.
Sở dĩ pháp luật có sự hạn chế này bởi lẽ về bản chất, pháp luật là công cụ bảo
vệ cho lợi ích chung của cộng đồng. Để bảo vệ trật tự công cộng, bảo vệ các
giá trị đạo đức xã hội, bảo vệ quyền tự do và lợi ích của người khác, do đó mà
hệ thống pháp luật nào cũng có những quy định cấm một số hành vi nhất
định. Đó là những điều cấm của pháp luật, những điều mà các chủ thể không
được làm. Tuy nhiên, thế nào là vi phạm đạo đức xã hội? Đạo đức xã hội là
một phạm trù trừu tượng có độ “co giãn” , nó phụ thuộc vào từng thời điểm
kinh tế - chính trị nhất định, phụ thuộc các yếu tố văn hóa, lịch sử... Đây là
câu hỏi mà hầu hết các hệ thống pháp luật khơng có giải thích chính thức về
vấn đề này. Quy định tại Điều 123 BLDS 2015 thì đạo đức xã hội là những
chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và
tôn trọng. Quy định này chưa được hướng dẫn hay giải thích cụ thể, chi tiết,
vậy nên, thực tế áp dụng các thẩm phán, trọng tài viên thường căn cứ vào án
lệ hoặc tư duy theo logic của mình để giải thích và áp dụng.
Ví dụ: A thuê thiết kế sửa nhà mình có cửa nhà vệ sinh hướng thẳng
vào cửa chính, nơi đặt bàn thờ của gia đình nhà hàng xóm vì muốn gia đình
8
hàng xóm mở cửa chính sang hướng khác cho nhà A đẹp hơn. Khi này hợp
đồng thuê thiết kế sửa nhà khơng có hiệu lực vì mục đích của hợp đồng vi
phạm đạo đức xã hội.
iii) Chủ thể tham gia hợp đồng không tự nguyện. Sự tự nguyện tham
gia hợp đồng là một yếu tố cơ bản và không thể thiếu được trong hợp đồng.
Vì vậy, các chủ thể tham gia hợp đồng phải thể hiện ý chí đích thực của mình.
Mọi thỏa thuận khơng phản ánh đúng ý chí của các bên đều có thể dẫn đến sự
vơ hiệu của hợp đồng. Pháp luật của phần lớn các nước trên thế giới đều đòi
hỏi khi tham gia hợp đồng phải thể hiện ý chí đích thực. Ý chí đích thực trong
hợp đồng thể hiện là, khi tham gia hợp đồng các chủ thể có quyền thể hiện
mong muốn của mình ra bên ngồi trong khn khổ pháp luật cho phép mà
không bị sự ép buộc của bất kỳ một yếu tố nào khác, ở một số nước như: Nhật
Bản, Đức hay Pháp vẫn thừa nhận hiệu lực của hợp đồng khi có sự nhầm lẫn
đơn phương, việc ghi nhận này để hạn chế các trường hợp vô hiệu gây ảnh
hưởng rất lớn đến quyền lợi của các chủ thể tham gia hợp đồng cũng như lợi
ích cơng cộng2. Theo đó, hợp đồng chỉ vơ hiệu trong trường hợp tất cả các
bên biết trước sự sai lệch ý chí đích thực của các bên so với những gì mà các
bên thể hiện hoặc buộc các bên phải biết theo quy định của pháp luật thì sẽ
dẫn tới hợp đồng vơ hiệu như: bị lừa dối, đe dọa...
Ví dụ: Cơng ty cổ phần M ký hợp đồng mua bán cừu với hộ kinh
doanh của ông bà Bảy Thời. Đàn cừu gồm có 44 con và được ơng Bảy cam
đoan đàn cừu là cừu cái giống đuôi ngắn loại tốt, sinh sản một năm hai lần.
Sau khi Công ty M nhận cừu về, kiểm tra phát hiện trong số 44 con cừu cái
giống chỉ có 06 con là giống cụt đi loại tốt, 38 con còn lại là cừu cái giống
cừu Thái Lan, là loại cừu dài đuôi, giống xấu, giá thấp nhưng bị bên bán chặt
cụt đuôi. Hợp đồng mua bán nói trên bị vơ hiệu do vi phạm điều kiện về ý chí
tự nguyện của chủ thể (bên mua bị bên bán lừa dối).
2
Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Minh Hằng, tlđd 1, tr.56.
9
iv) Hình thức của hợp đồng khơng đúng với quy định của pháp luật.
Thông qua hợp đồng các chủ thể cũng như những người khác có thể biết được
nội dung của hợp đồng giữa các bên. Việc quy định một số loại hợp đồng phải
tuân thủ các quy định về hình thức dựa trên cơ sở là đối tượng của các loại
HĐ này có giá trị lớn hoặc có tính năng đặc biệt, nên hình thức của hợp đồng
là căn cứ xác định chính xác nội dung các cam kết, thỏa thuận của các bên.
Mặt khác, những quy định đó còn là cơ sở để các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền kiểm tra, giám sát việc chuyển dịch các tài sản này.
Thứ hai, các bên tham gia hợp đồng phải gánh chịu hậu quả pháp lý
nhất định. Khi hợp đồng vơ hiệu, các bên phải quay lại tình trạng ban đầu, các
bên tham gia hợp đồng hoàn lại cho nhau những gì đã nhận, về mặt lý thuyết,
đây là sự tổn thất của các bên, vì các bên khơng đạt được mục đích như đã
mong muốn mà quay lại tình trạng như trước khi tham gia hợp đồng. Tuy
nhiên, về mặt thực tế có trường hợp khi tuyên bố hợp đồng vơ hiệu, có bên
được hưởng lợi, có bên bị thiệt hại, có thể nói đây là vấn đề phức tạp nhất khi
giải quyết hậu quả pháp lý hợp đồng vô hiệu trong thực tế.
1.1.2.2 Xác định hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh, thương mại
Về nguyên tắc, để một hợp đồng phát sinh hiệu lực pháp lý thì hợp
đồng đó phải thỏa mãn các điều kiện do luật định. BLDS đưa ra những điều
kiện chung nhất về điều kiện có hiệu lực của các GDDS, trên cơ sở đó luật
chuyên ngành có thể có những quy định bổ sung cụ thể hóa về điều kiện có
hiệu lực đối với từng loại hợp đồng cụ thể. Theo đó, những hợp đồng phải
tuân thủ các điều kiện có hiệu lực chung theo quy định của BLDS, khi luật
chuyên ngành không quy định hoặc quy định không rõ ràng, đầy đủ. Tất cả
những hợp đồng không tuân thủ một trong các điều kiện có hiệu lực đó thì sẽ
bị coi là vô hiệu.
Điều 116 BLDS 2015 quy định: “GDDS là hợp đồng, hoặc..., nghĩa vụ
dân sự”. Như vậy, HĐ (dân sự) trong mọi trường hợp được coi là GDDS. Do
vậy điều kiện có hiệu lực của GDDS cũng là điều kiện có hiệu lực của HĐ,
10
những quy định về điều kiện có hiệu lực của GDDS sẽ được áp dụng khi giao
kết và thực hiện hợp đồng. Cũng từ đó, khi xem xét hiệu lực của hợp đồng
trong KDTM - một loại hợp đồng dân sự đặc thù, ta cũng áp dụng các điều
kiện có hiệu lực của GDDS, bởi luật chun ngành khơng có quy định về vấn
đề này. Theo đó, các điều kiện dẫn đến sự vơ hiệu của HĐ trong KDTM, đó
là - dựa theo Điều 117 BLDS 2015:
Thứ nhất, chủ thể khơng có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành
vi dân sự phù hợp với HĐ được xác lập.
Để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật HĐ, khi quy định về các loại
HĐ cụ thể trong lĩnh vực KDTM, LTM năm 2005 và các luật chuyên ngành
khác không lặp lại những quy định chung về HĐ đã được ghi nhận trong
BLDS. Quy định về từng loại HĐ cụ thể trong lĩnh vực thương mại, LTM và
các luật chuyên ngành tập trung quy định về tính chất, chủ thể, hình thức,
quyền và nghĩa vụ trong từng quan hệ HĐ cụ thể. Đây cũng là đặc điểm
chung nhất của LTM và các luật chuyên ngành về vấn đề này. Do đó, để xác
định tư cách chủ thể tham gia HĐ trong KDTM, các bên cần nghiên cứu kỹ
các quy định có liên quan của luật chun ngành.
Ví dụ: Luật thương mại xác định chủ thể tham gia từng quan hệ HĐ
trong lĩnh vực thương mại thông qua việc xác định tư cách pháp lý của
thương nhân khi thực hiện một hoạt động thương mại cụ thể. Như quy định
tại Điều 167 LTM năm 2005: “1. Bên giao đại lý là thương nhân giao hàng
hóa cho đại lý bán... 2. Bên đại lý là thương nhân nhận hàng hóa để làm đại
lý bán...”. Từ đó các chủ thể nhận thức rằng chỉ có thương nhân mới được
thực hiện đại lý thương mại và các chủ thể tham gia quan hệ HĐ đại lý
thương mại phải đều phải là thương nhân. Nếu một trong các bên không phải
là thương nhân hay không được thương nhân ủy quyền hợp pháp tham gia
quan hệ này, HĐ lập tức vô hiệu do vi phạm yếu tố chủ thể HĐ.
11
Thứ hai, chủ thể tham gia HĐ không tự nguyện. Tự nguyện được hiểu là
“tự mình muốn làm, khơng phải bị thúc ép, bắt buộc”3. Tính tự nguyện trong HĐ
là khả năng về ý chí và biểu lộ ý chí ra bên ngoài của các chủ thể khi tham gia
HĐ, là phạm trù chủ quan thuộc khả năng xử sự của quyền chủ thể được pháp
luật công nhận và cho phép. Yếu tố tự nguyện đóng vai trị rất quan trọng và có
thể coi là yếu tố đặc trưng của pháp luật dân sự nói chung và HĐ nói riêng. Để
xác định một chủ thể tham gia HĐ có hồn tồn tự nguyện hay khơng, điều kiện
cần là được pháp luật cho phép tham gia HĐ và điều kiện đủ là hành vi tham gia
HĐ của các chủ thể tham gia phải là thể hiện ý chí đích thực của họ trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng nhằm đạt được mục đích nhất định.
Thứ ba, mục đích và nội dung của HĐ vi phạm điều cấm của pháp
luật, trái đạo đức xã hội. “Mục đích” hiểu theo nghĩa thơng thường là “cái
vạch ra làm đích nhằm đạt cho được” - Từ điển Tiếng Việt. Theo pháp luật
dân sự Việt Nam thì mục đích của HĐ được hiểu là lợi ích mà các bên đã
vạch ra sẵn trong ý nghĩ của mình và mong muốn đạt được khi tham gia HĐ.
Nội dung, theo nghĩa thông thường là mặt bên trong của sự vật, cái được hình
thức chứa đựng hoặc biểu hiện. Nội dung được hiểu theo nghĩa rộng, là tất cả
các điều kiện có liên quan đến giao dịch như điều kiện về chủ thể, về đối
tượng, số lượng, về HĐ có điều kiện hoặc các nguyên tắc của HĐ. Theo nghĩa
hẹp thì nội dung gồm tổng hợp các điều khoản mà các bên thỏa thuận hoặc
tuyên bố nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Mục đích, nội dung của HĐ là sự thể hiện hành vi có ý thức của con
người khi xác lập, thực hiện HĐ và được pháp luật công nhận và bảo vệ. Do
vậy, nó là điều kiện cần và đủ của mọi GDDS cũng như của HĐ hay HĐ
trong KDTM. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trực tiếp tham
gia HĐ, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, lợi ích Nhà nước
cũng như lợi ích chung của cộng đồng, pháp luật quy định những hành vi nhất
định mà các chủ thể không được thực hiện - điều cấm của luật. Do vậy các
’Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Minh Hằng, tlđd 1, tr.55
12
bên khi tham gia HĐ cần tôn trọng và tuân thủ. Bên cạnh các quy định cấm
của luật thì những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng
đồng thừa nhận và tôn trọng các bên cũng phải tôn trọng và thực hiện đúng để
tránh sự vô hiệu cho HĐ đã xác lập.
Thứ tƣ, hình thức HĐ không đúng quy định trong trường hợp pháp luật
quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực của HĐ. Để bảo vệ cho trật tự an
toàn xã hội, lợi ích của Nhà nước và sự an toàn của chủ thể tham gia HĐ,
ngoài việc các chủ thể tham gia HĐ phải hồn tồn tự nguyện thì cịn phải
tn thủ theo các quy định về hình thức đối với một số HĐ nhất định. Theo
Từ điển Tiếng Việt, hình thức thơng thường được hiểu là “tồn thể nói chung
những gì làm thành mặt bề ngoài của sự vật, cái chứa đựng biểu hiện nội
dung”. Theo đó, hình thức của HĐ là cách thức biểu hiện ra bên ngoài, là
phương thức thể hiện ý chí của các chủ thể trong HĐ. Hình thức của hợp
đồng nói chung có thể được thể hiện dưới dạng lời nói, hành vi hoặc văn bản.
Những quy định cụ thể về hình thức này (nếu có) phần lớn là được quy định
tại các luật chuyên ngành. Chính vì vậy, để HĐ khơng bị vơ hiệu về mặt hình
thức thì các bên cần tìm hiểu các quy định cụ thể có liên quan của luật chuyên
ngành và tuân theo đúng các quy định đó. Trường hợp luật khơng có quy định
điều kiện về hình thức, các bên sẽ có thể tùy nghi lựa chọn hình thức cho HĐ
mà mình tham gia.
Ví dụ: Quy định tại Điều 110 LTM 2005 về Hợp đồng dịch vụ quảng
cáo thương mại, theo đó, hợp đồng này phải được lập thành văn bản hoặc
bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Hay căn cứ quy định ở
các Điều 138 (khoản 2), Điều 148 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, thì hợp đồng
chuyển nhượng quyền sở hữu cơng nghiệp phải được lập thành văn bản và chỉ
có hiệu lực khi đã được đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở
hữu trí tuệ.
Ngồi ra, đối với HĐ thương mại quốc tế, các quy định điều chỉnh quan
hệ HĐ này còn được ghi nhận trong các điều ước quốc tế song phương và đa
13
phương mà Việt Nam tham gia với tư cách thành viên. Chẳng hạn như: Hiệp
định thương mại Việt Nam - Hòa Kỳ (BTA), Hiệp định chung về thương mại
dịch vụ của WTO (GATS), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên
minh châu Âu (FTA), Công ước Viên năm 1980 về HĐ MBHH quốc tế
(CISG)... Những quy định trong các điều ước quốc tế trực tiếp hoặc gián tiếp
điều chỉnh các quan hệ HĐ trong lĩnh vực thương mại nói chung và HĐ
thương mại quốc tế nói riêng. Do đó, khi đánh giá hiệu lực pháp lý của những
HĐ này phải lưu ý quan tâm đến các văn bản pháp luật có liên quan đó.
Tóm lại, các điều kiện có hiệu lực của HĐ được quy định trong BLDS
là những điều kiện cơ bản, bắt buộc đối với các chủ thể khi xác lập, thực hiện
hợp đồng. Các điều kiện nêu trên là một thể thống nhất, hoàn chỉnh và khi
xem xét không được xem nhẹ điều kiện nào. Căn cứ vào nội dung của từng
điều kiện cụ thể có thể thấy: điều kiện có hiệu lực của giao dịch đều là ý chí
của Nhà nước kết hợp với ý chí của chủ thể trong hợp đồng nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho các chủ thể. Vì vậy, nếu thiếu một hoặc các điều
kiện này thì HĐ có thể bị tun bố là vơ hiệu. Trong một HĐ, các điều kiện
này có mối liên hệ gắn bó với nhau và bổ trợ cho nhau. Do đó, khi xem xét,
đánh giá một HĐ về nguyên tắc không được tách các điều kiện đó ra mà phải
đặt chúng trong mối quan hệ biện chứng với nhau để giúp ta thấy được tính
hợp pháp hay khơng hợp pháp của HĐ. Trên cơ sở đó, ta xác định được HĐ
vơ hiệu hay hợp pháp.
1.1.3. Các trường hợp hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh, thương mại
Thứ nhất, hợp đồng vô hiệu do có mục đích, nội dung vi phạm điều
cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội: Mục đích là lợi ích mà chủ thể
mong muốn đạt được khi xác lập HĐ. Nội dung của HĐ là toàn bộ các thỏa
thuận, giao kết của các bên khi tham gia ký kết HĐ được thể hiện dưới dạng
các điều khoản. Khi HĐ trong KDTM vô hiệu với lý do này thì bị xem là vơ
hiệu tuyệt đối. Theo quy định tại Điều 123 của BLDS năm 2015, thì điều cấm
của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực
14
hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử
chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Để xác định nội dung của HĐ có vi phạm điều cấm của pháp luật hay
không, cần lưu ý các quy phạm cấm đoán trong các văn bản luật như: LTM
2005, Luật Đầu tư 2014... và tham khảo các nghị định hướng dẫn thi hành các
luật này của Chính phủ Quy định chi tiết LTM về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh
doanh và kinh doanh có điều kiện; Nghị định về Danh mục hàng hóa cấm
nhập khẩu, tạm ngừng kinh doanh tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu... để có
được những hướng dẫn hoặc giải thích cụ thể từ các quy định của luật và lưu
ý, khi áp dụng điều kiện này phải trích dẫn cụ thể điều luật cấm đốn được
quy định trong luật, trường hợp luật không cấm mà các văn bản hướng dẫn
hoặc văn bản khơng phải là luật có quy định cấm thì khơng được áp dụng.
Đảm bảo đối tượng của HĐ là những hàng hóa mà pháp luật không cấm,
không trái đạo đức xã hội.
Thứ hai, hợp đồng vô hiệu do giả tạo: Khi các bên giao kết HĐ một
cách giả tạo nhằm che giấu một HĐ khác thì HĐ giả tạo vơ hiệu cịn HĐ bị
che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp HĐ bị che giấu cũng vô hiệu theo
quy định của pháp luật. Trường hợp xác lập HĐ giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa
vụ với người thứ ba thì HĐ đó vơ hiệu.
Thứ ba, hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn: Trường hợp HĐ được xác lập
có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên khơng đạt được mục đích của
việc xác lập HĐ thì bên bị nhầm lẫn có quyền u cầu Tịa án tun bố HĐ vơ
hiệu, trừ trường hợp mục đích xác lập HĐ của các bên đã đạt được hoặc các
bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác
lập HĐ vẫn đạt được.
Thứ tƣ, hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép: Như đã đề
cập, khi tham gia HĐ các bên phải trên tinh thần tự do, tự nguyện, trung thực
trong quá trình xác lập, thực hiện HĐ nhằm đạt được những lợi ích nhất định,
khơng bên nào được lừa dối, ép buộc bên nào. Vì vậy, khi một bên tham gia
15
hợp đồng không tự nguyện do bên kia hay người thứ ba thì họ có quyền u
cầu TA tun bố HĐ đó là vơ hiệu. Bởi, HĐ mất đi yếu tố tự nguyện, dẫn đến
những nội dung được thể hiện trong HĐ khơng phải là ý chí thực của họ thì
pháp luật khơng bảo hộ cho HĐ đó.
Thứ năm, hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức:
Các quy định về hình thức của HĐ được pháp luật chuyên ngành có quy định
tương đối cụ thể. Theo đó, đối với các loại HĐ pháp luật có quy định thì các
bên cần phải tuân thủ theo đúng các quy định đó nếu khơng sẽ bị vơ hiệu (trừ
trường hợp quy định tại Điều 129 BLDS 2015 - Các bên có thể tính đến việc
thỏa thuận rõ cách tính “hai phần ba nghĩa vụ trong GD” trong HĐ, để tránh
việc bị vơ hiệu vì lý do này).
Thứ sáu, hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm
chủ được hành vi của mình. Đây là trường hợp người có năng lực hành vi dân
sự nhưng đã xác lập HĐ vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình, thì có quyền u cầu TA tun bố HĐ đó vơ hiệu.
Nghĩa vụ chứng minh việc ký HĐ vào đúng thời điểm không nhận thức và
làm chủ được hành vi thuộc về người có yêu cầu/người đã xác lập HĐ.
Bên cạnh đó cịn có các trường hợp HĐ vơ hiệu khác như: HĐ vơ hiệu
do có đối tượng khơng thể thực hiện được; HĐ vô hiệu do người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện
hay một số HĐ theo quy định của LDN 2014, phải tuân thủ theo các trình tự
nhất định thì các HĐ mới có hiệu lực (các trường hợp HĐ ký kết giữa công ty
với một số đối tượng: Điều 67, 86, 162 LDN 2014). Theo đó, các bên cần
phải có cái nhìn thận trọng các trường hợp vơ hiệu của HĐ để tránh rủi ro cho
quan hệ HĐ của mình.
1.1.4. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh,
thương mại
Hậu quả theo nghĩa thông thường là kết quả không hay về sau. Hậu quả
dùng để chỉ những hành vi, sự kiện gây ra bất lợi cho cá nhân, tổ chức hay
16
cho cả nhân loại. Mặc dù khái niệm hậu quả pháp lý được sử dụng một cách
rộng rãi trong khoa học pháp lý, nhưng hiện nay các nhà khoa học vẫn chưa
đưa ra một khái niệm cụ thể, các nhà lập pháp cũng chỉ đi sâu vào quy định
nội dung của hậu quả pháp lý.
Theo quy định tại Điều 131 BLDS năm 2015 quy định về hậu quả của
GDDS vô hiệu, theo đó GDDS vơ hiệu khơng làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm GD được xác lập. Khi
GDDS vơ hiệu thì các bên khơi phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau
những gì đã nhận. Trường hợp khơng thể hồn trả được bằng hiện vật thì trị
giá thành tiền để hồn trả. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức khơng
phải hồn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi
thường. Việc giải quyết hậu quả của GDDS vô hiệu liên quan đến quyền nhân
thân do BLDS hay luật khác có liên quan quy định.
Về nguyên tắc, hậu quả pháp lý của HĐ vô hiệu là không làm phát
sinh quyền, nghĩa vụ dân sự đối với các bên từ thời điểm xác lập. Điều này
cho thấy các nhà làm luật đã khẳng định tính nhất quán trong việc xử lý
một HĐ (nếu đã được xác lập) là vơ hiệu và nhằm phịng ngừa trường hợp
các bên có ý định cùng nhau xác lập HĐ. Khi HĐ vô hiệu không làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của các bên và họ phải hồn trả cho nhau những gì
đã nhận, nói cách khác, đó là khơi phục lại tình trạng ban đầu, trước thời
điểm xác lập HĐ. Việc không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ khi HĐ vô
hiệu chỉ là cách thức quy định của nhà làm luật (xác định tính ngun tắc,
khơng nên hiểu và áp dụng một cách máy móc), cịn thực tế khi TA giải
quyết vụ việc xin tun bố HĐ vơ hiệu thì thường là trường hợp các bên đã
thực hiện toàn bộ hoặc một phần những gì mà họ đã thỏa thuận với nhau.
Do vậy, rất ít trường hợp khi TA tuyên bố HĐ vơ hiệu có thể khắc phục
hậu quả đúng như nhà làm luật quy định.
17
Về phương diện lý thuyết, khi các bên tham gia HĐ nhằm thiết lập một
quan hệ mà ở đó mỗi bên đều đạt được một mục đích nhất định. Từ mục đích
đó, các bên tham gia HĐ sẵn sàng gánh chịu những trách nhiệm và được
hưởng những quyền lợi nhất định, nhưng vì HĐ vơ hiệu khơng xác lập quyền
và nghĩa vụ của các bên, nếu các bên chưa thực hiện, thì các bên khơng được
tiếp tục thực hiện; nếu đang được thực hiện, các bên không được tiếp tục thực
hiện và giải quyết hậu quả pháp lý của HĐ vô hiệu; trường hợp các bên đã
thực hiện xong những gì đã thỏa thuận thì cũng giải quyết hậu quả của HĐ vô
hiệu. Giải quyết hậu quả pháp lý của HĐ vơ hiệu là buộc các bên khơi phục
lại tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau những gì đã nhận, trong trường hợp
các bên không trả cho nhau bằng hiện vật thì hồn trả cho nhau bằng tiền, bên
có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường do pháp luật quy định hoặc các bên có
thỏa thuận trước về hậu quả, như phạt, phạt cọc khi một bên có lỗi và phải
chịu thiệt hại tương ứng với lỗi của họ gây ra. Do đó, HĐ vơ hiệu chỉ có thể
làm phát sinh hậu quả về trách nhiệm dân sự hoặc BTTH ngồi HĐ. Đây
cũng chính là tính chất đặc trưng của chế tài trong quan hệ pháp luật dân sự.
Tóm lại, khi hợp đồng vơ hiệu thì khơng làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm HĐ được xác lập. Khi
HĐ vơ hiệu thì các bên khơi phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau
những gì đã nhận. Trường hợp khơng thể hồn trả được bằng hiện vật thì trị
giá thành tiền để hồn trả. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức khơng
phải hồn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi
thường. Việc giải quyết hậu quả của GD dân sự vô hiệu liên quan đến quyền
nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.
1.2. Pháp luật về hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh, thƣơng mại
Pháp luật điều chỉnh HĐ trong lĩnh vực kinh doanh thương mại được
hiểu là tổng thể quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận,
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình ký kết và thực hiện
hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Chế định hợp đồng vô hiệu
18
là bộ phận quan trọng của pháp luật hợp đồng. Theo đó, pháp luật về HĐ vơ
hiệu trong KDTM bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ về HĐ vô hiệu phát sinh trong
hoạt động KDTM. Hiện nay các quy định về hợp đồng vô hiệu trong kinh
doanh thương mại ở nước ta được quy định chung tại BLDS năm 2015, Luật
thương mại năm 2005, đồng thời được quy định ở các luật chuyên ngành.
1.2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật về hợp đồng vô hiệu trong kinh
doanh, thương mại
Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật điều chỉnh quan hệ HĐ được quy định
trong nhiều văn bản khác nhau. Ngoài những quy định về HĐ trong BLDS,
LTM, cịn có thể tìm thấy nhiều quy định liên quan đến HĐ trong các văn bản
pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực trong KDTM như: tín dụng, ngân hàng, bảo
hiểm, xây dựng, vận chuyển, đầu tư, đất đai... Nội dung cơ bản của pháp luật
điều chỉnh hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực thương mại bao gồm:
-Những quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
- Quy định về các trường hợp hợp đồng vô hiệu
- Quy định về xử lý hợp đồng vô hiệu
- Quy định về thẩm quyền và thời hiệu xử lý hợp đồng vô hiệu.
1.2.2 Nguồn luật và vấn đề áp dụng pháp luật về hợp đồng vô hiệu
trong kinh doanh, thương mại
Thứ nhất, áp dụng pháp luật quốc gia.
Các quy định về HĐ vô hiệu trong KDTM phần lớn được quy định tại
BLDS 2015. Còn các luật chuyên ngành quy định các vấn đề liên quan khác
như: chủ thể tham gia HĐ, hình thức hợp đồng, đối tượng HĐ... Do vậy, để
xem xét vấn đề hiệu lực của HĐ trong KDTM thì chúng ta luôn luôn phải
nghiên cứu các quy định của pháp luật chuyên ngành trước sau đó là các quy
định của BLDS.
Ví dụ: Xem xét hiệu lực của HĐ Đại diện cho thương nhân. Tìm hiểu
và nghiên cứu các quy định của pháp luật về hoạt động trung gian thương mại
19