MỞ ĐẦU
Chính sách dân tộc là một trong những nội dung quan trọng trong hệ
thống chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Nghiên cứu về chính sách dân tộc
có nội dung rất rộng lớn, đa dạng nhưng về cơ bản tập trung vào hai nội chính:
Một là nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách dân tộc. Hai là nghiên
cứu những khía cạnh cụ thể liên quan đến vấn đề cấp bách vấn đề đặt ra trong
chính sách để điều chỉnh và xây dựng chính sách dân tộc qua từng giai đoạn
lịch sử phù hợp.
Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc trong giai đoạn hiện nay trở thành
nhiệm vụ chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt. Từ Đại VI đến Đại hội XII ,
Đảng ta luôn xem vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đồn kết các dân tộc có
vị trí chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta. Dựa trên những quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc,
Đảng ta đã đề ra các chủ trương, chính sách dân tộc, với nội dung cơ bản là:
“Bình đẳng, tương trợ, đồn kết giúp nhau cùng phát triển’’. Đây là luận điểm
rất quan trọng thể hiện tầm nhìn chiến lược và tư duy đổi mới trong bối cảnh
quốc gia và quốc tế của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới.
Đặc biệt, là chính sách dân tộc đối với vùng dân tộc thiểu số, miền núi
(DTTS, MN) và vùng kinh tế - xã hội (KT-XH) đặc biệt khó khăn (ĐBKK), là
địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh,
quốc phòng, đối ngoại và bảo vệ mơi trường sinh thái; là vùng có điều kiện
khó khăn nhất, chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất, KT-XH phát triển chậm
nhất, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản thấp nhất, tỷ lệ nghèo cao nhất.
Vì vậy, việc nghiên cứu Đề tài về chính sách dân tộc và phát triển KTXH vùng DTTS, MN và vùng KT-XH ĐBKK là hết sức cần thiết trong giai
đoạn hiện nay.
1
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
1.1. Khái niệm về chính sách dân tộc
Chính sách dân tộc là một hệ thống chính sách tác động trực tiếp đến các
dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc nhằm phát triển các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng ở các đồng bào dân tộc thiểu số.
Chính sách dân tộc là một bộ phận hợp thành chính sách nhà nước.
Nhiều nội dung, nhiệm vụ của chính sách dân tộc được thực hiện xen kẽ trong
nội dung, nhiệm vụ của các chính sách khác như chính sách miền núi, chính
sách xã hội, chính sách dân vận, chính sách tơn giáo…
Chính sách dân tộc có nội dung, nhiệm vụ riêng, có đối tượng và mục
đích xác định; có phương thức triển khai mang tính đặc thù.
1.2. Căn cứ xây dựng chính sách dân tộc
1.2.1. Cơ sở lý luận
Căn cứ trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về dân tộc: Theo
nghĩa rộng, dân tộc là quốc gia được hình thành ổn định và lâu dài, chịu sự
quản lý đường hướng chung của một nhà nước; cùng chung lãnh thổ; về cơ bản
có phương thức sản xuất giống nhau; Dân tộc là cộng đồng quốc gia có ngơn
ngữ giao tiếp chung, có chung một nền văn hóa thể hiện qua phong tục, tập
quán, tâm lý, tính cách của cộng đồng ấy.
Theo nghĩa hẹp, dân tộc là tộc người, là cộng đồng hình thành lâu dài
trong lịch sử, có ba đặc trưng cơ bản sau: có ngơn ngữ riêng của dân tộc mình;
có bản sắc văn hóa riêng thể hiện qua các loại hình văn hóa vật chất và các loại
hình văn hóa tinh thần, tập quán, nghi lễ, phong tục; là cộng đồng người có ý
thức tự giác tộc người (sự tự ý thức về tên gọi, về quá trình hình thành và phát
triển của mỗi tộc người).
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc: Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân tộc Việt Nam là một, đất nước Việt Nam là
một, sơng có thể cạn, núi có thể mịn, song chân lý đó khơng bao giờ thay đổi”.
Theo lời dạy của Người, Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng
khối đoàn kết toàn dân tộc, quan tâm phát triển toàn diện và bền vững vùng
dân tộc thiểu số. Kế thừa và phát huy truyền thống đồn kết của dân tộc, trong
suốt q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định vấn đề dân tộc, công
2
tác dân tộc và đồn kết các dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng nước ta. Ngay từ khi Đảng ta ra đời đến nay, nhất là từ khi
giành được chính quyền về tay nhân dân, Đảng và Nhà nước ta luôn thực hành
trước sau như một chính sách bình đẳng dân tộc. Thực tiễn đã chứng minh, đại
đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo là động lực
chủ yếu để phát triển đất nước, là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng
lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Việt Nam là quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc (53 dân tộc thiểu số
chiếm 14,6% dân số cả nước, cư trú chủ yếu ở miền núi, vùng sâu vùng xa,
vùng biên giới), cùng cư trú, tồn tại và phát triển trên lãnh thổ Việt Nam, đã
sớm hình thành các đặc điểm cơ bản:
Cộng đồng các dân tộc Việt Nam chung sống đồn kết, hịa hợp: Ngay
từ thuở khai sai, các dân tộc phải cố kết, chung sức, chung lòng chống chọi với
thiên nhiên, bão lũ; tinh thần đoàn kết càng được phát huy hơn trong lịch sử
đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giải phóng dân tộc. Trong sự nghiệp cách
mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, truyền thống đồn kết,
thống nhất dân tộc khơng ngừng được củng cố và phát triển, tạo nên sức mạnh
vĩ đại để chiến thắng thiên tai, chiến thắng thù trong, giặc ngoài đem lại thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.
Các dân tộc cư trú xen kẽ nhau, có trình độ phát triển kinh tế - xã hội
không đồng đều, nhưng không cơ sự phân chia lãnh thổ và chế độ xã hội riêng.
Hình thái cư trú xen kẽ nhiều dân tộc anh em phản ánh mối quan hệ đoàn kết,
thống nhất của cộng đồng dân tộc Việt Nam trong một quốc gia. Những năm
gần đây, gắn liền với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tính chất đan xen đó
càng tăng lên.
Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, tạo nên nền văn hóa Việt Nam đa
dạng, phong phú, thống nhất. Mỗi dân tộc đều có phong tục, tập qn, tâm lý,
lối sống, tín ngưỡng tơn giáo mang tính đặc thù, tạo nên những sắc thái văn
hóa riêng của từng dân tộc, tồn tại và phát triển trong tính đa dạng và thống
nhất của nền văn hóa các dân tộc Việt Nam.
3
Địa bàn cư trú của các dân tộc thiểu số có vị trí chiến lược đặc biệt quan
trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phịng, đối ngoại và bảo vệ
bền vững môi trường sinh thái. Đồng bào cư trú suốt dọc tuyến biên giới phía
Bắc, Tây và Tây Nam, có nhiều cửa ngõ thơng thương giữa nước ta với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Đây là địa bàn có nguồn tài nguyên phong
phú, đa dạng, có hệ thống rừng phịng hộ, rừng đặc dụng phục vụ cho sự
nghiệp phát triển của đất nước và bảo vệ bền vững mơi trường sinh thái. Trong
tình hình hiện nay, miền núi là địa bàn tiềm năng, mang tính chiến lược, cơ bản
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kinh tế ở miền núi, các dân tộc thiểu số cịn chậm phát triển, tình trạng
du canh, du cư, di dân tự do vẫn còn diễn biến phức tạp. Kết cấu hạ tầng ở
vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng vẫn cịn khó khăn, nhiều nơi mơi
trường sinh thái tiếp tục bị suy thối.
Các thế lực thù địch ln tìm cách lợi dụng những khó khăn về đời sống,
trình độ dân trí thấp của đồng bào và những sai sót của các cấp, cá ngành trong
thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước để kích động tư tưởng ly
khai, tự trị, phá hoại truyền thống đoàn kết và thống nhất của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, gây mất ổn định chính trị, nhất là trên các địa bàn chiến
lược, trọng điểm.
1.3. Những quan điểm cơ bản về chính sách dân tộc
Thứ nhất, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ
bản, lâu dài đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, giải quyết tốt vấn đề dân tộc và đoàn kết
dân tộc nhằm tập hợp được đông đảo nguồn nhân lực, tập hợp nhiều hơn các
điều kiện vật chất để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tạo môi trường ổn định,
bầu khơng khí xã hội hịa thuận để phát triển. Là cơ sở chính trị xã hội vững
chắc để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
- Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương
trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân
tộc.
4
- Phát triển tồn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc
phịng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải
quyết vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi
dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ
gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc
thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam
thống nhất.
- Ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trước
hết, tập trung vào phát triển giao thơng và kết cấu hạ tầng, xóa đói, giảm
nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với
bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực tự
cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự hỗ trợ của Trung
ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
- Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của tồn bộ hệ thống chính
trị.
1.4. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng đã xác định
“Đồn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước
ta. Tiếp tục hồn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng,
tơn trọng, đồn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau
cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
vùng có đơng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây
Nguyên, Tây Nam Bộ, tây duyên hải miền Trung. Nâng cao chất lượng giáo
dục - đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc.
Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương,
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. chống kỳ thị dân tộc;
nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân
tộc”.
- Nghị quyết 24/NQTW về công tác dân tộc của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, Khóa IX, Hội nghị lần thứ 7, trong đó xác định rõ quan điểm:
“Phát triển tồn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng
5
trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết
các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi
dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ
gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu
số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống
nhất.; - Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi,
trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm
nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với
bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự
cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của
Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước…”
- Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị khóa IX về
phương hướng phát triển KT-XH và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng trung
du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2010; Kết luận số 26-KL/TW ngày 02/8/2012
của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày
01/7/2004 của Bộ Chính trị khóa IX nhằm đẩy mạnh phát triển KT-XH và đảm
bảo quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020;
- Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 08/1/2002 của Bộ Chính trị về phát
triển KT-XH và bảo đảm an ninh quốc phòng - vùng Tây Nguyên thời kỳ
2001-2010; Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 10-NQ/TW ngày 08/1/2002 của Bộ Chính trị (Khóa IX) về phát triển
vùng Tây Nguyên thời kỳ 2011-2020;
- Nghị quyết số 21- NQ/TW ngày 20/01/2003 của Bộ Chính trị về
phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển KT-XH và đảm bảo an ninh
quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2001-2010; Kết luận số
28-KL/TW ngày 14/8/2012 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ, giải
pháp phát triển KT-XH và đảm bảo an ninh quốc phịng vùng đồng bằng sơng
Cửu Long thời kỳ 2011-2020.
- Nghị quyết số 39- NQ/TW ngày 16/8/2004 của Bộ Chính trị về phát
triển KT-XH và đảm bảo quốc phòng an ninh vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải
Trung bộ đến năm 2010; Kết luận số 25-KL/TW ngày 02/8/2012 của Bộ Chính
trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39- NQ/TW ngày 16/8/2004 của Bộ
6
Chính trị nhằm đẩy mạnh phát triển KT-XH và đảm bảo quốc phòng an ninh
vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ đến năm 2020;
Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2013 xác định:
1. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân
tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
2. Các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,
chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống
và văn hóa tốt đẹp của mình.
4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển tồn diện và tạo điều kiện để
các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.”
- Khoản 1, Điều 58: “Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo
vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế tồn dân, có
chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào
ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”.
- Khoản 1, Điều 60: “Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại”.
- Khoản 3, Điều 61: “Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi,
hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người
khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề”.
- Khoản 5, Điều 70: Quốc hội “Quyết định chính sách dân tộc, chính
sách tơn giáo của Nhà nước”.
1.5. Những vấn đề cấp bách đặt ra trong nghiên cứu về chính sách
và đánh giá chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay.
Thứ nhất, cần nghiên cứu và quán triệt trong xây dựng chính sách dân
tộc là phải giải qut hài hịa giữa lợi ích tộc người và lợi ích quốc gia, giữa
phát triển kinh tê - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Từ những vấn đề dân tộc luôn được coi là vấn đề chiến lược nặng về
tính chất chính trị trong các giai đoạn cách mạng trước đây ở nước ta, nay
7
chuyển sang vấn đề chiến lược của chính sách dân tộc mà trọng tâm là về kinh
tế và phát triển. Thực sự tôn trọng, coi trọng các dân tộc, đời sống, sinh hoạt
của họ cả trong nhận thức lẫn trong việc làm từ chính sách đầu tư, hoạch định
các chính sách, đến xây dựng và triển khai các chương trình, dự án (như di dân
làm thuỷ điện, xây dựng các khu công nghiệp ở Tây Nguyên, dự án trồng rừng,
quản lý đất đai...). Thực tiễn trên 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới đã tạo
nên những biến đổi rất to lớn ở vùng miền núi, dân tộc nhưng cũng có khơng ít
nghịch lý. Trong đó đặc biệt tác động tới đời sống người dân là vấn đề di dân
và đất đai. Khơng thể chỉ xuất phát từ lợi ích quốc gia mà coi nhẹ lợi ích tộc
người và đời sống người dân. Trong thời kỳ đổi mới vấn đề di dân diễn ra theo
nhiều luồng và nhiều con đường khác nhau mà nguyên nhân là rất đa dạng và
phức tạp, trong đó có di dân tự do từ các tỉnh miền núi phía Bắc vào Tây
Nguyên và Tây Nam Bộ. Thêm nữa trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, nhiều cơng
trình trọng điểm quốc gia được triển khai và song song với đó là việc di dân
theo kế hoạch diễn ra quyết liệt với khơng ít hệ lụy.
Ở đây cần xem xét thấu đáo cả nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Trong đó nguyên nhân chủ quan liên quan trực tiếp đến chính sách và q trình
thực thi chính sách. Liên quan đến vấn đề này là yêu cầu phát triển và phát
triển bền vững, trong đó con người và các tộc người là chủ thế
Thứ hai, đa dạng hóa chính sách trong phát triển
Từ thực tiễn của đất nước đa dân tộc, mỗi dân tộc có những đặc điểm
lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hoá riêng dẫn đến việc xây dựng chính sách dân
tộc và những chủ trương, biện pháp thực hiện các chính sách đó phải rất đa
dạng, phù hợp với từng vùng, từng dân tộc hay nhóm dân tộc; tạo ra nhiều
cách lựa chọn, nhiều cách đi, nhiều cách giải quyết đối với mỗi vấn đề, mỗi
vùng, mỗi dân tộc. Quan điểm đa dạng hoá các chính sách, biện pháp ở mỗi
vùng, mỗi dân tộc, nhóm dân tộc là đa dạng hoá các mục tiêu, chỉ tiêu, các
biện pháp của các chương trình quốc gia, các dự án ở các cấp độ khác nhau
trong các không gian, thời điểm, đối tượng khác nhau để cùng đạt mục tiêu
chung. Cần nghiên cứu các chính sách về xố đói, giảm nghèo, nâng cao dần
mức sống của nhân dân các dân tộc, xây dựng xã hội phồn vinh, công bằng,
văn minh trong điều kiện mới.
8
Khi nói đến đa dạng hóa cần phải xem xét tổng thể từ lịch sử và quá
trình tộc người đến quan hệ tộc người, từ các đặc trưng sinh hoạt kinh tế - văn
hóa xã hội đến ý thức tộc người, từ không gian sinh tồn đến tâm lý tộc người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói chuyện với các cán bộ làm công tác tuyên giáo
đã lưu ý về tính đặc thù khi tuyên truyền đối với các dân tộc. Người nói: một
tỉnh có người Thái, người Mèo thì tuyên truyền vận động người Thái phải khác
với người Mèo. Đây là vấn đề có ý nghĩa lớn đối với việc thực thi và đưa chính
sách vào cuộc sống. Chúng ta đánh giá cao tính đa dạng văn hóa và tộc người
nhưng khơng thể khơng lưu ý đến tính đặc thù, đến tính khơng đều về trình độ
phát triển ở một số tộc người và nhóm địa phương nhất là trong việc hoạch
định và thực thi chính sách.
Thứ ba, đánh giá tổng kết chính sách dân tộc
Cho đến thời điểm hiện nay, việc đẩy mạnh nghiên cứu, phân tích chính
sách và các biện pháp thực hiện các chính sách để rút ra những bài học về
thành công trong việc thực hiện chính sách dân tộc, đặc biệt phân tích và rút ra
những bài học kinh nghiệm trên thực tiễn về cách triển khai dập khn, máy
móc khơng phù hợp với thực tiễn vùng dân tộc và từng dân tộc đã trở thành
vấn đề cấp thiết.
Vấn đề dân tộc là vấn đề lớn và đã được ghi nhận qua các văn kiện của
Đảng và pháp luật của Nhà nước nhưng điều quan trọng có vị trí khơng nhỏ là
q trình nghiên cứu phân tích đánh giá chính sách khi đưa chính sách vào
cuộc sống. Đã đến lúc cần rà soát lại hệ thống chính sách đối vùng các dân tộc
thiểu số. Ví như chính sách vay vốn, tín dụng; chính sách trợ giá trợ cước; các
chính sách về giáo dục, về an sinh xã hội ; chính sách đầu tư phát triển cơ sở
hạ tầng; chính sách xóa đói giảm nghèo ... Trên thực tế vấn đề nghèo đói vẫn là
căn bệnh trầm kha ở khu vực các dân tộc thiểu số, nhất là ở các tỉnh vùng cao
phía Bắc (Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hà Giang...). Trong nhận thức chung
chúng ta thường thống nhất đánh giá: chính sách về cơ bản là đúng nhưng quá
trình thực hiện triển khai chính sách bộc lộ những hạn chế. Nhận thức đó chưa
bảo đảm tính khách quan. Nhiều chủ trương chính sách nặng về định hướng và
mang tính mong muốn duy lý, ví như chính sách và kế hoạch tiến hành định
9
canh định cư triển khai từ năm 1968 và trong buổi đầu thời kỳ đổi mới chúng
ta dự kiến đến năm 1990 hồn thành về cơ bản.
Việc phân tích và đánh giá chính sách hiện nay là yêu cầu bắt buộc và đã
đến lúc cần có tổng kết tồn diện về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc trên
cả bình diện lý luận và thực tiễn thời kỳ hiện đại ở nước ta đáp ứng yêu cầu
của thời kỳ tồn cầu hóa và hội nhập.
Vấn đề dân tộc như chúng ta đã biết là phạm trù lịch sử, có tính bền
vững cao nhưng lại là vấn đề ln ln vận động và gắn liền với q trình phát
triển của mỗi quốc gia dân tộc. Nghị quyết TW 7 (Khóa IX) chuyên đề về vấn
đề dân tộc được ban hành đã đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn đầu của thời kỳ
cơng nghiệp hóa nhưng mới chỉ đề cập đến các nguyên tắc và chính sách trước
mắt và do đó việc tổng kết về vấn đề này có ý nghĩa then chốt trong việc hoạch
định chính sách dân tộc và trong chiến lược phát triển của cách mạng nước ta.
Thứ tư, Nghiên cứu các chính sách về bảo tồn, làm giàu và phát huy các
giá trị văn hóa dân tộc phục vụ phát triển bền vững.
Khi nói đến tộc người là nói đến văn hóa và bản sắc, văn hóa là bộ gien
xã hội của mọi dân tộc và do đó văn hóa đóng vai trị sống cịn liên quan đến
sự tồn vong của mọi tộc người. Di sản văn hóa của cộng đồng các dân tộc ở
Việt Nam là rất đồ sộ. Trong nhiều năm qua chúng ta đã tiến hành nhận diện di
sản này và đã có những thành công nhất định. Tuy nhiên những thành tựu này
mới chỉ là bước đầu. Bài học kinh nghiệm ở một số quốc gia và đặc biệt là
Trung Quốc cho thấy cần phải tiến hành tổng kiểm kê, đánh giá tồn bộ di sản
văn hóa của mỗi tộc người bằng các cơng nghệ hiện đại, trên cơ sở đó tiến
hành khai thác phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.
Văn hố và các giá trị truyền thống (khơng phải chỉ là giáo dục, hay các
hình thức bên ngồi của văn hoá như trang phục, nghi lễ, các kiểu nhà ở...) của
các dân tộc cần được coi trọng là động lực phát triển kinh tế - xã hội ở các dân
tộc, các vung. Việc xây dựng bất cứ chương trình, dự án phát triển nào cũng
cần phải quán triệt quan điểm thực sự kế thừa và phát triển các giá trị văn hoá
truyền thống các dân tộc, của mỗi dân tộc; phải có cái nhìn xuất phát từ nền
văn hố của mỗi dân tộc, mỗi vùng; chúng ta cần có quan điểm nghiên cứu và
kế thừa một cách thực sự những ứng xử văn hoá, những kiến thức, tri thức địa
10
phương, hệ thống quản lý cộng đồng truyền thống của mỗi dân tộc trong phát
triển .
Thứ năm, về chủ thể văn hóa và chủ thể phát triển trong q trình xây
dựng và triển khai chính sách
Thực tế phát triển cho thấy chủ thể dân tộc thiểu số, chủ thể kinh tế, xã
hội, văn hố có vai trị, tiếng nói quyết định đối với sự phát triển của mình
thơng qua các chương trình, dự án và do đó trong chiến lược phát triển hiện
nay phải xây dựng quan niệm về chủ nhân, chủ thể văn hoá. Quan niệm và chỉ
đạo thực hiện phải làm cho người dân thực sự có tiếng nói quyết định, khơng
áp đặt dưới mọi hình thức đối với vấn đề phát triển của từng dân tộc, từng cộng
đồng.
Một trong những đặc điểm của cộng đồng các dân tộc ở nước ta là sự
phát triển không đều về kinh tế xã hội. Xuất phát điểm đi lên của các dân tộc
rất khác nhau và đặc biệt đối với nhiều dân tộc khá xa lạ với nền sản xuất cơng
nghiệp và nền kinh tế hàng hố vận hành trong cơ chế thị trường ở nước ta
hiện nay. Vì vậy, đối với các dân tộc một mặt đòi hỏi cung một lúc phát triển
về nhiều phương tiện, nhưng mặt khác lại không thể cung một lúc đưa quá
nhiều cái mới, cái lạ vào vùng dân tộc, buộc họ phải thực hiện ngay. Đó là mâu
thuẫn trong sự phát triển. Cho nên thiết kế quan điểm về phát triển nông thôn
vùng dân tộc thiểu số phải đứng vững trên quan điểm tiến hành dần dần từng
bước vững chắc, khơng nóng vội.
Vấn đề quan trọng chủ yếu là chủ thể phải tự nhận thức, tự thấy nhu cầu
phải đổi mới, thay đổi và phát triển. Nhà nước, các tổ chức xã hội, phi chính
phủ khơng được gị ép, làm thay, áp đặt. Xây dựng tự ý thức của mỗi người
dân đối với sự phát triển là yêu cầu sống còn đối với phát triển của mỗi dân
tộc.
Cần có hệ thống nghiên cứu, phân tích chống quan điểm tự ti dân tộc,
thiếu lịng tin vào khả năng vốn có của con người, tự cảm thấy thấp kém, bất
lực với chính mình trước nền kinh tế thị trường, xã hội công nghiệp, muốn dập
khuôn, bắt chước theo mơ hình của những dân tộc phát triển hơn, tự đánh giá
thấp những giá trị văn hoá truyền thống của mình. Xây dựng, khuyến khích
lịng tự hào về nền văn hố của dân tộc mình, bắt dầu từ những thành tố văn
11
hoá nhỏ nhất cho đến hệ thống kiến thức dịa phương, hệ thống quản lý cộng
đồng truyền thống, hệ thống và các quan hệ kinh tế ở miền núi. Xây dựng quan
điểm về việc tăng cường huy động nội lực xã hội và tinh thần của các dân tộc
tự lực, tự sáng tạo, từ đó đề ra những chính sách phù hợp đối với thực tiễn phát
triển của các tộc người.
Thứ sáu, đánh giá và xây dựng cơ sở lý luận cho việc thiết kế hệ thống
các chương trình quốc gia, các dự án trong mục tiêu phát triển trước mắt cũng
như lâu dài bao gồm:
- Chính sách và giải pháp phát triển vùng sâu, vùng xa, những xã đặc
biệt khó khăn trên cơ sở tổng kết các chương trình 134,135.
- Chính sách và giải pháp xố đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của
người dân và phát triển kinh tế xã hội ở vùng các dân tộc. Xây dựng chiến lược
da dạng hoá các nguồn thu nhập nhằm nâng cao mức sống gia đình.
- Xây dựng hệ thống quan điểm lý luận, chính sách phát triển lâm
nghiệp; vấn đề quản lý và sử dụng đất ở vùng dân tộc. Xây dựng hệ thống quan
điểm đối với các dân tộc thiểu số, miền núi về chính sách đối với người sử
dụng đất, rừng; về chủ sở hữu đất, rừng và các phương thức quản lý cộng đồng
đối với đất, rừng; quan hệ giữa bảo vệ rừng và quyền sử dụng rừng; về tỷ lệ
giao rừng cho hộ và các đơn vị nhà nước.
- Xây dựng hệ thống quan điểm lý luận, chính sách và giải pháp về vấn
đề tín dụng, vốn cho các dân tộc và miền núi.
- Nghiên cứu, đề xuất chính sách giải quyết vấn đề phát triển thị trường
như một chiến lược phát triển kinh tế chủ yếu ở miền núi, đặc biệt ở những nơi
chưa có chợ; vấn đề tiêu thụ sản phẩm tránh hiện tượng biến nơng thơn miền
núi trở thành phịng thí nghiệm khổng lồ.
- Xây dựng hệ thống quan điểm lý luận, chính sách và giải pháp về an
sinh xã hội, vấn đề sức khoẻ cộng đồng, y tế phù hợp với điều kiện các dân tộc
và miền núi.
- Vấn đề đưa tiến bộ kỹ thuật vào vùng dân tộc trong điều kiện cần được
nghiên cứu phù hợp với môi trường địa lý tự nhiên, điều kiện sinh thái và con
người các dân tộc thiểu số.
12
- Xây dựng các chính sách trong chương trình xây dựng nông thôn mới
đối với vùng dân tộc thiểu số, không thể dập khuôn.
Thứ bảy, nghiên cứu, xây dựng chiến lược phát triển con người và đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, đa dạng hoá việc xây dựng và đào tạo
nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số để có thể phát huy có hiệu quả nội lực
của các dân tộc:
Vấn đề phát triển con người và nguồn nhân lực là một trong những vấn
đề có nội dung tổng hợp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, có vị trí quan trọng
hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
- Về chất lượng dân số: Khi nói đến nguồn lực con người phải tính đến
chất lượng dân số mà trước hết phải tính đến các điều kiện phát triển con người
về thể lực (thể năng), một trong các thành tố rất quan trọng trong chiến lược
phát triển con người. Nhanh chóng từng bước xóa bỏ tình trạng tảo hôn, hôn
nhân cận huyết (một số dân tộc), tệ nạn xã hội, tập qn sinh hoạt khơng cịn
phù hợp, tình trạng thiếu vệ sinh; chống suy dinh dưỡng cho trẻ em; bảo vệ và
chăm sóc sức khỏe phụ nữ... để đảm bảo duy trì, phát triển giống nịi theo
hướng nâng cao chất lượng dân số và thể lực cho đồng bào; có chính sách và
biện pháp đặc biệt đối với một số dân tộc có dân số ít (dưới 5000 người hoặc 1
vạn người). Mặc dù đã có những chính sách về vấn dề này nhưng thiếu đồng
bộ khi đặt vấn đề nguồn lực trong tổng thể phát triển.
- Về điều kiện và môi trường phát triển nguồn nhân lực: Miền núi và
vùng các dân tộc thiểu số là khu vực giàu tiềm năng và có vị trí đặc biệt trong
q trình cơng nghiệp hóa nhưng cũng có khơng ít khó khăn trong q trình
phát triển. Mặc dù, các chương trình, dự án đã mang lại kết quả bước đầu,
nhưng cơ sở hạ tầng cịn q nhiều khó khăn, mơi trường sinh thái bị suy thối
nghiêm trọng. Cơ sở hạ tầng dù bước đầu đã được cải thiện nhưng cịn nhiều
bất cập. Nhiều vấn đề như: giao thơng, điện, thủy lợi, nước sạch, trường học,
bệnh viện, vệ sinh môi trường, điều kiện sản xuất, thông tin ... đang là những
trở ngại trước u cầu cơng nghiệp hóa. Chính vì vậy, việc giải bài tốn phát
triển nguồn nhân lực khơng thể thực hiện một cách đơn tuyến từng lĩnh vực mà
điều quan trọng là tạo ra các điều kiện và cơ hội để phát triển con người một
cách toàn diện cả về thể chất và tinh thần.
13
- Về giáo dục đào tạo: Để phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số,
công tác giáo dục, nâng cao dân trí, gắn liền với các mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh có vị trí đặc biệt quan trọng. Mặc dù
vậy, cơng tác giáo dục, đào tạo cịn có nhiều bất cập. Do đó, trong chiến lược
phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực trình độ cao cần tập
trung giải quyết một số vấn đề có ý nghĩa then chốt sau đây: Một là, Tạo bước
đột phá về giáo dục phổ thơng trước hết là xóa mù và tái mù chữ và tiếng phổ
thông. Đây là chiếc chìa khóa để tạo nguồn và phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao. Mơ hình trường bán trú dân ni ở vùng cao cần được nhân rộng
với sự đầu tư của nhà nước. Hai là, cần hiện thực hóa khẩu hiệu “trường ra
trường, lớp ra lớp’’ ở khu vực các dân tộc thiểu số. Việc thực thi vấn đề này
không thể coi là thực hiện chính sách xã hội mà trên thực tế phải được xác định
là thực hiện chính sách dân tộc - vấn đề chiến lược của cách mạng. Ba là ,
trong hệ thống giáo dục quốc dân cần nghiên cứu và xây dựng các loại hình
nhà trường phù hợp với điều kiện cụ thể của con em các dân tộc thiểu số như
đa dạng hóa loại hình đào tạo. Cần nghiên cứu, tổng kết chính sách hệ dự bị
trong các trường đại học, cao đẳng và trong hồn cảnh cụ thể có thể mở hệ này
cả trong các trường trung cấp chuyên nghiệp, hệ thống trường chính trị, lực
lượng vũ trang. Để triển khai hiệu quả vấn đề này cân xác định rõ Cung và Cầu
của nguồn nhân lực theo các ngành nghề, tránh đào tạo tràn lan và khơng tính
đến các lĩnh vực cần có của vùng các dân tộc và thiểu số trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bốn là, Xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tế xã
hội vùng miền núi dân tộc, trên cơ sở tính đặc thù cần xác định nhu cầu nhân
lực của từng vùng, từng dân tộc để trên cơ sở đó xây dựng các loại hình và mơ
hình đào tạo. Năm là, Cùng với việc nâng cao dân trí, phải từng bước phát triển
đội ngũ cán bộ quản lý và tầng lớp trí thức người dân tộc thiểu số. Xây dựng
tầng lớp trí thức chính là xây dựng đội ngũ tinh hoa cho các dân tộc thiểu số.
- Nghiên cứu chính sách quản lý nguồn nhân lực: Song song với việc
đào tạo, việc quản lý và sử dụng nguồn nhân lực được đào tạo cũng có vai trị
và vị trí khơng kém. Cần làm rõ cơ chế chính sách trong sử dụng nguồn nhân
lực theo hướng không tách rời giữa đào tạo và sử dụng khi nhà nước đầu tư để
phát triển nguồn nhân lực tại chỗ. Vấn đề đặt ra ở đây là đầu tư có kiểm sốt,
đầu tư có định hướng gắn với địa chỉ và nhu cầu sử dụng, đặc biệt là nguồn
14
nhân lực có trình độ cao. Trên thực tế chúng ta chưa có cơ chế chính sách về
vấn đề này và trong một thời gian dài đã buông lỏng trong quản lý sử dụng
nguồn nhân lực trình độ cao.
II. THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG DÂN TỘC THIỂU
SỐ, MIỀN NÚI VÀ VÙNG KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN
1. Khái quát về dân số và phân bố dân cư
1.1. Về dân số
Theo số liệu Điều tra thực trạng KT-XH 53 dân tộc thiểu số công bố
năm 2016, 53 DTTS có khoảng 13,4 triệu người (chiếm 14,6% dân số cả nước)
với 3,04 triệu hộ. Trong đó có 6 dân tộc có dân số trên 1 triệu người , 16 dân
tộc có dân số dưới 10.000 người , trong đó có 5 dân tộc có dân số dưới 1.000
người gồm: Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Brâu, Ơ Đu.
1.2. Về phân bố dân cư
Theo Quyết định số 582/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ , vùng
DTTS, MN nước ta thuộc địa bàn của 51 tỉnh, thành phố, 548 huyện, 5.266
đơn vị hành chính cấp xã, chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ
và Tây duyên hải miền Trung. Đồng bào DTTS sinh sống thành cộng đồng chủ
yếu ở khu vực miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng ĐBKK với địa
hình chia cắt, giao thơng đi lại khó khăn.
Khu vực trung du và miền núi phía Bắc có số người DTTS cao nhất
(khoảng 6,7 triệu người), khu vực Tây Nguyên (khoảng 2 triệu người), Bắc
Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (1,9 triệu người), khu vực Tây Nam Bộ
(1,4 triệu người), còn lại sinh sống rải rác ở các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Hầu hết các DTTS sinh sống ở miền núi, chỉ có dân tộc Khmer, dân tộc Chăm,
dân tộc Hoa sinh sống ở đồng bằng và thành thị.
Các nhóm DTTS đều sinh sống thành cộng đồng, đan xen với dân tộc
Kinh. Trong 51 tỉnh, thành phố có đơng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống
thành cộng đồng: 01 tỉnh có tỷ lệ DTTS chiếm trên 90% dân số; 07 tỉnh có tỷ
lệ DTTS chiếm từ 70% - 90% dân số; 04 tỉnh có tỷ lệ DTTS chiếm từ 50 - 70%
dân số; 04 tỉnh có tỷ lệ DTTS chiếm từ 30% - 50% dân số; 15 tỉnh có tỷ lệ
DTTS chiếm từ 10% - 30% dân số; 20 tỉnh có tỷ lệ DTTS chiếm dưới 10% dân
số.
15
1.3. Về chất lượng dân số
Tuổi thọ trung bình của người dân tộc thiểu số hiện nay là 69,9 năm
thấp hơn so với tuổi thọ bình quân của cả nước hiện nay là 73,2 năm. Sự chênh
lệch về tuổi thọ bình qn có nhiều ngun nhân từ điều kiện sống, khả năng
tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe….
Tảo hơn và hôn nhân cận huyết thống là những yếu tố có ảnh hưởng tiêu
cực đến tuổi thọ và chất lượng dân số của các nhóm DTTS. Tỉ lệ tảo hơn chung
của 53 DTTS là 26,6% , tương đối cao so với mức bình quân của cả nước.
Tương tự như vậy, tỷ lệ hôn nhân cận huyết thống trong các DTTS có tỷ lệ
trung bình là 6,5‰ , cá biệt ở một số dân tộc có tỷ lệ này lên đến trên 40‰
như: Mạ, Mảng và Mnông.
Tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống là vấn đề cần đặc biệt chú ý với
một số dân tộc, có thể gây ra nhiều hậu quả trong đó có vấn đề tử vong trẻ sơ
sinh cao, tuổi thọ bình quân thấp, nguy cơ suy giảm quy mơ dân số và có liên
quan trực tiếp đến tình trạng nghèo trong một số dân tộc.
2. Thực trạng kinh tế - xã hội
Nhờ sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng và chính sách của Nhà nước cùng
với sự nỗ lực, cố gắng vươn lên của người dân, kinh tế ở vùng DTTS&MN,
vùng KT-XH ĐBKK đã được cải thiện rõ rệt, cơ cấu kinh tế của các địa
phương có sự chuyển đổi mạnh mẽ, sinh kế của người dân ngày càng đa dạng,
thu nhập được nâng lên, tình trạng nghèo giảm mạnh.
Từ năm 2016 đến nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 41
văn bản đề cập đến chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và
MN, trong đó có 15 đề án, chính sách trực tiếp ; lũy kế đến nay cịn 118 văn
bản, trong đó có 54 đề án, chính sách cịn hiệu lực, trực tiếp hỗ trợ phát triển
kinh tế - xã hội vùng DTTS, MN. Tính đến hết tháng 8/2018, có 1.052 xã vùng
DTTS, MN được cơng nhận đạt chuẩn nông thôn mới, đạt tỷ lệ 22,29%. Tuy
vậy, thực trạng kinh tế và đời sống của đồng bào DTTS vẫn còn khoảng cách
khá xa so với mặt bằng chung của cả nước, thể hiện cụ thể như sau:
2.1. Về lĩnh vực kinh tế
2.1.2. Về tăng trưởng kinh tế
Các tỉnh vùng DTTS&MN và vùng KT-XH ĐBKK có tốc độ tăng
trưởng kinh tế khá cao, trong đó các tỉnh vùng Tây Bắc tăng bình quân 8,4
16
%/năm, Tây Nguyên tăng bình quân 8,1 %/năm, Tây Nam Bộ tăng bình quân
7,3%/năm.
Một số địa phương đã bước đầu phát triển các vùng sản xuất nơng, lâm
nghiệp hàng hóa có giá trị gia tăng cao như: cà phê, chè, cao su, tiêu, cây dược
liệu, cây lấy gỗ và sản phẩm ngoài gỗ... nhưng do xuất phát điểm thấp, quy mơ
nền kinh tế nhỏ nên tỷ trọng đóng góp cho nền kinh tế còn hạn chế.
2.1.3. Về thu ngân sách (tính đến thời điểm 31/12/2018)
Số liệu của Bộ Tài chính cho thấy, trong 51 tỉnh vùng DTTS có:
- Thu ngân sách trên địa bàn
+ Có 12 tỉnh thu ngân sách trên 10.000 tỷ đồng;
+ Có 3 tỉnh thu ngân sách từ 8.000 đến dưới 10.000 tỷ đồng;
+ Có 12 tỉnh thu ngân sách từ 5.000 đến dứới 8.000 tỷ đồng;
+ Có 7 tỉnh từ thu ngân sách từ 3.000 đến dưới 5.000 tỷ đồng;
+ Có 17 tỉnh thu ngân sách dưới 3.000 tỷ đồng.
- Về tỷ lệ cân đối ngân sách:
+ Có 11 tỉnh tự cân đối được ngân sách
+ Có 7 tỉnh cân đối được trên 50% ngân sách;
+ Có 16 tỉnh đối được từ 30 đến dưới 50% ngân sách;
+ Có 17 tỉnh tự cân đối được <30 % ngân sách.
Qua các số liệu trên cũng cho thấy đối với 17 tỉnh có tỷ lệ tự cân đối
ngân sách dưới 30% đều là các tỉnh có đơng đồng bào dân tộc thiểu số, có tỷ lệ
hộ nghèo cao, kinh tế chậm phát triển, thu ngân sách thấp và rất khó khăn
trong việc bố trí ngân sách địa phương trong thực hiện chính sách dân tộc.
Nhìn chung, quy mơ nền kinh tế của các tỉnh vùng DTTS, MN còn rất
khiêm tốn; số thu ngân sách nhỏ và tỷ lệ cân đối rất thấp, có trên 90% các tỉnh
trong vùng DTTS&MN cần nhận hỗ trợ ngân sách từ trung ương.
2.1.4. Về cơ sở hạ tầng thiết yếu
Chính phủ đã có nhiều các chương trình, chính sách dự án đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở vùng DTTS&MN và vùng KT-XH ĐBKK như
Chương trình 135, Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2015
– 2020, Chương trình xây MTQG xây dựng Nơng thơn mới, Chương trình
30A, Quyết định số 714/QĐ-TTg ngày 14/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ về
điều chỉnh bổ sung cơ chế chính sách Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân
17
cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long… Trong giai đoạn 2016 2018, chỉ tính riêng Chương trình 135, Chính phủ đã đầu tư 9.106 cơng trình,
duy tu, bảo dưỡng 3.295 cơng trình. Về tổng thể, hiện nay đã có 98,4 % xã có
đường ơ tơ đến trung tâm; trên 98% hộ DTTS được sử dụng điện lưới quốc
gia; 100% xã có trường lớp mầm non, trường tiểu học, trung học cơ sở; 99,3%
xã có trạm y tế; trên 90% xã được phủ sóng phát thanh, truyền hình; 100% xã
có hạ tầng viễn thơng và được phủ sóng di động đáp ứng nhu cầu thơng tin liên
lạc của người dân. Tuy nhiên, nhu cầu về đầu tư xây dựng CSHT thiết yếu trên
địa bàn vẫn còn rất lớn.
2.1.5. Về tỷ lệ hộ nghèo, sinh kế và điều kiện sống của người dân
a) Về tỷ lệ hộ nghèo
Các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị đã nỗ lực cao độ cho công
tác giảm nghèo ở vùng DTTS và miền núi, đạt kế hoạch Chương trình mục tiêu
quốc gia giảm nghèo bền vững đề ra. Với nhiều cơ chế, chính sách giảm nghèo
được ban hành trong giai đoạn vừa qua, tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2017 ở các
huyện nghèo giảm xuống còn dưới 40%; tỷ lệ hộ nghèo ở các xã ĐBKK giảm
3-4%. Có 8 huyện thoát khỏi huyện nghèo theo Quyết định 30a của Thủ tướng
Chính phủ; 14 huyện ra khỏi diện hưởng chính sách như huyện nghèo; 34 xã
đủ điều kiện ra khỏi diện đầu tư theo chương trình 135. Tỷ lệ hộ nghèo ở các
xã ĐBKK, xã biên giới, xã ATK, vùng DTTS, MN năm 2017 giảm 4,33% so
với năm 2016. Tốc độ giảm nghèo ở vùng DTTS, MN và vùng ĐBKK đạt mục
tiêu đề ra tại Quyết định số 1722/QĐ-TTg ngày 02/9/2016 của Thủ tướng
Chính phủ .
b) Về sinh kế
Sinh kế của người dân vùng DTTS đặc biệt là đồng bào các DTTS hiện
nay chủ yếu thuộc lĩnh vực nông, lâm nghiệp. Tỷ lệ các nhóm DTTS có việc
làm trong lĩnh vực cơng nghiệp, xây dựng và dịch vụ cịn hạn chế, chưa khai
thác được tiềm năng trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ của khu vực. Thu nhập
bình quân đầu người của các DTTS hiện nay trung bình vào khoảng 1,1
triệu/người/tháng, chưa bằng ½ so với mức bình qn chung của cả nước .
- Tình trạng lao động và việc làm của người DTTS
Theo số liệu thống kê, có khoảng 6,2% lao động người DTTS đã qua
đào tạo, bằng 1/3 so với tỷ lệ trung bình của của cả nước . Tình trạng thiếu việc
18
làm của thanh niên DTTS đang là vấn đề bức xúc hiện nay ở vùng
DTTS&MN. Trong số hơn 9,38 triệu người DTTS từ 15 tuổi trở lên, có hơn
1,3 triệu người chưa có việc làm ổn định.
c) Về điều kiện sống của người dân
Những chương trình, chính sách của Đảng và Nhà nước như Chương
trình MTQG Giảm nghèo bền vững, Chương trình xây dựng Nơng thơn mới,
Chương trình 135… trong những năm qua đã thúc đẩy phát triển KTXH đáng
kể ở vùng DTTS&MN, vùng ĐBKK. Chính phủ cũng đã có những nỗ lực cao
trong việc thực hiện tốt chính sách hỗ trợ đột xuất, đảm bảo an sinh xã hội,
không để người nào bị thiếu đói khơng được trợ giúp.
Từ năm 2016 đến tháng 9/2018, Thủ tướng Chính phủ đã cấp khơng thu
tiền 117 nghìn tấn gạo để hỗ trợ các địa phương có đơng đồng bào DTTS sinh
sống; cấp từ nguồn ngân sách trung ương 1.000 tỷ đồng để hỗ trợ làm nhà ở
cho những hộ bị thiên tai, bão lũ, phần lớn là ở vùng DTTS, MN. So với trước
kia, điều kiện sống của đồng bào các DTTS đã có những bước cải thiện rõ nét,
tuy nhiên so với mặt bằng chung thì vẫn tồn tại sự chênh lệch đáng kể ở một số
khía cạnh sau:
- Về tình trạng nhà ở: Các nhóm DTTS có nhà ở kiên cố chiếm 14,5%,
bằng 2/3 so với bình quân chung của cả nước (46,7%); tỷ lệ nhà bán kiên cố
của các hộ DTTS là 70,2% và có đến 15,3% (tương ứng với khoảng 46.526 hộ)
hộ gia đình DTTS vẫn đang phải sinh sống trong các ngôi nhà tạm.
- Về tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh: Hiện có 73,3% số hộ DTTS đã
được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh trong sinh hoạt, nhưng cịn 11 nhóm
DTTS có từ 30% đến 50% số hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh hàng ngày.
- Về sử dụng điện: Tỷ lệ các hộ DTTS được sử dụng điện lưới thấp hơn
5% so với mức trung bình của cả nước. Hiện cịn 10 DTTS có số hộ sử dụng
điện lưới dưới 80%, trong đó, cá biệt có 3 dân tộc Mảng, La Hủ và Lơ Lơ có
dưới 50% hộ có điện sinh hoạt.
2.2. Về lĩnh vực văn hóa – xã hội
2.2.1 Về giáo dục – đào tạo
Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng và ban hành nhiều chính cơ chế, chính
sách ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo vùng DTTS, MN và vùng
KT-XH ĐBKK như: Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 có quy
19
định về chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập, Nghị định số
116/2016/NĐ-CP ngày 18/7/2016 quy định chính sách hỗ trợ học sinh và
trường phổ thơng ở xã, thơn bản đặc biệt khó khăn, Nghị định 57/2017/NĐ-CP
quy định chính sách ưu tiên tuyển sinh, hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáp, học
sinh, sinh viên DTTS rất ít người…
Các chương trình, dự án, chính sách của nhà nước đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu học tập của con em đồng bào dân tộc thiểu số. Mạng lưới trường
mầm non, trường phổ thông ở vùng DTTS và miền núi tiếp tục được củng cố,
mở rộng, nhất là các trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT), trường phổ
thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học dân tộc; chất lượng giáo dục của
các trường PTDTNT được nâng lên một bước .
Hiện nay, 100% xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi có trường THCS,
trường tiểu học, hầu hết các xã có trường mầm non. Cả nước có 314 trường
Phổ thơng DTNT; 1.097 trường phổ thông dân tộc bán trú; 05 trường đào tạo
dự bị đại học dân tộc. Đã có 51/53 DTTS có học sinh cử tuyển đi học đại học;
học sinh là người DTTS ở vùng đặc biệt khó khăn được hỗ trợ chi phí ăn ở,
học tập
Chính phủ cũng quan tâm đến chính sách đối với đồng bào DTTS rất ít
người thơng qua việc xây dựng và ban hành 02 chính sách giầu tính nhân văn
và thiết thực: (1) Quyết định số 2086/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
phê duyệt Đề án “Hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội các DTTS rất ít người giai
đoạn 2016 - 2025” , (2) Nghị định số 57/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định
“chính sách ưu tiên tuyển sinh và hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáo, học sinh,
sinh viên DTTS rất ít người”. Theo đó trẻ em, học sinh dân tộc thiểu số rất ít
người được ưu tiên vào học các trường mầm non, trường phổ thông dân tộc nội
trú, bán trú; tốt nghiệp THPT được xét tuyển vào các trường dự bị đại học, cơ
sở đào tạo, cao đẳng, đại học cơng lập.
2.2.2. Về y tế và chăm sóc sức khỏe
Cơng tác y tế và chăm sóc sức khỏe đã được Chính phủ quan tâm.
Thơng qua nhiều các chương trình, chính sách cụ thể trong giai đoạn 2016 2018, Chính phủ đã đầu tư xây dựng 433 trạm y tế xã vùng DTTS&MN, vùng
KTXH đặc biệt khó khăn; cấp miễn phí thẻ BHYT cho 20 triệu 700 nghìn
người DTTS; tăng cường cơng tác y tế dự phịng và bố trí bác sỹ về làm việc
20
tại trạm y tế xã, đạt 87,5%. Chính phủ cũng đã xây dựng và triển khai thực
hiện Đề án giảm thiểu tình trạng tảo hơn, hơn nhân cận huyết ở 22 tỉnh vùng
DTTS và miền núi, nhằm bảo vệ và nâng cao chất lượng giống nòi của một số
DTTS đang bị suy giảm.
2.2.3. Về văn hóa - thơng tin
a) Về văn hóa
Chính phủ đã có nhiều những giải pháp chú trọng hơn cơng tác bảo tồn,
gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các DTTS. Trong 3 năm từ
2016 - 2018, đã có 03 di tích quốc gia đặc biệt, 08 di tích lịch sử - văn hóa,
danh lam thắng cảnh liên quan đến đồng bào DTTS được xếp hạng di tích quốc
gia; có 126 di sản văn hóa phi vật thể, 276 nghệ nhân ưu tú là người DTTS.
Bước đầu đã xây dựng được hơn 5.000 cơ sở du lịch trải nghiệm góp phần tăng
thu nhập cho người dân. Trong 03 năm, đã có 06 dân tộc được tổ chức ngày
hội văn hóa riêng của dân tộc mình: Dao, Mường, Mơng, Thái, Chăm, Khmer.
b) Về thông tin
Theo đánh giá chung, lĩnh vực thông tin, truyền thơng vùng DTTS và
miền núi đã có bước phát triển nhanh, cơ bản đáp ứng nhu cầu thông tin, liên
lạc của nhân dân. Từ năm 2016 đến nay, đã chuyển phát 18 loại ấn phẩm báo,
tạp chí với số lượng 51,2 triệu tờ; kênh VTV5 - Đài Truyền hình Việt Nam sản
xuất và phát sóng hầu hết các ngày trong tuần, gồm 22 thứ tiếng DTTS; năm
2017, đã xuất bản gần 100 đầu sách với khoảng 250.000 bản, phục vụ đồng
bào DTTS. Mạng điện thoại di động đã phủ sóng khắp địa bàn miền núi; có
hơn 16.000 điểm giao dịch bưu chính viễn thơng, đảm bảo thơng tin liên lạc
thơng suốt trong mọi tình huống.
Cùng với sự phát triển chung của cả nước, tỷ lệ hộ gia đình người DTTS
sử dụng điện thoại tăng lên đáng kể trong giai đoạn 2010 - 2018, tuy nhiên tỷ
lệ hộ có điều kiện sử dụng điện thoại và các phương tiện nghe nhìn như tivi,
đài phát thanh khơng đồng đều. Một số nhóm dân tộc có tỷ lệ hộ có điện thoại
ở mức dưới 40%, thấp hơn nhiều so với mức bình quân chung của cả nước.
Tương tự như vậy, 51/53 nhóm dân tộc có dưới 10% tỷ lệ hộ sở hữu máy tính
và được tiếp cận với internet. Một số nhóm DTTS thậm chí khơng có hộ nào
có máy tính và internet (La Hủ, Kháng, Khơ Mú, Xinh Mun, Brâu, Rơ Măm).
21
2.3. Về xây dựng hệ thống chính trị
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính
sách xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức người dân tộc thiểu số (DTTS) trong
hệ thống chính trị. Giai đoạn 2016 – 2018, Chính phủ đã chú trọng xây dựng
quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ, cơng chức
người DTTS như Nghị định 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 10 năm 2011 về
công tác dân tộc, Quyết định 402/QĐ-TTg ngày 14 tháng 3 năm 2016 của Thủ
tướng Chính phủ về Đề án phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
người DTTS trong thời kỳ mới…. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ, cơng chức người
DTTS được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, từng bước đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của hệ thống chính trị. Tính đến hết năm 2017, các Bộ,
ngành, địa phương có số lượng cán bộ cơng chức, viên chức là người DTTS
giữ chức vụ lãnh đạo cấp tỉnh và cấp Bộ (diện Ban Bí thư và Bộ Chính trị quản
lý) là 46 người (chiếm 12,16%); cấp Vụ và tương đương là 146 người (chiếm
4%), công chức, viên chức ở các Bộ ngành và Sở là 170.437 người (chiếm
15%).
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã chú trọng xây dựng và thực hiện chính
sách hỗ trợ đối với người có uy tín trong cộng đồng. Cả nước đã bầu chọn
34.900 người có uy tín trong cộng đồng. Năm 2017, đã tổ chức thành công Lễ
tuyên dương người người có uy tín, nhân sĩ trí thức, doanh nhân tiêu biểu các
DTTS lần thứ nhất với 520 đại biểu của 54 dân tộc ở 52 tỉnh, thành phố, tạo
được sức lan tỏa và hiệu ứng xã hội rất tốt, góp phần củng cố, tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân tộc.
3. Đánh giá chung
3.1. Thành tựu
- Kinh tế- xã hội vùng DTTS&MN trong những năm qua có bước phát
triển mạnh. Các địa phương vùng DTTS&MN đều đã đạt được tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao. Mặc dù cơ cấu kinh tế chủ yếu vẫn là làm nông lâm nghiệp
(tỷ trọng nông lâm nghiệp chiếm trên 50%), nhưng đã bước đầu có sự chuyển
dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng cơng nghiệp, dịch vụ. Dần hình thành vùng
sản xuất nơng lâm nghiệp hàng hóa: cà phê, chè, cao su, tiêu, cây dược liệu,
cây lấy gỗ và sản phẩm ngoài gỗ… Kết cấu hạ tầng vùng DTTS từng bước
được hoàn thiện, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội từng vùng, từng khu vực.
22
- Cơng tác giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa đặc sắc của
cộng đồng các DTTS nước ta được quan tâm; một số sản phẩm văn hóa vật
thể, phi vật thể được khơi phục, lưu truyền; hàng năm tổ chức Ngày hội văn
hóa các dân tộc mang đậm dấu ấn của từng dân tộc, phong phú, đa dạng, thống
nhất trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam, góp phần nâng cao đời sống tinh
thần của nhân dân.
- Kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng
bước được nâng cao, đảm bảo an sinh xã hội; niềm tin của đồng bào DTTS đối
với Đảng và Nhà nước được nâng lên; vùng DTTS, MN và vùng KT-XH
ĐBKK không phát sinh các “điểm nóng”, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an
tồn xã hội, thế trận lòng dân trong thế trận quốc phòng, an ninh vững mạnh
được củng cố và tăng cường.
3.2. Một số hạn chế, bất cập
Mặc dù KT-XH vùng DTTS&MN đã có bước phát triển mạnh trong
những năm qua, nhưng vẫn là vùng khó khăn nhất của cả nước. Hạ tầng thấp
kém, kinh tế chủ yếu tự cung tự cấp, đời sống của nhân dân cịn nhiều khó
khăn, là “Lõi nghèo của cả nước”, chất lượng nguồn nhân lực thấp, đội ngũ cán
bộ còn nhiều bất cập, tồn tại nhiều hủ tục lạc hậu và tệ nạn xã hội, tiềm ẩn
nhiều nguy cơ mất ổn định an ninh chính trị:
- Một số vấn đề bức xúc trong đời sống của đồng bào DTTS như: Di cư
tự phát, thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt ,... giải quyết chưa hiệu quả,
đời sống của một bộ phận đồng bào DTTS cịn rất nhiều khó khăn.
- Thu nhập bình qn của hộ đồng bào DTTS ở nhiều nơi chỉ bằng 4050% bình quân thu nhập trong khu vực; tỷ lệ dân số DTTS chiếm 14,6%
nhưng tỷ lệ hộ nghèo chiếm 52,7% số hộ nghèo của cả nước; có 10 tỉnh tỷ lệ
hộ DTTS nghèo chiếm trên 90% hộ nghèo của cả tỉnh.
- Chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa ở vùng DTTS&MN tuy đã được
nâng lên nhưng so với mặt bằng chung vẫn còn thấp, mức độ tiếp cận các dịch
vụ cịn nhiều khó khăn.
- Vẫn cịn khoảng 21% người DTTS trên 15 tuổi chưa đọc thông, viết
thạo tiếng Việt;
- Tỷ lệ được cấp thẻ BHYT cao nhưng tỷ lệ khám, chữa bệnh còn thấp,
phòng khám đa khoa khu vực của các tỉnh miền núi chưa được điều trị nội trú
23
và thanh toán BHYT; tỷ lệ phụ nữ mang thai được khám định kỳ mới đạt 71%;
tỷ lệ sinh con tại nhà là 36,3%; trẻ em suy dinh dưỡng là 32%.
- Số người khơng biết nói tiếng dân tộc của mình ngày càng tăng; dân
ca, dân vũ, nhạc cụ truyền thống của nhiều DTTS chỉ được phục dựng khi lễ
hội, ít được diễn ra trong đời sống hàng ngày.
- Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức là người DTTS trong cơ quan nhà
nước các cấp có xu hướng giảm; nhiều Bộ, ngành và địa phương chưa đạt được
tỷ lệ theo quy định tại Quyết định 402/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
- Tồn tại nhiều hủ tục lạc hậu, một số tệ nạn xã hội như nghiện hút, buôn
bán và vận chuyển trái phép ma túy, buôn bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới...là
những yếu tố tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định an ninh trật tự vùng DTTS&MN.
3.3. Nguyên nhân của hạn chế, bất cập
3.3.1. Nguyên nhân khách quan
- Xuất phát điểm của vùng DTTS và miền núi thấp, địa hình chia cắt, khí
hậu khắc nghiệt, chất lượng nguồn nhân lực thấp; rất khó khăn trong việc thu
hút đầu tư; cơ sở hạ tầng thấp kém, thiếu việc làm, đói nghèo, thiên tai, bệnh
tật, đang là thách thức lớn.
- Tác động tiêu cực của tình trạng biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng,
thiên tai, bão lũ ảnh hưởng rất lớn đến vùng đồng bào DTTS sinh sống như:
tình trạng sạt lở đất, xâm nhập mặn ở đồng bằng Sông Cửu long; lũ ống, lũ
quét ở các tỉnh Tây Bắc; hạn hán ở các tỉnh Tây Nguyên, Duyên hải Miền
Trung... làm cho đời sống của đồng bào DTTS đã khó khăn lại càng khó khăn
thêm.
- Nhu cầu về cơ sở hạ tầng lớn trong khi nguồn lực thực hiện chính sách
cịn chưa đáp ứng nhu cầu thực tế dẫn đến việc một số chính sách được ban
hành nhưng khơng được phân bổ vốn để thực hiện . Tình trạng này rất phổ biến
với nhóm chính sách xây dựng CSHT hay nhóm chính sách hỗ trợ vốn hướng
tới đối tượng thụ hưởng rộng rãi cần nguồn vốn rất lớn.
- Các thế lực thù địch liên tục lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để tuyên
truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là những
khó khăn về kinh tế của đất nước, an ninh chính trị vùng biên giới dẫn đến một
số địa bàn vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn về an ninh chính trị.
3.3.2. Nguyên nhân chủ quan
24
- Hệ thống chính sách phát triển KT-XH dành cho vùng DTTS, MN và
vùng KT-XH ĐBKK chưa thực sự đồng bộ; cơ chế thực thi chính sách cịn
thiếu những đổi mới mang tính đột phá. Mặt khác, sự phối hợp giữa các ngành,
các cấp đơi chỗ cịn chưa chặt chẽ, hiệu quả , nhận thức của một số cán bộ,
công chức, viên chức còn phiến diện, chưa thật lòng quan tâm đến vùng DTTS
và miền núi; sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương chưa thường xuyên,
chặt chẽ.
- Đồng bào các DTTS sinh sống ở địa bàn KTXH khó khăn và đặc biệt
khó khăn; ở những địa phương nghèo, chủ yếu nhận hỗ trợ ngân sách từ Trung
ương, khó có thể lồng ghép các chương trình, dự án để thực hiện chính sách
dân tộc, trong khi đó ngân sách Trung ương chưa bố trí được nguồn vốn riêng
để thực hiện một số chính sách, do vậy khơng đạt được mục tiêu các đề án,
chính sách đã được phê duyệt .
- Phân định vùng DTTS, MN theo trình độ phát triển còn bất cập, định
mức đầu tư còn thấp (một năm xã 135 được 1 tỷ đồng, thôn ĐBKK được 200
triệu đồng); chưa có dịng ngân sách riêng để thực hiện chính sách dân tộc, do
vậy đề án, chính sách nhiều nhưng thiếu nguồn lực thực hiện, chưa đạt được
mục tiêu đề ra.
- Một số chính sách ban hành chưa tính đến việc tạo động lực cho người
dân chủ động vươn lên thốt nghèo; thiếu những cơ chế, chính sách khuyến
khích làm giàu dành cho đối tượng là những người biết làm ăn, kinh doanh và
có khả năng tạo ra thu nhập, việc làm cho cộng đồng. Bên cạnh đó, hệ thống
chính sách phát triển KTXH dành cho vùng DTTS&MN, vùng KT-XH ĐBKK
giai đoạn vừa qua cũng chưa quan tâm nhiều đến sự cơng bằng, bình đẳng đối
với mọi đối tượng (người DTTS và người Kinh) trên cùng một địa bàn, do đó
q trình thực hiện chính sách ít khuyến khích được nội lực, ý thức tự lực tự
cường của người DTTS.
- Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành trong xây dựng và phân bổ nguồn lực,
kiểm tra đánh giá của một số chính sách chưa chặt chẽ. Văn bản hướng dẫn của
một số Bộ, ngành về địa bàn thực hiện chính sách có điểm chưa thống nhất,
chưa phù hợp với tình hình thực tế. Đội ngũ cán bộ cơ sở vùng dân tộc và cán
bộ trong hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc nhiều nơi chưa đáp ứng yêu
cầu thực tiễn.
25