VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
QUẢNG KHOA TOẢN
BIỆN PHÁP GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG
HỢP KHẨN CẤP TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, tháng 7/2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
QUẢNG KHOA TOẢN
BIỆN PHÁP GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG
HỢP KHẨN CẤP TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
MÃ NGÀNH: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ GIA LÂM
HÀ NỘI, tháng 7/2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” là cơng trình nghiên cứu do chính tơi thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Vũ Gia Lâm. Các nội dung, thông tin được trình
bày trong luận văn là hồn tồn trung thực.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 2 tháng 7 năm 2020
Tác giả
Quảng Khoa Toản
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP
KHẨN CẤP ............................................................................................................................................ 6
1.1. Những vấn đề lý luận về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp .................................. 6
1.1.1. Khái niệm giữ người trong trường hợp khẩn cấp ................................................................. 6
1.1.2. Cơ sở quy định biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp ....................................... 12
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định và áp dụng biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn
cấp .......................................................................................................................................... 21
1.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn
cấp .............................................................................................................................................. 25
1.2.1. Các trường hợp được giữ người khẩn cấp .......................................................................... 25
1.2.2. Thẩm quyền ra lệnh và thủ tục giữ người trong trường hợp khẩn cấp ............................... 33
1.2.3. Những việc phải làm sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp .................................. 34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................................................... 35
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TUNG HÌNH SỰ
VỀ BIỆN PHÁP GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP TẠI THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH........................................................................................................................................... 37
2.1. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp tại thành phố Hồ Chí Minh ...................................................................... 37
2.1.1. Kết quả áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp tại thành phố Hồ Chí Minh
từ khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành đến nay. ........................................................ 37
2.1.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong áp dụng
biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh từ khi BLTTHS
năm 2015 có hiệu lực thi hành đến nay .................................................................................. 44
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................................................... 53
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP GIỮ NGƯỜI
TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................. 54
3.1. Giải pháp hồn thiện pháp luật ................................................................................................... 54
3.2. Các giải pháp khác ..................................................................................................................... 60
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ...................................................................................................................... 62
KẾT LUẬN .......................................................................................................................................... 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 65
2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Biện pháp ngăn chặn
BPNC
Bộ luật Hình sự
BLHS
Bộ luật Tố tụng hình sự
BLTTHS
Cảnh sát điều tra
CSĐT
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp
GNTTHKC
Trách nhiệm hình sự
TNHS
Vụ án hình sự
VAHS
Viện kiểm sát
VKS
Cơ quan điều tra
CQĐT
Thành phố
TP
3
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số người bị bắt trong kỳ thống kê 2018, 2019
Bảng 2.2. Số lượng người bị bắt do bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được Viện kiểm
sát phê chuẩn và không phê chuẩn trong các năm 2018, 2019
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một trong những BPNC có tính chất
cưỡng chế nghiêm khắc, tác động đến quyền con người và quyền cơ bản của công dân
được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Các quy định về giữ người trong trường hợp
khẩn cấp là căn cứ pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền kịp thời ngăn chặn tội phạm,
ngăn chặn người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm, ngăn chặn việc họ bỏ trốn, tiêu
hủy chứng cứ, thực hiện những hành vi khác gây khó khăn cho hoạt động giải quyết vụ
án tạo điều kiện cho việc thu thập, củng cố chứng cứ, mở rộng điều tra vụ án được diễn
ra nhanh chóng, khách quan, đúng quy định của pháp luật.
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một biện pháp ngăn chặn độc lập được
quy định tại Điều 110 BLTTHS năm 2015 và thay thế cho một trường hợp bắt người cụ
thể của biện pháp ngăn chặn bắt người là trường hợp “Bắt người trong trường hợp khẩn
cấp” quy định tại Điều 81 BLTTHS năm 2003. Sự sửa đổi này nhằm đảm bảo phù hợp
với quy định của Hiến pháp năm 2013: “Không ai bị bắt nếu khơng có quyết định của
Tồ án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường
hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định”1. BLTTHS năm 2003
quy định khi có căn cứ bắt khẩn cấp, các cơ quan có thẩm quyền được phép bắt người
trước sau đó mới đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu quy định của BLTTHS năm 2015 chúng tôi nhận thấy
quy định cũng như việc áp dụng quy định của BLTTHS năm 2015 về biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh vẫn cịn những
hạn chế nhất định như: Căn cứ giữ người vẫn chưa được quy định cụ thể, rõ ràng, còn
mang nặng yếu tố chủ quan của cơ quan tiến hành áp dụng biện pháp giữ người; quy
định: “Có căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm
trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” (điểm a khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm
2015) chưa tương thích với quy định tại Điều 14 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) về TNHS trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội; quy định về thủ tục giữ
1
Khoản 2 Điều 20 Hiến pháp năm 2013
5
người trong trường hợp khẩn cấp chưa rõ ràng, chặt chẽ. Từ thực tiễn áp dụng việc giữ
người trong trường hợp khẩn cấp ở thành phố Hồ Chí Minh cho thấy quy định pháp luật
vẫn còn nhiều hạn chế, thực tế áp dụng vẫn cịn gặp khó khăn, lúng túng, hay vẫn cịn
xảy ra tình trạng giữ người trong trường hợp khẩn cấp sai thủ tục, vi phạm các quy định
về căn cứ, thủ tục giữ người.
Trong bối cảnh thành phố Hồ Chí Minh cùng với cả nước đang thực hiện công
cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết
số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hồn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, việc tiếp tục nghiên cứu và áp dụng các quy định của BLTTHS năm 2015 vào
trường hợp giữ người khẩn cấp từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh nhằm góp phần đưa
ra những giải pháp hồn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC này trong
thực tiễn giải quyết vụ án hình sự ở nước ta trong thời gian tới. Vì tính cấp thiết của vấn
đề này, chúng tôi đã chọn đề tài “Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp từ
thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu làm Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong khoa học pháp lý chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu về biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp. Các cơng trình nghiên cứu thể hiện cụ thể:
Về giáo trình, sách chun khảo có các cơng trình như: PGS.TS Nguyễn Ngọc
Chí (2014), “Chương 11 - Điều tra vụ án hình sự”, Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt
Nam, NXB Đại học quốc gia Hà Nội; Phạm Thanh Bình (1992), Một trăm lời giải đáp
về bắt giữ, khám xét, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Văn Nguyên (2002),
Một trăm câu hỏi đáp về bắt, giam, giữ và khám xét đúng pháp luật, tìm hiểu pháp luật
Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội; Trần Quang Tiệp, (2006),
Biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp… gần đây có Giáo trình Luật tố tụng
hình sự Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự, NXB Cơng an
Nhân dân, Hà Nội, 2019 có nghiên cứu về biện pháp ngăn chặn mới này nhưng ở mức
độ khái quát.
6
Bên cạnh giáo trình, sách chuyên khảo, thì trong khoa học pháp lý có một số bài
viết tạp chí có liên quan đến giữ người trong trường hợp khẩn cấp như: Hồng Đình
Thanh (2012), “Một số bất cập về tạm giữ và thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn
cấp trong BLTTHS năm 2003”, Tạp chí Tịa án nhân dân, (23); Ngô Văn Vịnh, Nguyễn
Văn Tuyến (2014), “Một số kiến nghị hoàn thiện biện pháp bắt người trong trường hợp
khẩn cấp”, Tạp chí Khoa học kiểm sát, Đại học kiểm sát Hà Nội (4); Phan Thanh Mai
(1998), “Việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, Tạp chí Luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội (5); Ngô Văn Vinh, Ngô Thanh Nhàn (2018), “Một số vấn đề trao đổi về
biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp”, Tạp chí Tịa án nhân dân (5); Nguyễn
Hồng Thiện (2017), “Quy định về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo
BLTTHS năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát (11);...
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu khoa học trên chủ yếu phân tích, bình
luận và đánh giá về biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp được quy định bởi
BLTTHS năm 2003. Đối với biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong
BLTTHS năm 2015 mới có hiệu lực thi hành nên hiện nay chưa có nhiều tác giả nghiên
cứu về biện pháp này mà cụ thể áp dụng tại thành phố Hồ Chí Minh thì chưa thấy nghiên
cứu, chưa đi sâu vào phân tích quy định của luật về căn cứ, thủ tục giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, khảo sát và đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp này trên thực tế,
từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này. Đặc biệt
chưa có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp dưới góc độ ứng dụng nên đây cũng là định hướng
nghiên cứu mới trong công trình khoa học này của tác giả.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ quy định của BLTTHS hiện hành về biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp cũng như khảo sát các vụ án, vụ việc xảy ra trong thực tế thành
phố Hồ Chí Minh để chỉ ra những vướng mắc, bất cập cịn tồn tại. Trên cơ sở đó, tác giả
đề xuất kiến nghị hoàn thiện quy định của BLTTHS hiện hành và một số giải pháp khác
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật về biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp tại thành phố Hồ Chí Minh.
7
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, làm rõ căn cứ áp dụng, thẩm quyền quyết định áp dụng và thủ tục áp
dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp được quy định trong BLTTHS
năm 2015;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của BLTTHS năm 2015 về biện
pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp tại thành phố Hồ Chí Minh.
Trên cơ sở đó, đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC này trong
thực tiễn.
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu căn cứ, thủ tục các quan điểm triển khai khoa học, quy định pháp
luật tố tụng hình và thực tiễn áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
tại thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: từ khi năm 2015 đến nay (trọng tâm từ khi BLTTHS
2015 có hiệu lực thi hành đến nay).
- Phạm vi nghiên cứu về không gian: tại Tp. Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng làm phương pháp luận để nghiên
cứu. các phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm: phân tích, so sánh, tổng hợp, thống
kê và điều tra phỏng vấn.
6. Ý nghĩa lí luận và ý nghĩa tực tiễn
6.1. Ý nghĩa lí luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ làm phong phú thêm cho khoa học luật TTHS
những nội dung về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Đây cũng là tài liệu
tham khảo cho giảng viên, sinh viên chuyên ngành luật và những người có quan tâm về
vấn đề này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
8
Đề tài cũng đã làm rõ các vướng mắc, hạn chế còn tồn tại trong quy định của
pháp luật và thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đóng góp ý kiến nhằm hồn thiện
quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Đề tài có thể được tham khảo trong hoạt động lập pháp để góp phần vào việc
hồn thiện quy định của pháp luật TTHS về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn
cấp cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tế, mà trước hết tại thành phố Hồ Chí
Minh.
7. Bố cục của luận văn
Tồn bộ nội dung luận văn được bố cục thành ba gồm ba chương:
CHƯƠNG 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về biện pháp giữ người trong trường
hợp khẩn cấp
CHƯƠNG 2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp
giữ người trong trường hợp khẩn cấp tại thành phố Hồ Chí Minh
CHƯƠNG 3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp giữ người trong trường
hợp khẩn cấp từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh
9
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VỀ BIỆN PHÁP GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP
1.1. Những vấn đề lý luận về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
1.1.1. Khái niệm biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ
gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, hoặc để bảo
đảm thi hành án, Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm
quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm
giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh2.
Những biện pháp ngăn chặn là một trong những nhóm của biện pháp cưỡng chế.
Những biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để kịp thời ngăn chặn
hành vi phạm tội, ngăn ngừa người phạm tội, bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, trốn tránh
pháp luật hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như để
bảo đảm thi hành án. Những biện pháp ngăn chặn khi được áp dụng sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong hiến pháp và các văn bản
pháp luật khác3.
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một trong các biện pháp ngăn chặn được
quy định trong BLTTHS năm 2015. Để đưa ra được khái niệm biện pháp ngăn chặn “giữ
người trong trường hợp khẩn cấp”, cần phải xác định rõ nghĩa của các thuật ngữ “giữ
người, trường hợp, khẩn cấp”.
Dưới góc độ ngơn ngữ học, trong từ điển tiếng Việt4, “giữ” có nghĩa là làm cho
ở ngun tại vị trí nào đó, khơng có sự di động, di chuyển, hoặc khơng rơi, khơng đổ.
Nó cịn có nghĩa là làm cho vẫn ngun như vậy, không thay đổi hoặc trông coi, để ý
đến để không bị mất mát, tổn hại.
2
Khoản 1 Điều 109 BLTTHS năm 2015.
3
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hinh sự, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội, 2019, tr.228
4
Vĩnh Quyền – Như Quỳnh,, Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thơng tin, 2014, tr.208
10
Thuật ngữ “giữ người” xét dưới góc độ ngơn ngữ học có thể hiểu như sau: là việc
vơ hiệu hóa sự tự do hoạt động hay di chuyển của một người nào đó vì lí do nhất định.
Thuật ngữ “trường hợp” được hiểu là “việc xảy ra hoặc giả định xảy ra, nói về
mặt tính chất cụ thể mỗi lần mỗi khác” hoặc “tình hình cụ thể trong đó sự việc nói đến
xảy ra hoặc giả định xảy ra”.5
Thuật ngữ “khẩn cấp” được hiểu là “cần được tiến hành ngay, cần được giải quyết
ngay, khơng được chậm trễ” hoặc có tính chất nghiêm trọng, địi hỏi phải có ngay những
biện pháp tích cực để đối phó, khơng cho phép sự chậm trễ”6. Ví dụ: việc cần làm ngay,
cần hoặc giải quyết ngay không được chậm trễ.
Như vậy, “biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp” dưới góc độ ngơn
ngữ học được hiểu là giữ người trong trường hợp rất cấp bách, cần phải làm ngay, khơng
thể trì hỗn. Nếu khơng thực hiện ngay thì sẽ có hậu quả xấu xảy ra.
Trong tố tụng hình sự “biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp” là một
trong những biện pháp ngăn chặn do người có thẩm quyền quyết định áp dụng đối với
người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người phạm tội
trốn tránh pháp luât, đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự
được thuận lợi và đúng pháp luật. Biện pháp này chỉ được áp dụng trong trường hợp cấp
bách, khơng thể trì hỗn. Vì vây, giữ người trong trường hợp này được BLTTHS quy
định là giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Mục đích của giữ người trong trường hợp
khẩn cấp nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người phạm tội trốn tránh pháp
luật, tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho hoạt động điều tra.
Trên phương diện pháp lý, giữ người trong trường hợp khẩn cấp có thể được là
một biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự áp dụng với người đang chuẩn bị thực
hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc người sau
khi thực hiện hành vi phạm tội nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ, ngăn
ngừa người phạm tội bỏ trốn, hoặc có hành vi cản trở việc điều tra, phám phá tội phạm.
5
6
Từ Điển Tiếng Việt- Trung tâm Từ điển học- Viện Ngôn ngữ học- Nxb Đà Nẵng, 2004, tr.1057.
Từ Điển Tiếng Việt- Trung tâm Từ điển học- Viện Ngôn ngữ học- Nxb Đà Nẵng, 2004, tr.495.
11
1.1.2. Cơ sở quy định biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
- Cơ sở lý luận, giữ người trong trường hợp khẩn cấp được quy định dựa trên cơ
sở lý luận về quyền con người và bảo vệ quyền con người của luật pháp quốc tế và quốc
gia
Ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về
quyền con người thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này,
quyền con người là những bảo đảm pháp lý tồn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và
các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm,
những sự được phép và tự do cơ bản của con người.
Bên cạnh định nghĩa kể trên, một định nghĩa khác cũng thường được trích dẫn,
theo đó, quyền con người là những sự được phép mà tất cả thành viên của cộng đồng
nhân loại, khơng phân biệt giới tính, chủng tộc, tơn giáo, địa vị xã hội...; đều có ngay từ
khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người. Định nghĩa này mang dấu ấn của học thuyết
về các quyền tự nhiên.
Hệ thống bảo đảm thực hiện quyền con người bao gồm: bảo đảm kinh tế, bảo
đảm chính trị và các bảo đảm xã hội khác.
Bảo đảm pháp lý cho viêc thực hiện quyền con người phụ thuộc vào điều kiện
phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa và các điều kiện cụ thể của mỗi cá nhân. Song đảm
bảo về mặt pháp lý có ý nghĩa trực tiếp trong việc thực hiện trên thực tế các quyền tự do
trên. Sự phân định các thành tố trong hệ thống bảo đảm chỉ là tương đối vì các bảo đảm
đều thể hiện qua hình thức pháp lý và có những yếu tố trong hệ thống bảo đảm pháp lý
lại chỉ là một phần của bảo đảm khác. Bảo đảm pháp lý được xây dựng trên cơ sở của
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhất định và tác động trở lại sự phát triển kinh tế - xã
hội. Sự ổn định và phát triển kinh tế thúc đẩy thành một trật tự pháp lý. Việc bảo đảm
cho việc thực hiện quyền con người khơng chỉ là biện pháp mang tính pháp lý mà trước
hết là bằng chính sách, cơ chế của Nhà nước, tạo điều kiện cho con người phát triển về
mọi mặt, làm chủ xã hội và làm chủ chính mình. Bảo đảm quyền con người được ghi
nhận bằng pháp luật và gắn với sự điều chỉnh pháp luật; gắn với năng lực, nhận thức của
mỗi cá nhân về quyền của mình; trách nhiệm cộng đồng chính trị - trách nhiệm Nhà
nước: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
12
Theo nhận thức chung, để bảo đảm nhân quyền (quyền con người), các nhà nước
có ba nghĩa vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, nghĩa vụ tôn trọng các quyền con người: Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà
nước phải kiềm chế không can thiệp, kể cả trực tiếp hoặc gián tiếp, vào việc hưởng thụ
các quyền con người đã được ghi nhận trong pháp luật. Đây được coi là một nghĩa vụ
thụ động bởi lẽ khơng địi hỏi các nhà nước phải chủ động đưa ra những sáng kiến, biện
pháp hay chương trình nhằm hỗ trợ các cơng dân trong việc hưởng thụ các quyền.
Thứ hai, nghĩa vụ bảo vệ các quyền con người: Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà
nước phải ngăn chặn sự vi phạm nhân quyền (quyền con người) của các bên thứ ba. Đây
được coi là một nghĩa vụ chủ động bởi để ngăn chặn sự vi phạm nhân quyền của các
bên thứ ba, các nhà nước phải chủ động đưa ra những biện pháp và xây dựng các cơ chế
phòng ngừa, xử lý những hành vi vi phạm.
Thứ ba, nghĩa vụ thực hiện các quyền con người: Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà
nước phải có những biện pháp nhằm hỗ trợ cơng dân trong việc thực hiện các quyền con
người. Đây cũng được coi là nghĩa vụ chủ động, bởi nó yêu cầu các nhà nước phải có
những kế hoạch, chương trình cụ thể để bảo đảm cho mọi công dân được hưởng thụ đến
mức cao nhất có thể các quyền con người.
Ngồi ra, liên quan đến bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, người ta cịn
đề cập đến các khái niệm nghĩa vụ tổ chức và nghĩa vụ đạt được kết. Nghĩa vụ tổ chức
được hiểu là việc các quốc gia phải thực hiện trên thực tế các biện pháp cụ thể để bảo
đảm thực thi các quyền, ví dụ như để cấm lao động cưỡng bức, đưa ra các chương trình
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân hay bảo đảm giáo dục tiểu học miễn phí cho mọi trẻ
em ... Nghĩa vụ đạt được kết quả đề cập tới yêu cầu với các quốc gia phải bảo đảm rằng
những biện pháp và hoạt động đề ra phải mang tính khả thi và hiệu quả, chứ không phải
chúng được xây dựng một cách hình thức. Giữ người là biện pháp ngăn chặn có tính
cưỡng chế nghiêm khắc, tác động trực tiếp đến các quyền con người mà luật pháp quốc
tế cũng như quốc gia đã thừa nhận và bảo đảm thực hiện và bảo vệ. Vì vậy, việc giữ
người trong trường hợp này phải xuất phát từ các quy định về quyền con người và bảo
đảm có căn cứ và cần thiết, phù hợp với chuẩn mực đạo đức và luật pháp quốc tế và lợi
ích quốc gia, tránh xâm phạm trái pháp luật các quyền con người.
13
- Cơ sở pháp lý, giữ người trong trường hợp khẩn cấp dựa trên cơ sở quy định của
Hiến pháp nước ta về quyền con người và bảo đảm quyền con người, quyền của cá nhân.
Tại Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm
về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn,
bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể,
sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
Không ai bị bắt nếu khơng có quyết định của Tồ án nhân dân, quyết định hoặc
phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt,
giam, giữ người do luật định.
Tại Điều 102 quy định: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tịa án nhân dân có nhiệm vụ bảo
vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Đây là lần đầu tiên, Hiến pháp quy định về Tòa án với những sắc thái vị nhân
quyền rất rõ nét. Cùng với việc quy định quyền con người, Hiến pháp cũng quy định
những bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ quyền con người nói chung và trong tố tụng
hình sự nói riêng. Hiến pháp quy định về trách nhiệm của Nhà nước tôn trọng, bảo vệ
quyền con người; Điều 3 đã khẳng định Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ
của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công
dân. Đi cùng với các quy định về quyền con người, bao giờ cũng có quy định về trách
nhiệm của Nhà nước hoặc bảo hộ của pháp luật nhằm thực hiện các quyền đó trên thực
tế.
Hiến pháp quy định nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người là trách
nhiệm của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân. Việc Hiến pháp quy định Tòa án
nhân dân là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, phán quyết một người có tội và
áp dụng trách nhiệm hình sự, hình phạt đối với người phạm tội; quy định nhiệm vụ đầu
tiên của Tòa án nhân dân là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người; quy định các
nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân như xét xử công khai, độc lập của Thẩm
phán và Hội thẩm trong xét xử, hai cấp xét xử, tranh tụng trong xét xử… có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người nói chung, quyền của người bị buộc tội
nói riêng.
14
Đồng thời, Hiến pháp quy định chức năng chính của Viện kiểm sát nhân dân là
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ
quyền con người; quy định các nguyên tắc độc lập tương đối trong tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân cũng là cơ sở Hiến định quan trọng cho việc cụ thể hóa
trong luật tố tụng hình sự nhằm bảo đảm để Viện kiểm sát truy cứu trách nhiệm hình sự
đúng người, đúng tội, khơng làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm cũng bảo đảm,
bảo vệ quyền con người.
Có thể thấy, quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người và bảo đảm
quyền cong người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đã ghi nhận và thể hiện bước
phát triển vượt bậc trong tư duy lập pháp cũng như thực tiễn lập pháp về bảo đảm quyền
con người ở nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Trên cơ sở quy định của
Hiến pháp, các biện pháp cưỡng chế tố tụng trong đó có biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp phải được quy định phù hợp với quy định của Hiến pháp, không
được trái với quy định của Hiến pháp.
Các quy định về quyền con người và bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp
là cơ sở Hiến định quan trọng để xây dựng hệ thống pháp luật và thực tiễn thi hành pháp
luật ở nước ta. Từ góc độ luật tố tụng hình sự, các quy định của Hiến pháp lại càng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi vì, hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động phán quyết về
hành vi tội phạm của người bị buộc tội và áp dụng trách nhiệm hình sự - biện pháp
cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất đối với người đó; kèm theo đó là hoạt động có
thể tác động rất lớn đến quyền con người nói chung, quyền của người bị buộc tội nói
riêng.
Điều 7 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Mọi hoạt động tố tụng hình
sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin
về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do
Bộ luật này quy định". Đã nói đến các vấn đề:
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng
hình sự... phải nghiêm chỉnh tuân thủ những quy định của BLTTHS. Không được giải
quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngồi những căn cứ và
trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định.
15
Việc áp dụng “biện pháp cưỡng chế” cũng như biện pháp nghiệp vụ trong đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm nhất thiết phải theo đúng quy định của pháp luật,
bảo đảm cưỡng chế chỉ áp dụng đối với người phạm tội, nghiêm cấm làm oan người vô
tội.
Tất cả quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự
đều dựa trên cơ sở của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự...
Các quy định từ Điều 8 đến Điều 12 Từ điều 8 đến điều 12 của BLTTHS năm 2015 thể
hiện rất rõ những nguyên tắc cơ bản đảm bảo quyền con người. Cụ thể:
“Điều 8. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân
Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần
thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp
đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc khơng cịn cần thiết.
Điều 9. Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật
Tố tụng hình sự được tiến hành theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật, khơng phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tơn giáo, thành phần và địa
vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.
Mọi pháp nhân đều bình đẳng trước pháp luật, khơng phân biệt hình thức sở hữu
và thành phần kinh tế.
Điều 10. Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể
Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Khơng ai bị bắt nếu khơng
có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp
phạm tội quả tang.
Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người
phải theo quy định của Bộ luật này. Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay
bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người.
Điều 11. Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân;
danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân.
16
Người có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, tài sản.
Hành vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài
sản của cá nhân; xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân đều bị xử lý theo
pháp luật.
- Cơ sở thực tiễn, quy định biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp dựa
trên cơ sở thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm
Hiện nay, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội và việc mở cửa hội nhập tình
hình tội phạm đang có chiều chiều hướng gia tăng về số lượng với những phương thức
thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp. Trên thực tế có những trường hợp địi hỏi các cơ
quan tiến hành tố tụng phải hành động ngay tức khắc để kịp thời ngăn chặn tội phạm.
Và việc quy định các biện pháp ngăn chặn là một chế định trong Bộ luật Tố tụng hình
sự 2015 (BLTTHS 2015) đã giúp các cơ quan chức năng làm được điều đó.
Điều 8, BLTTHS năm 2015 nêu rõ: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc
pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền
văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ
luật này phải bị xử lý hình sự.
Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã
hội khơng đáng kể thì khơng phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.”
Như vậy, tội phạm được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây ra hoặc đe dọa
gây ra thiệt hại cho các mối quan hệ xã hội. Tội phạm trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại
đến sự ổn định và bền vững của chế độ Nhà nước, đến nền kinh tế - xã hội, đến tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, sự tự do của công dân… Chính vì lẽ đó, Nhà nước
ta rất coi trọng việc đấu tranh, phòng ngừa và chống tội phạm, ngăn chặn và xử lí kịp
thời, tiến tới loại trừ các hiện tượng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội, đặc biệt là u cầu
phịng ngừa tội phạm khơng để tội phạm xảy ra gây hậu quả xấu cho xã hội, gây tốn
kém chi phí cho việc giải quyết hậu quả của tội phạm.
17
Hầu như những người phạm tội nhận thức rõ về hậu quả pháp lý mà mình phải
chịu do việc thực hiện tội phạm.
Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả ngay từ khi đối
tượng phạm tội thực hiện hành vi tội phạm hoặc có hành vi trốn tránh, gây khó khăn,
cản trở cho việc xử lý người phạm tội là một tất yếu khách quan. Với đặc thù của các
biện pháp ngăn chặn là “cưỡng chế nhằm ngăn chặn” đã góp phần hạn chế đến mức
thấp nhất những thiệt hại do người phạm tội gây ra. Có thể nói các biện pháp ngăn chặn
bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tố tụng thuận lợi, góp phần nâng
cao hiệu quả cơng cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm.
Trong những trường hợp nhất định khi có đủ căn cứ pháp luật và đối với những
đối tượng nhất định thì những biện pháp ngăn chặn mới được áp dụng. Quy định và áp
dụng những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự trong đó có biện pháp giữ người
trong trường hợp khẩn cấp không chỉ đơn thuần là tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ
quan có thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ theo chức năng của mình mà cịn nhằm mục
đích đảm bảo sự tơn trọng và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân đã được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Việc áp dụng hay không áp dụng
các biện pháp ngăn chặn không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của các cơ quan có
thẩm quyền mà nó xuất phát từ thực tiễn các vụ án hình sự. Tất yếu phải có các biện
pháp ngăn chặn kịp thời và địi hỏi phải được quy định cụ thể, rõ ràng trong pháp luật.
Điều 109 BLTTHS năm 2015 quy định căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Theo
tinh thần của điều luật thì căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn bao gồm:
Một là, để kịp thời ngăn chặn tội phạm. Đây có thể được coi là căn cứ quan trọng
nhất để áp dụng biện pháp ngăn chặn. Để kịp thời ngăn chặn tội phạm vừa là căn cứ áp
dụng vừa là mục đích của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Bởi lẽ, tội phạm là hành
vi nguy hiểm cho xã hội gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại cho một hoặc nhiều quan hệ
xã hội là khách thể được luật hình sự bảo vệ. Việc kịp thời ngăn chặn tội phạm, không
để tội phạm xảy ra hoặc khơng để người phạm tội có điều kiện kết thúc hành vi phạm
tội của mình gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội là việc làm rất cần thiết và cấp bách.
Theo quy định của BLTTHS hiện hành, căn cứ này thường được áp dụng để bắt người
phạm tội quả tang trong trường hợp đang thực hiện tội phạm hoặc giữ người trong trường
hợp khẩn cấp khi xác định được một trong các trường hợp quy định tại điểm a khoản 1
18
Điều 110 BLTTHS như khi có căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội
phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng .
Hai là, việc bị can, bị cáo có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, viện
kiểm sát, toà án để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử cũng như việc quản lí, giám sát
được bị can, bị cáo về con người cũng như hành vi của họ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động giải quyết vụ án. Nếu bị can, bị cáo bỏ trốn tránh hoặc có những hành vi gây
khó khăn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì việc xác định sự thật khách quan
của vụ án sẽ có thể thực hiện được. Vì vậy, BLTTHS quy định khi có căn cứ chứng tỏ
người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử là một trong các căn
cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn. Đối tượng để áp dụng căn cứ này thường là bị can, bị
cáo. Tuy nhiên, trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang cịn có thể áp dụng
đối với những người chưa bị khởi tố về hình sự khi có căn cứ để cho rằng họ sẽ gây khó
khăn cho việc điều tra, khám phá tội phạm.Do đó, căn cứ này cịn có thể áp dụng để bắt
người phạm tội quả tang hoặc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ.
Căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét
xử được thể hiện qua việc họ đang bỏ trốn, chuẩn bị trốn, làm giả chứng cứ, tiêu huỷ
chứng cứ, có sự câu kết, bàn bạc giữa những người đồng phạm nhằm trốn tránh pháp
luật, mua chuộc, đe doạ, khống chế người làm chứng, bị hại v.v..
Ba là, khi có căn cứ phạm tội bị can, bị cáo là đối tượng của hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử, là đối tượng có thể bị áp dụng trách nhiệm hình sự về hành vi đã được
khởi tố, điều tra, truy tố hoặc đã bị tòa án quyết đinh đưa ra xét xử. Vì vậy, để tránh tình
trạng xấu “tội này chưa giải quyết xong đã phải tiếp tục giải quyết tội khác dẫn đến tình
trạng án chống lên án” thì việc ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội là hết sức cần
thiết. Đối với bị can, bị cáo có biểu hiện tiếp tục phạm tội thì việc áp dụng biện pháp
cách li họ với xã hội hoặc hạn chế các điều kiện để họ không thể tiếp tục phạm tội là cần
được thực hiện kịp thời. BLTTHS quy định khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ
tiếp tục phạm tội là căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn.
Khi áp dụng căn cứ này cần phân biệt với căn cứ "để kịp thời ngăn chặn tội
phạm". Cả hai căn cứ đều nhằm ngăn chặn không để tội phạm xảy ra. Tuy nhiên, điểm
khác nhau giữa hai căn cứ này là "để kịp thời ngăn chặn tội phạm" được áp dụng với
những người chưa bị khởi tố về hình sự đối với hành vi được xác định là lí do dẫn đến
19
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với họ, còn để ngăn chặn việc "người bị buộc tội
sẽ tiếp tục phạm tội" thường được áp dụng với các bị can, bị cáo (những người đã bị
khởi tố về hình sự hoặc đã bị toà án quyết định đưa ra xét xử) khi có căn cứ cho rằng họ
sẽ tiếp tục phạm tội.
Những căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ tiếp tục phạm tội có thể xác định trên
các phương diện sau:
- Về nhân thân người bị bắt, buộc tội: Người bị buộc tội là những đối tượng có
nhân thân xấu. Ví dụ: bị can, bị cáo là những đối tượng thuộc diện lưu manh, côn đồ,
hung hãn... Bị can, bị cáo là những người đã có nhiều tiền án, tiền sự hoặc những đối
tượng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.
- Về hành vi của người bị buộc tội: người bị buộc tội đã có những biểu hiện sẽ tiếp
tục phạm tội thể hiện như đe doạ trả thù người tố giác, đe doạ trả thù bị hại, người làm
chứng như đe dọa giết, hủy hoại tài sản...và đã tiến hành trên thực tế các hành động
chuẩn bị công cụ, phương tiện hoặc các điều kiện cần thiết khác cho việc thực hiện tội
phạm và căn cứ vào các đặc điểm nhân thân xấu của họ mà xét thấy người bị buộc tội
có khả năng thực hiện được sự đe doạ đó.
Bốn là, để đảm bảo thi hành án. Trong tố tụng hình sự có thể coi thi hành án là giai
đoạn cuối cùng của tố tụng hình sự nhằm thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của tồ án. Việc thi hành bản án hoặc quyết định của tồ án có liên quan
trực tiếp đến người bị kết tội và áp dụng trách nhiệm hình sự (người bị kết án). Sự có
mặt của người bị kết án khi bản án được đưa ra thi hành là rất cần thiết, đặc biệt là đối
với người bị toà án quyết định áp dụng hình phạt tù. Nếu người bị kết án trốn tránh hoặc
có hành vi gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc thi hành án thì việc
thi hành án sẽ không thể thực hiện được. Do vậy, BLTTHS quy định để bảo đảm thi
hành án trong các trường hợp nhất định là căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn. Toà án
thường áp dụng căn cứ này trong trường hợp sau:
Đối với bị cáo trước khi mở phiên tịa xét xử khơng bị tạm giam nhưng tại phiên
tòa bị HĐXX sơ thẩm, phúc thẩm kết tội, tuyên hình phạt tù mà có căn cứ cho rằng nếu
khơng hạn chế tự do của bị cáo thì bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội, hội đồng
xét xử có thể quyết định bắt tạm giam bị cáo ngay tại phiên toà để bảo đảm thi hành án.
20
Trong các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn quy định tại Điều 109 BLTTHS
nêu trên, “để kịp thời ngăn chặn tội phạm” là căn cứ rõ ràng và trực tiếp nhất để áp dụng
biện pháp bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc giữ người trong trường
hợp khẩn cấp. Còn đối với trường hợp “người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tó xét xử hoăc sẽ tiếp tục phạm tội” thì đối tượng bị áp dụng rộng hơn và các
biện pháp ngăn chặn được áp dụng cũng đa dạng hơn. Khi xem xét, quyết định áp dụng
biện pháp ngăn chặn Trong đócơ quan, người có thẩm quyềnphải lưu ý đến tính chất của
hành vi phạm tội, những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và
những đặc điểm về nhân thân của người bị buộc tội. Cần được chú ý vận dụng để quyết
định có hay khơng áp dụng biện pháp ngăn chặn hoặc lựa chọn biện pháp ngăn chặn nào
cho phù hợp7.
Một trong số các biện pháp ngăn chặn góp phần quan trọng vào phịng ngừa tội
phạm và tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, xử lý người thực hiện tội phạm là biện
pháp “giữ người trong trường hợp khẩn cấp”. Đây là một trong những biện pháp ngăn
chặn mới được quy định tại Điều 110 BLTTHS năm 2015 thay thế cho trường hợp bắt
người trong trường hợp khẩn cấp đã quy định tại Điều 81 BLTTHS năm 2003. Sự sửa
đổi này nhằm đảm bảo phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013 “khơng ai bị bắt
nếu khơng có quyết định của tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát”.
Có thể thấy mục đích của việc quy định và áp dụng các biện pháp ngăn chặn
trong đó có biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp là để kịp thời ngăn chặn tội
phạm (ngăn chặn tội phạm không cho tội phạm đang được chuẩn bị xảy ra trên thực tế
dẫn đến gây hậu quả nguy hại cho xã hội; ngăn chặn không cho hành vi phạm tội đang
được thực hiện tiếp tục tiếp diễn; ngăn chặn kẻ phạm tội thực hiện tội phạm mới), bảo
đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định và áp dụng biện pháp ngăn chặn giữ người trong
trường hợp khẩn cấp
- Ý nghĩa Chính trị - xã hội: Việc quy định biện pháp giữ người trong trường hợp
khẩn cấp trong TTHS có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc.
Nguyễn Ngọc Anh, Phan Trung Hồi, Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015, NXB Chính trị quốc gia sự
thật, 2018, tr 226, 227
7
21
Thứ nhất, thể hiện đường lối chính sách của Nhà nước ta trong việc xử lý những
hành vi phạm tội: biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp cùng các biện pháp
ngăn chặn khác góp phần nâng cao hiệu quả quản lý xã hội bằng pháp luật, là cơ sở pháp
lý để cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tác động đến quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của công dân trong trường hợp cần thiết, nhằm đạt được mục đích của
tố tụng hình sự.
Mặt khác, việc quy định giữ người trong trường hợp khẩn cấp còn thể hiện thái độ
kiên quyết, triệt để của Nhà nước trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm, tiến tới hạn chế
và loại trừ tình trạng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội.
Thứ hai, biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp chính là sự đảm bảo cho
việc thực hiện dân chủ trong pháp luật, thể hiện sự tơn trọng và bảo đảm các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân được Hiến pháp và pháp luật quy định. Điều này thể hiện
ở bản chất của biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tuy là một biện pháp
cưỡng chế, tác động trực tiếp đến quyền tự do thân thể của công dân, nhưng lại không
nhằm xâm phạm đến thân thể họ như là sự trừng phạt về hành vi họ đã thực hiện mà chỉ
nhằm đạt được mục đích ngăn người người phạm tội và tạo điều kiện thuận lợi cho việc
giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác, có hiệu quả.
- Ý nghĩa pháp lý: giữ người trong trường hợp khẩn cấp cịn có ý nghĩa là cơ sở
pháp lý để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật khi áp dụng biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp
Việc áp dụng tuỳ tiện biện pháp như giữ không đúng đối tượng, giữ oan, sai người
không phạm tội, giữ không đúng thẩm quyền, sai thủ tục tố tụng... là những hành vi
không chỉ xâm hại đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan có thẩm quyền điều tra, truy
tố, xét xử, đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của cơng dân mà cịn làm giảm uy
tín của Nhà nước, giảm sút lòng tin của quần chúng nhân dân đối với các cơ quan áp
dụng pháp luật. Những người thực hiện các hành vi nêu trên tuỳ mức độ cụ thể đều phải
bị xử lý theo quy định của pháp luật. Kết luận chương 1 giữ người trong trường hợp
khẩn cấp là một trong những trường hợp giữ – BPNC được thực hiện bằng sức mạnh
của quyền lực Nhà nước, luôn gắn liền với sự tác động và hạn chế quyền tự do cá nhân
của đối tượng áp dụng, được áp dụng trong TTHS nhằm mục đích là ngăn chặn tội phạm,
ngăn ngừa người phạm tội trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây cản trở điều tra, truy
22
tố, xét xử, thi hành án hình sự hoặc tiếp tục phạm tội. Giữ người trong trường hợp khẩn
cấp có nhiều điểm khác biệt so với các trường hợp bắt người còn lại về đối tượng áp
dụng, thẩm quyền áp dụng, thủ tục áp dụng, văn bản tố tụng… Sở dĩ có những khác biệt
này là do pháp luật đã phân định giữ người ra thành các trường hợp bắt khác nhau dựa
trên những cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn nhất định. Việc quy định trong luật và áp
dụng các quy định của luật trong thực tiễn về giữ người trong trường hợp khẩn cấp ln
địi hỏi người làm luật và người áp dụng phải giải quyết được một cách khoa học hai
vấn đề tưởng chừng như mẫu thuẫn: làm sao biện pháp này ngày càng trở thành điều
kiện thuận lợi hơn cho quá trình tố tụng, nhưng cũng ngày càng góp phần hạn chế một
cách tối đa những khả năng dẫn đến sự vi phạm, đến việc hạn chế khơng cần thiết các
quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng bị áp dụng. Lịch sử lập pháp của Nhà nước ta
cho thấy việc xây dựng chế định về các biện pháp ngăn chặn đã thực sự qn triệt sâu
sắc tư tưởng có tính chất định hướng trên. Nếu trong một số văn bản pháp luật TTHS
đơn hành trước đây như Sắc luật 02/SL ngày 15/3/1976 của Hội đồng chính phủ cách
mạng lâm thời Cộng hồ Miền Nam Việt Nam có quy định một số trường hợp bắt khẩn
cấp như: người khơng có căn cước lý lịch rõ ràng; người đang chuẩn bị phạm tội... đã
dẫn đến hậu quả là việc bắt có tính chất tràn lan, không cần thiết, vi phạm nghiêm trọng
đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của cơng dân thì hiện nay, trong Bộ luật tố
tụng hình sự, các trường hợp nói trên đã bị loại bỏ hoặc quy định lại cho phù hợp và
chính xác hơn. Do vậy, đã phần nào loại bỏ và hạn chế đến mức tối đa những bất hợp lý
trong các quy định trước đây và đảm bảo việc bắt được chính xác, thuận lợi hơn.
- Ý nghĩa thực tiễn: Việc quy định và áp dụng biện pháp giữ người trong trường
hợp khẩn cấp cũng có ý nghĩa rất lớn trong thực tiễn:
+ Trước hết, giữ người trong trường hợp khẩn cấp là điều kiện hết sức cần thiết
không thể thiếu nhằm đảm bảo cho các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, Cơ
quan có thẩm quyền khác nhằm đạt hiệu quả, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải
quyết được những nhiệm vụ đặt ra trong các giai đoạn tố tụng một cách chính xác, nhanh
chóng, trong đó cơ bản nhất là phát hiện kịp thời, xử lý đúng người, đúng tội, áp dụng
đúng pháp luật. Lênin đã từng chỉ rõ: “tác dụng ngăn ngừa của hình phạt hồn tồn
khơng phải ở chỗ hình phạt đó phải nặng, mà ở chỗ đã phạm tội thì khơng thốt khỏi bị
23